MỘT
TÂM HỒN – Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu
(Trinh nữ TÊRÊSA
viết - KIM THIẾU dịch)
GHI NHỚ ĐOẠN ĐỜI
GIAN NAN...
(THÂN TẶNG NHỮNG TÂM
HỒN THƠ ẤU)
TRỌN BỘ
In lần thứ IV
In lần thứ IV
XUẤT BẢN
MINH ĐỨC THIỆN BẢN
27, Phan Thanh Giản - SAIGON
MINH ĐỨC THIỆN BẢN
27, Phan Thanh Giản - SAIGON
Quyển I
Lời nói đầu
Tái bản Một tâm hồn là kỳ vọng của
hầu hết những ai đã đọc Một tâm hồn xuất bản mười năm trước đây - 1950.
Khi còn sống dưới trời Âu, tôi đã
nhận được nhiều thư biên sang yêu cầu tái bản. Ba nhà sách đã xin xuất bản và
nói từ năm nay người ta đòi hỏi Một tâm hồn nhiều lắm, mà không còn.
Khi trở về nước, cuối năm vừa qua -
1959 - không mấy bạn gặp tôi mà không nhắc tới Một tâm hồn và giục giã tái bản
mau. Hôm lễ Mẹ hồn xác lên trời vừa qua, tôi lại nhận được bức thư đề ngày
11-8-1960. Trong thư có lời rằng:
“Sách Một tâm hồn của cha đã hết từ
lâu. Nhiều linh hồn khao khát để theo con đường thơ ấu Chị Thánh đã đi...”.
Những lời tâm huyết này đã kích thích
chúng tôi lắm và khiến tôi bắt tay vào việc ngay.
Vậy để khỏi phụ lòng các bạn mong đợi
quá lâu và cũng để tạ lòng mong đợi ấy, Một tâm hồn tái bản đây và mong muốn nó
chóng tới tay các bạn thân ái.
Với lần tái bản này, Một tâm hồn chỉ
có những sửa chữa một ít từ ngữ cho nhẹ nhàng để phù hợp tâm tình Chị Thánh
cách trọn vẹn. Tư tưởng và luận điệu thâm thiết trong cách diễn đạt của Chị
Thánh vẫn được thận trọng bảo tồn để giữ chân giá trị.
Cúi xin Chị Thánh Têrêsa Hài Đồng
Giêsu làm “mưa hoa hường” xuống trên các bạn để hết thảy thi đua tiến mạnh trên
Đường thơ ấu mà Người đã vạch vẽ cho các linh hồn.
Chào thân ái
Đalat, ngày 15-8-60
KIM THIẾU
Đalat, ngày 15-8-60
KIM THIẾU
Lời Đức Cha Phêrô Maria PHẠM NGỌC CHI
GIÁM MỤC ĐỊA PHẬN BÙI CHU
----------------------------------------
Bảy tháng tránh nạn, trong gian phòng
nhỏ kín, với ngọn đèn con đều đặn cháy suốt ngày, linh mục VŨ ĐỨC KHÂM đã công
phu dịch sách chuyện MỘT TÂM HỒN (Histoire d’une Âme) bằng pháp ngữ ra Quốc văn
để kỷ niệm đoạn đời gian nan.
Lời lẽ đơn giản, nhưng tha thiết. Tư
tưởng cao siêu, nhưng minh bạch. Những đặc sắc ấy trong văn chương Thánh Nữ
TÊRÊSA đã được khéo léo chuyển cả sang bản dịch. Thật quý hoá và rất đáng khâm
phục.
Tôi bất tất phải nói: Chuyện MỘT TÂM
HỒN là một kiệt tác trong chuyện các thánh xưa nay, một kiểu mẫu thánh thiện
của thế hệ này. Chuyện MỘT TÂM HỒN được dịch sang tiếng các nước nhiều nhất.
Chuyện MỘT TÂM HỒN được thiên hạ say đọc hơn hết: bất luận ngôn ngữ nào, in bao
nhiêu cũng chưa đủ, xuất bản bao nhiêu cũng không vừa. Không ai chịu thiếu
quyển sách quý hoá đó.
Chắc những ai đã đọc Chuyện MỘT TÂM
HỒN đều dễ nhận có một Học Thuyết tự nhiên, nhưng rất cao thượng, luôn luôn ẩn
hiện trong các lời lẽ, cho nên càng đọc càng hiểu, càng hiểu càng thấy say sưa
cõi lòng...
Tôi hân hoan giới thiệu cuốn sách MỘT
TÂM HỒN với hàng Giáo sĩ, Tu sĩ, Nữ tu, Học sinh, và tất cả các gia đình bất
luận Lương, Giáo. Ai đọc chuyện đó chắc sẽ cảm thấy lòng nhẹ nhàng khoan khoái,
phấn chấn như đã gần tới HẠNH PHÚC...
Mong Chuyện MỘT TÂM HỒN sẽ đem nhiều
người mạnh bạo bước vào con đường thánh thiện.
Bùi Chu, ngày 4-8-1950
PHÊRÔ MARIA PHẠM NGỌC CHI
Giám Mục Địa Phận Bùi Chu
PHÊRÔ MARIA PHẠM NGỌC CHI
Giám Mục Địa Phận Bùi Chu
----------------------------
Tháng 9 năm 1843, trên con đường dốc
và gồ ghề lên nhà Dòng thánh Bernard xây trên ngọn núi, người ta trông thấy
bước đi không nhọc, một thanh niên trạc độ 20 tuổi, dáng bộ rất tư lự và như
đang mơ mộng đắm theo một lý tưởng cao khiết của đời sống, đôi mắt nhìn sâu và
đượm nét rầu rầu, tố lộ một tính tình ôn tồn hoà nhã.
Phong cảnh đẹp oai hùng và tráng quan
chiêm của dãy núi Alpes, làm nẩy nở trong tâm hồn người trai tráng hàng trăm
nghìn tư tưởng quảng bác. Nguồn cảm dũng ứa lên như nước triều dâng, xúc động
tấm lòng tri ân Đấng Thiên Chúa uy quyền phép tắc, người thanh niên tấm tắc
khen ngợi... phải dừng bước giờ lâu và để rơi những giọt ngọc... Rồi lại bước
đi, đi tới ngọn non xây nhà Dòng. Nhà Dòng như ngọn hải đăng tung ra xa xa tứ
phía ánh sáng hy vọng và bác ái.
Cha Bề trên Dòng phải ngẩn lạ khi
nhìn người khách trẻ trung đến thăm: hình dung đẹp oai, nét mặt thẳng thắn, tỏ
rõ một linh hồn trung chính và to lớn. Cha tiếp đãi rất lịch thiệp. Cha vấn an
quý thân phụ, quý quán và quý danh. Quý danh cậu là Louis-Martin, sinh ngày 22
tháng 8 năm 1823 ở thành Bordeaux nơi từ mẫu ở hồi hiền phụ sung chức Đại uý
trong đoàn quân pháo thủ bình giặc ở Tây Ban Nha. Hiện nay gia quyến ở tỉnh
Alençon, mà cậu là trưởng tử.
Có phải vì muốn du lịch, muốn lên
thăm nhà Dòng mà người trai anh tuấn kia bước đi đường miền cảnh đẹp như ru,
nhưng xa xăm và hiểm trở? Từ Normandie đến Suisse nhiều lần phải chống gậy dò
từng bước. Không, không phải người thanh niên ấy muốn du lịch, muốn đến xin tạm
trú một đêm ở ngọn non hiu quạnh này đâu. Người thanh niên muốn xin ở tu trọn
đời.
Cha bề trên hỏi:
- Cậu đã học mãn khoá Latinh chưa.
- Lạy cha, chưa.
- Đáng tiếc thật, đó là một điều kiện
cốt yếu để nhận vào Dòng, nhưng cũng không lo, cậu về học thêm và sau chúng tôi
sẽ được hân hạnh nhận cậu.
Người khách bất mãn của chúng ta lộn
đường trở xuống. Ngày ấy cuộc đời cậu đáng gọi là cuộc lưu ly: nhưng trong tâm
trí cậu đã cảm thấy rằng: Dòng thánh Bernard chỉ là một kỷ niệm êm ái trong đời
cậu, chứ không phải là cuộc đời cậu. Cuộc đời cậu, Đức Chúa Trời đã có một
chương trình khác.
Cũng trong thành Alençon, mấy năm
sau, một buổi sáng mát dịu dàng, trên đường phố trở lại nhà Dòng thánh Vincent
de Paul, ngọn cây, ngành cây hai bên vỉa hè rung rung theo gió, xô đi giồ lại
như dùng dằng... ngần ngại... một thiếu nữ dáng thuỳ mị nết na, gương mặt tươi
tỉnh gợn nhiều nét đoan chính và can trường, tên cô là Marie Guérin, cùng với
bà mẹ nhẹ nhàng gót sen bước lại phía nhà các bà Sơ (Soeur). Lòng thiếu nữ ôm
đã lâu một chí tu tác, nhưng chợt trông thấy cô, bà Bề trên được ơn soi sáng
ngay, nên sau mấy lời niềm nở cười nói chào hỏi, bà trả lời dứt khoát rằng:
Chúa không muốn.
Cô Marie Guérin ngậm ngùi trở lại
nhà, ở cùng chị cả và một em trai - người em trai này được nhắc đến nhiều lần
trong Chuyện MỘT TÂM HỒN.
Hiểu là việc tu không thành, cô thiếu
nữ không nghĩ gì đến tu nữa. Ngày đêm cô thầm thì trong lòng lời cầu xin chất
phác này:
Lạy Chúa, con không đáng làm bạn trăm
năm Chúa như chị con, con vui lòng kết duyên trao ngãi với người thế gian để
hoàn thành ý Chúa. Trong bậc vợ chồng, xin Chúa cho con được sinh nhiều con
cái: con sẽ cho đi tu hết.
Chúa đã để dành cho cô một thanh niên
xứng đáng trao gởi hồn xác mà chúng ta vừa đọc ở trên. Và một ngày đã định,
ngày 13 tháng 8 năm 1858, trong nhà thờ Đức Bà thành Aleçon người ta thấy cử
hành trọng thể lễ cưới cô Marie Guérin đẹp duyên cùng cậu Louis Martin.
Chính chiều ngày lễ cưới, Louis
Martin đã tỏ lời tâm huyết cùng bạn trẻ: mình ước ao gìn giữ và chỉ yêu dấu bạn
như em yêu dấu nhất thôi... Nhưng qua mấy tháng tâm tình trao đổi, Louis Martin
hiểu thấu tâm ý bạn, mơ ước bạn, thì đã đồng tâm hiệp ý cùng bạn ước mơ thấy có
đàn con nhởn nhơ chơi để vui ấm cửa nhà và rồi nhẩn nha cho đi tu hết. Lúc ấy,
như thánh Tobias, đã có thể cầu xin cùng Chúa:
“Lạy Chúa, Chúa biết lòng tôi, tôi đi
kết bạn chỉ vì ước ao có dòng đõi để chúc tụng ngợi khen Chúa đời đời”.
Tổ uyên ương ấy nở được 9 bông hoa
trắng: 4 bông vừa nở, thiên đàng ngắt ngay lấy đem về làm cảnh, còn 5 bông sau
lần lượt hái dâng cho hai dòng: Dòng Kín và Dòng Thăm Viếng.
Têrêsa là út của 6 chị và 2 anh: chị
Louise, chị Pauline, chị Léonie, chị Hélène sống có 4 năm, chị Céline, chị
Mélanie Thèrèse sống được 3 tháng. Hai anh: Louis được 5 tháng và Jean Baptiste
được 9 tháng đều mất cả.
Hai anh sinh ra cũng là bởi nước mắt
và lời cầu nguyện. Sau 4 chị, cha mẹ Têrêsa thiết tha nài xin Chúa và cậy Thánh
Cả Giuse bầu cử cho nhà mình một Linh mục Truyền giáo thì lần ấy sinh được con
trai tốt đẹp đặt tên là M.J. Louis. Nhưng than ôi! Đứa bé chỉ mới ra mắt với mẹ
được 5 tháng đã vội vã về nghỉ thiên đàng.
Cha mẹ lại khẩn khoản khấn hết tuần
chín ngày này đến tuần chín ngày khác, thế nào cũng xin Chúa ban cho gia đình
một Linh mục Truyền giáo. Nhưng ý Chúa không như ý chúng ta, đường lối Chúa đi
khác đường lối nhân loại. Cha mẹ lại sinh được con trai thứ hai, thật là chứa
chan hy vọng, và cái đau đớn, chưa đầy 9 tháng, đứa bé lại theo anh về thiên
đàng.
Thôi, thế là xong! Cha mẹ Têrêsa
không hy vọng gì có con đi truyền giáo nữa.
A! Phải mà lúc đó, cha mẹ Têrêsa biết
được tương lai rực rỡ vẻ vang của con gái út sẽ sinh sau, đoán được phần thưởng
trọng hậu Chúa sẽ trả công lòng ước ao truyền giáo của mình. Người con gái út
ấy sẽ được Hội Thánh tặng phong là Thánh Sư các nơi truyền giáo, đồng hàng vinh
dự cùng thánh Phanxicô Xaviê, thì vui sướng chừng nào?
Về cô gái út này, một văn hào giá trị
đã viết:
“Têrêsa là một vị truyền giáo lạ lùng
của đời nay, có tiếng nói đanh thép và vô địch, có cuộc đời vui tươi và dịu
ngọt mãi, linh hồn nào đã có lần được nếm mùi dịu ngọt ấy quyết không còn muốn
giam cầm mình trong vũng nước bùn lạnh hôi tanh tội lỗi”.
Về cha mẹ Têrêsa, một cha dòng Tên đã
viết trên đầu cuốn chuyện MỘT TÂM HỒN dịch sang tiếng Bồ Đào Nha trước nhất lời
đề tặng này:
“Muôn đời kính nhớ Thân phụ phúc hậu
chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu, đáng là mô phạm cho bậc làm cha mẹ trong các gia
đình Công giáo”.
Câu đề tặng đó, đủ để khen ngợi quý
thân phụ Têrêsa, khen ngợi cái tinh thần Truyền Giáo muôn cách cũng bằng khen
ngợi cái tinh thần giáo hoá đàn con nên lành thánh.
Lần lượt trong các chương sau đây của
Chuyện MỘT TÂM HỒN, chúng ta nghe Têrêsa nhẩn nha kể lể rất khéo léo sự thể gia
đình Người, con đường Người tu đức và nên thánh, nên trọn lành.
Chúng ta sẽ được hứng vui và được
kích thích rất mạnh trên đường nhân đức.
Quần Phương, ngày 24-4-1948
KIM THIẾU
KIM THIẾU
TRUYỆN MÙA XUÂN
BÔNG HOA NHỎ TRẮNG
Kính gởi Mẹ Đáng Kính Agnès de Jésus
(Chị ruột Người, Pauline)
VI 6-1-1961
Lạy Mẹ Đáng Kính, nay con xin kể hầu
Mẹ Chuyện Tâm hồn con. Hôm Mẹ bảo con viết chuyện, mới đầu, con tưởng việc đó
sẽ phân tâm con nhiều; nhưng rồi Chúa cho con hiểu cứ vâng lời Mẹ là đẹp lòng
Chúa. Vậy hôm nay con bắt đầu hát những sự mà con phải ngân nga hát đời đời
lòng Chúa thương xót...
Trước khi cầm bút viết, con đã quỳ
dưới chân tượng Đức Mẹ Nữ Vương thiên đàng. Đấng đã yêu dấu gia đình nhà ta
cách riêng. Con xin Đức Mẹ cầm tay con, đừng để con viết dòng nào mà chẳng vừa
lòng Mẹ. Đoạn mở sách Phúc Âm, con nhìn ngay thấy những lời này:
Lúc ấy Chúa Giêsu đứng trên núi,
Người gọi những kẻ Người yêu lại với Người . Ấy chính là sự mầu nhiệm về
ơn Chúa gọi con, về cả đời con sống, nhất là về những đặc ơn Chúa ban cho linh
hồn con.
Chúa không gọi những người đáng gọi,
một gọi những người Chúa yêu, quả như lời thánh Phaolô đã nói: “Đức Chúa Trời
thương kẻ Người muốn thương, tỏ lòng lành với kẻ Người muốn tỏ lòng lành
. Vậy chẳng phải bởi việc ai muốn, hay công ai chạy, một chỉ bởi lòng Chúa
thương xót thôi” .
Lâu nay con vẫn vấn tâm sao Chúa lại
có những cách biệt đãi ấy, sao các linh hồn không được chịu ơn Chúa bằng nhau?
Con lạ lùng thấy Chúa ban nhiều ơn cả thể cho những người rất tội lỗi như thánh
Phaolô, Augustinô, Madalena và nhiều đấng khác, nói được là Chúa ép ơn cho. Con
lạ lùng nữa, lúc đọc chuyện thánh, thấy Chúa mơn mớn yêu dấu nhiều linh hồn từ
buổi sơ sinh cho đến lúc chết, không để cuộc đời các đấng ấy phải vấn vương một
ngăn trở nào làm khó dễ sự kết hiệp chí thiết cùng Chúa; cũng không để tội lỗi
làm hoen ố chiếc áo trắng sạch phép rửa tội.
Con hỏi mình cớ sao lại có nhiều
người, chẳng hạn những người rợ mọi phải chết vô số, chết mà chưa được nghe nói
tên cực trọng Đức Chúa Trời lần nào?
Đức Chúa Giêsu đã dạy con lẽ sâu
nhiệm ấy.
Người mở ra trước mắt con quyển sách
thiên nhiên là phong cảnh trời đất. Ngắm cảnh thiên nhiên, con nhận thấy rằng
tất cả những hoa Chúa dựng nên đều xinh đẹp hết: màu hồng hoa mân côi, và sắc
trắng phau phau hoa huệ, cũng không át được mùi thơm hoa má tía, cũng không làm
mất vẻ đơn sơ xinh tươi hoa cúc tây. Phải rồi, nếu tất cả những hoa tý tý ấy
lại muốn làm hoa hồng cả, thì cảnh thiên nhiên sẽ mất vẻ đẹp lý thú mùa xuân,
các cánh đồng sẽ chẳng còn muôn hoa rực rỡ nở.
Ấy cảnh trời thiêng của giới linh hồn
cũng thế.
Trong vườn sống này, Chúa dựng nên
những vị đại thánh để sánh với hoa huệ, hoa hồng. Chúa lại dựng nên những thánh
nhỏ, giống như hoa cúc đơn, hoa má tía để Chúa vui lòng lúc nhìn xuống chân
thấy cảnh trời đất tưng bừng đẹp đẽ...
Hoa nào càng vui theo thánh ý Chúa,
càng nên trọn lành tốt đẹp.
Con hiểu thêm điều này: Một linh hồn
dầu rất mộc mạc đơn sơ, nếu không cưỡng ơn Chúa, Chúa cũng yêu quý như yêu quý
linh hồn đấng thánh cả. Vì chưng, sự tự nhún là riêng tính của tình yêu. Nếu
linh hồn nào cũng cả thể như linh hồn các thánh tiến sĩ làm thơm danh Thánh
Hội, và Chúa chỉ nhún mình xuống tới những linh hồn ấy thôi, thì chưa kể là đã
nhún đến cùng. Song Chúa đã dựng nên trẻ thơ con nít, chẳng biết gì, chỉ biết
khóc oe oe, Chúa đã dựng nên người rợ mọi, chỉ biết sống theo luật tự nhiên và
Chúa đã nhún mình xuống tận những linh hồn ngây thơ ấy.
Những linh hồn ngây thơ chất phác
này, chính là những hoa nở ngoài đồng, mà vẻ đơn sơ mộc mạc làm say lòng Chúa,
và bởi sự tự nhún dường ấy, Chúa đã tỏ ra quyền cả vô cùng của Chúa. Như mặt
trời, một trật soi sáng cây hương nam và cây hoa nhỏ, mặt trởi thiêng liêng
cũng soi sáng cho từng linh hồn lớn nhỏ tuỳ sức chịu đựng của mỗi một: Tựa hồ
trong cảnh thiên nhiên hoa cúc đơn tuy là thứ hoa rất mọn, mà Chúa cũng đã an
bài rõ ràng ngày nào là ngày hoa ấy nở.
Thưa Mẹ, con dám chắc Mẹ phải bỡ ngỡ
tự vấn: Con muốn nói chi thế này, viết tới đây, mà chưa thấy gì về chuyện đời
con. Nhưng Mẹ đã chẳng bảo con rằng cứ viết tự nhiên, viết theo trí khôn nghĩ?
Vì thế đọc những trang viết đây Mẹ sẽ chẳng thấy chuyện đời con rõ rệt bằng
những tư tưởng của con về ơn Chúa đã khứng ban cho con.
Bây giờ đây, con có thể quay nhìn lại
đoạn đời dĩ vãng. Linh hồn con đã thành kiên nhẫn vì những gian nan trong ngoài
mà con đã trải qua. Ngày nay, như chiếc hoa sau trận bão, ngẩng đầu lên con
nhận thấy đã ứng nghiệm nơi con những lời này trong Thánh Vịnh:
“Đấng chăn dắt tôi là Chúa, tôi không
phải thiếu gì. Người cho tôi nằm nghỉ trong các đồng cỏ xanh rờn và tươi tốt;
Người êm ả dẫn tôi đi theo dọc suối nước. Linh hồn tôi theo dõi Người mà chẳng
thấy mệt... Dù khi tôi bước xuống thung lũng u ám bóng sự chết, tôi cũng không
lo ngại vì đã có Chúa hằng ở cùng tôi” .
Vâng, đối với con, Chúa vẫn dịu dàng
thương xót và rất êm ngọt, hay nhịn và nhân từ lắm! . Bởi thế, thưa Mẹ,
con rất hân hạnh được đến gần Mẹ để ngợi hát khong khen những ơn hải hà Chúa
ban.
Con viết chuyện “Bông hoa nhỏ” Chúa
đã hái, là viết để mình Mẹ đọc, con phải nghĩ thế mới nói cho thoả được, nói mà
không cần văn vẻ; nói lạc chạc thế nào cũng không sao. Một con trẻ dù bập bẹ
chưa lên tiếng, lòng mẹ vẫn hiểu thấu ý con mình muốn nói. Con tin chắc con
cũng được Mẹ hiểu và đoán ra hết những ý tứ lời lẽ mà con muốn nói...
Nếu hoa nhỏ kia mà biết nói, thiết
nghĩ nó sẽ nói thật thà những ơn Chúa thương ban cho nó. Nó chẳng cần phải giấu
giếm gì hết. Nó chẳng vịn cớ khiêm nhường mà bảo mình là vô duyên vô nhị, mặt
trời làm mình phai màu nhợt sắc, mưa bão làm mình giập nát rũ rợi, mà tựu kỳ
trung, lòng nó lại nghĩ khác, nhận định khác.
Cái hoa kể chuyện mình đây, vui mừng
hân hạnh được cao rao những hồng ân Chúa tô điểm cho thân thể mình nên xinh
đẹp. Nó nhận biết thân phận nó chẳng có gì cho đáng Chúa nhìn đến. Chúa rộng
lòng thương chỉ vì Chúa yêu dấu nó thôi. Chúa đã cho nó sinh nở trong đất
thánh, đất được tẩm nhiễm khí vị đồng trinh. Trong khối tình yêu muôn thuở,
Chúa đã gìn giữ nó cho khỏi hơi độc thế gian và khi nó vừa chớm nở, Chúa đã
đánh ngay đem trồng trên đỉnh núi Carmel, một nơi Đức Mẹ Đồng Trinh đã kén chọn
cách riêng.
Thưa Mẹ, con đã toát yếu trong ít lời
những ơn Chúa ban cho đời con. Bây giờ con xin kể rành mạch quãng đời thơ ấu.
Con biết trước rằng quãng đời thơ ấu này, người ngoài đọc thì chán ngắt, nhưng
Mẹ đọc, trái tim Mẹ sẽ rung cảm thấy thú, thấy hay.
Và đây, những ghi nhớ mà con sắp nhắc
lại, cũng là những ghi nhớ của Mẹ, bởi vì được cùng Mẹ, con đã qua sống những
ngày thơ ấu, và thân phụ đã yêu dấu chiều chuộng con cũng như yêu dấu chiều
chuộng Mẹ.
Ôi! Ước chi thân phụ làm phép lành
cho đứa con út và giúp nó ngợi khen lượng xót thương hải hà của Chúa.
Lòng người mẹ
Chuyện “Tâm Hồn Con” từ bé cho đến
khi vào Dòng Kín có thể phân ra ba giai đoạn rõ rệt: Giai đoạn thứ nhất, tuy
không lâu dài gì, nhưng cũng lắm điều, đáng nhớ; giai đoạn này kể từ khi con có
trí khôn cho đến khi mẹ yêu dấu về thiên đàng; hay nói cách khác, cho đến khi
con được bốn năm, tám tháng.
Đức Chúa Trời đã cho con trí khôn rất
sớm. Người ghi tạc rất sâu vào ký ức con những việc xảy ra trong hồi thơ ấu,
đến nỗi nay con còn nhớ như việc mới xảy bữa qua. Sở dĩ Chúa muốn con biết và
quý mến người mẹ khôn sánh mà Chúa đã ban cho con. Thảm thương! Chính tay Chúa
lại đã cất mẹ về thiên đàng sớm quá!
Suốt đời con, Chúa chỉ những thương
cùng yêu con lắm. Những kỷ niệm đầu tiên đời con nhuộm toàn màu vui tươi và đẫm
tình yêu đương mơn trớn. Bên ngoài Chúa để con được chiều chuộng nâng hứng cho
hoà nhịp bên trong: Một trái tim non mềm mại, rất dễ yêu và dễ cảm. Không ai có
thể tưởng tượng được lòng con yêu mến cha mẹ đến chừng nào. Con đã dùng ngàn
cách để tỏ tình yêu, tha thiết ấy: Con không thể yêu mà không tỏ tình; nhưng
những cách con tỏ tình khi ấy, nay nghĩ lại đến phải bật cười.
Thưa Mẹ, Mẹ đã trao cho con xem một
ít thư Mẹ viết cho mẹ trong hồi Mẹ còn là chị Pauline lưu học ở trường các bà
Dòng Thăm Viếng tỉnh Mans. Con còn nhớ nguyên văn những thư ấy. Con có thể kể
lại đây dễ dàng một ít đoạn thư Mẹ viết, thường thường là Mẹ nói khen con.
Những lời khen ấy, chẳng qua cũng chỉ bởi lòng yêu của người mẹ: Con hát Mẹ
khen hay, điều đó dĩ nhiên không lạ.
Để làm chứng lời con nói về cách tỏ
tình yêu mến cha mẹ, đã có chính lời Mẹ viết trong mấy thư sau đây:
“Con bé tinh nghịch không ai bằng. Nó
đến hôn mẹ, rồi chúc cho Mẹ chết: ‘A Me ơi, con ước ao Me chết lắm!’. Người ta
mắng nó nói láo, nó tỏ vẻ bỡ ngỡ rồi chữa mình: ‘Con chúc thế để mẹ lên trời,
vì mẹ đã bảo có chết mới lên Trời được!’ hễ khi nó yêu cha quá, nó cũng chúc
cha chết như thế”.
Con láu lĩnh ấy không rời mẹ lúc nào;
theo mẹ cả ngày, và được theo như thế lấy làm sung sướng lắm, nhất là lúc nó
theo mẹ ra vườn. Khi mẹ về nó cũng chẳng thèm ở vườn. Nó đòi cho kỳ được người
ta đem nó về với mẹ mới thôi. Lúc lên thang, cũng không chịu lên một mình, mỗi
bước lại mỗi lần: Mẹ ơi! Mẹ ơi! Bao nhiêu bậc, bấy nhiêu tiếng Mẹ ơi. Mà nếu
nhỡ lần nào mẹ quên trả lời “ừ con ơi!” Là nó đứng lỳ lại, không lên mà cũng
không xuống nữa.
Khi con sắp lên ba, Mẹ đã viết những
lời này:
... Một hôm, con Têrêsa hỏi mẹ xem
mình có được lên thiên đàng không, mẹ trả lời: “Được, nếu con ngoan” - A! Thưa
mẹ, nếu con không ngoan, con phải xuống hoả ngục à? Nhưng con đã có cách này:
khi mẹ lên trời, con cũng theo mẹ, rồi mẹ ôm rõ chặt con vào lòng, thế Chúa làm
gì mà gỡ được con ra.
Mẹ trông mặt nó bấy giờ có vẻ tự đắc
lắm: nó mà ẩn trong cánh tay mẹ, Chúa chẳng làm gì được nó.
Con Marie cũng yêu em lắm. Têrêsa
thật là trẻ làm vui cả nhà. Nó ngay thật lạ lùng: trông nó chạy theo mẹ mà thú
tội rõ ngoan: “Mẹ ơi, con giẩy chị Céline một lần con đánh chị một lần, nhưng
rầy đi con không dám hỗn thế nữa”.
Hễ bao giờ nó làm một tý gì không
phải, chẳng mấy chốc ai ai cũng biết hết: như hôm qua nó vô ý làm rách một tý
giấy hoa dán ở tường, nom bộ nó khốn nạn lắm, nó mong được thú ngay tội với
cha. Bốn giờ sau cha mới về, lúc ấy chẳng còn ai nghĩ đến việc nó làm rách
giấy, thế mà nó chạy ngay lại với chị Marie, nói: “Chị ra mách cha cho em ở nhà
làm rách giấy”. Rồi nó đứng sững ra như một tội nhân đứng đợi tuyên án phạt
mình; nhưng nó chắc bụng rằng nó thú tội rồi thế nào cũng được tha.
Nhắc đến tên Cha, con lại sực nhớ đến
mấy điều rất vui. Hồi ấy, khi cha đi đâu về, bao giờ con cũng chạy ra đón, rồi
ngồi lên giày cha. Cha cứ để con ngồi vậy mà bước đi, đi khắp cả nhà, ra cả
vườn, đi mãi đến bao giờ con muốn thôi mới thôi. Một lần mẹ trông thấy phì cười
và kêu cha chiều con quá. Cha trả lời:
- “Khốn, nó là Công Chúa, biết sao
được”.
Rồi cha ẵm con vào lòng, lại nâng lên
thật cao, lại để ngồi xuống vai mà hôn và vuốt ve mơn trớn đủ cách dấu yêu
chiều chuộng.
Tuy nhiên cũng không nói được là cha
nuông con đâu. Con nhớ một lần, con đang chơi đu vui thích lắm, cha đi qua gọi
con rằng:
- Công chúa cha ơi, lại hôn cha nào.
Không hiểu sao hôm ấy con không muốn
lại, con đứng yên đấy và thưa hỗn xược:
- Cha lại đây kia.
Cha đã xử rất phải: Không lại.
Chị Marie cũng đang chơi ở đấy, mắng
con:
- Em mất dạy, thưa cha hỗn thế à?
Lập tức, con xuống khỏi đu, nhận mình
phải mắng là quá phải. Rồi có tiếng khóc ăn năn tội ầm ĩ cả nhà. Con lên ngay
trên gác, lần này không dám mỗi bước lại mỗi mẹ ơi nữa; con chỉ để trí nghĩ đến
tìm được cha mà làm hoà với cha. Con đã làm hoà được ngay.
Một khi con thấy mình đã làm mất lòng
cha mẹ, con không thể để thế lâu được. Sự biết nhận lỗi, đối với con chỉ là
việc trong giây phút. Chính mẹ đã kể rõ tính ấy trong chuyện sau đây:
“Có một sáng, mẹ muốn hôn Têrêsa rồi
mới xuống gác. Xem như nó còn ngủ mệt, mẹ không dám làm nó thức dậy; song chị
Marie nó thưa: “Mẹ ơi, con chắc em giả cách ngủ đấy!”. Mẹ liền cúi hôn mặt nó,
nó kéo ngay chăn lên trùm kín cả mặt rồi nói lụng bụng: “Chẳng cần ai thăm nom
con hết!”. Mẹ đã không bằng lòng cử chỉ ấy và cũng làm nó hiểu thế. Hai phút
qua, đã nghe thấy tiếng khóc, và nhanh không ngờ, quay lại mẹ thấy nó đã đứng ở
bên, nó dậy một mình và đi chân không xuống gác lụng thụng trong chiếc áo ngủ
dài hơn người. Nước mắt đầy mặt, nó lăn vào lòng mẹ van lơn: “Mẹ ơi, lạy mẹ,
con láo quá, mẹ tha cho con nhé!”. Mẹ tha ngay, mẹ lại ôm con bé ngoan vào
lòng, ôm chặt và ôm mãi”.
Tình chị em
Thưa Mẹ, con còn nhớ khi ấy con mến
chị Marie lắm. Chị mới mãn học ở trường Dòng Thăm Viếng về. Tuy bề ngoài con
không tỏ dấu gì, nhưng con đã biết lắm: Con để ý từng việc xảy ra và từng lời
người ta nói mà con nghe được. Có lẽ bấy giờ con cũng đã biết nhận xét công
việc như bây giờ. Con chăm chỉ nghe chị Marie dạy chị Céline học. Con đã phải ở
rất ngoan và vâng lời các chị mọi đàng, mới được phép ở lại phòng trong giờ các
chị học. Chị Marie lại hay cho quà con, quà thường nhưng cũng đủ làm con vui
thích.
Con có thể nói, vì hai chị mà con đã
được hiên ngang nhiều. Chị Pauline hồi ấy đi vắng xa, nhưng con nhớ chị cả
ngày. Khi con vừa biết nói, hễ lần nào mẹ hỏi con nghĩ gì đấy, con cũng thưa:
- Con nghĩ chị Pauline!
Có khi con nghe nói chị Pauline sẽ đi
tu, mà dù chưa hiểu tu là gì, con cũng bảo mình: “Tôi cũng đi tu”.
Đó chính là một trong những ghi nhớ
trước nhất của đời con. Trở đi từ đó, con không hề đổi ý đi tu. Thế là từ hai
tuổi, con đã được trông gương chị con mà trìu mến BẠN các kẻ đồng trinh.
Ôi thưa Mẹ, đối với Mẹ, còn biết bao
tâm tình êm ái, tư lự dịu dàng mà con ước ao bày tỏ ra đây, nhưng sợ dài lời...
Chị Léonie cũng chiếm một phần lớn
trong trái tim con. Chị yêu con lắm. Chiều chiều đi học về, chị thường ở nhà
giữ em để cả nhà đi chơi mát. Để ru con ngủ, chị hay ngâm nga hát lắm bài rất
hay, cung giọng trong trẻo, hình như bây giờ con còn đang nghe tiếng chị hát
phảng phất bên tai. Con không thể quên cái ngày chị chịu lễ lần đầu; con còn
nhớ cả cô con gái nhà nghèo, là bạn thân chị mà mẹ đã may áo mới cho để mặc
ngày ấy, như thói lành những nhà khá giả trong tỉnh Alençon.
Cô bạn, suốt ngày vui mừng ấy, không
rời chị Léonie một phút. Đến tối lúc ăn tiệc mừng, cô được hân hạnh ngồi ghế
danh dự chính giữa!
Thảm hại con quá! Bấy giờ còn bé
không được vào dự tiệc; nhưng đến khi ăn món ăn tráng miệng, con cũng được
thông công bữa tiệc một chút, là ơn cha thương hại công chúa người, có đem cho
công chúa một miếng bánh ngon ngoan quá.
Bây giờ con nói về chị Céline, bạn
chí thiết cùng con từ nhỏ. Với chị, con nhớ nhiều điều lắm, đến nỗi không biết
chọn mà nói điều nào. Hai chúng con nên một lòng một ý cùng nhau luôn. Con tuy
có phần tỉnh táo hơn chị, nhưng lại thua chị ở lòng thật thà.
Thưa Mẹ, đây là một bức thư làm chứng
chị Céline hiền lành mà Têrêsa tinh nghịch dữ tợn. Thư này Mẹ viết khi con chưa
tới ba tuổi, chị Céline đã tới sáu năm rưỡi:
“Con Céline ngoan ngoãn dễ dạy,
Têrêsa nghịch như giặc, không biết rồi sau ra thế nào. Nó bé tí mà đáo để lắm:
Trí khôn rất sáng, nhưng không nhu mì hiền lành như chị được phần nào, nhất là
có chứng cứng cổ hầu như bất trị. Lúc nào nó đã không, chẳng còn ai bảo được nó
nữa, giá bỏ tù một ngày mà bắt nói có, nó cũng không nói, nó thà ngủ trong tù
còn hơn?”.
Con còn một nết xấu mà không thấy Mẹ
nói trong các thư Mẹ viết: lòng tự ái quá lẽ. Hai chuyện sau đây đủ chứng minh:
Một hôm, ý chừng mẹ muốn biết lòng
kiêu căng của con đến chừng nào, mẹ cười bảo con rằng:
- Têrêsa con ơi! Nếu cúi xuống hôn
đất, mẹ sẽ cho con một xu.
Một xu, với con khi ấy, là cả một cơ
nghiệp. Mà để lấy đồng xu ấy, con cũng chẳng phải cúi gì mấy, vì từ mình con
xuống tời đất, có xa cách bao nhiêu đâu. Thế mà lòng kiêu hãnh nổi lên ngay,
con đứng ngay người lại và thưa thẳng thắn:
- Ôi thưa mẹ, nhất định không, thà
chẳng có xu thì chớ.
Một lần cả nhà về quê thăm bà con
thân thích. Mẹ bảo chị Marie lấy áo đẹp nhất vận cho em nhưng đừng vận thứ áo
hở cánh. Khi ấy con không nói gì và làm ra chuyện dửng dưng không thiết như các
trẻ nhỏ khác; song trong lòng đã lụng bụng:
- Giá cho vận áo hở cánh, có xinh hơn
không?
Với tính nết ấy, con trộm nghĩ, nếu
phải tay cha mẹ không có nhân đức, không biết dạy con, có lẽ con đã là đứa xấu
nết dữ tợn lắm, và mất linh hồn cũng chữa biết chừng. Song Chúa đã gìn giữ vị
hôn thê nhỏ của Chúa. Người đã dùng những tính hư nết xấu ấy để làm lợi cho con
lắm, vì chưng được kìm hãm sớm, những tính nết ấy đã giúp con tấn tới rất nhiều
trên nẻo trọn lành.
Bởi con vừa có lòng tự ái, vừa có
lòng mến việc lành, nên chỉ cần bảo con một lần không nên làm thế, đủ rồi, con
không hề tái phạm nữa. Con thấy Mẹ nói trong các thư rằng con càng lớn, càng
làm cho mẹ vui lòng, con vui sướng quá! Âu bởi con hằng được xem gương sáng
trước mặt, nên đã bắt chước mà làm được cách tự nhiên dễ dàng.
Năm 1876, Mẹ đã viết những lời sau
đây:
“Đến con Têrêsa cũng đua làm việc
lành! Chị Marie cho riêng em một cỗ tràng hạt để đếm việc lành. Chúng nó hội
nhau mà diễn thuyết về đạo nực cười lắm. Một lần Céline giảng rằng: ‘Sao Đức
Chúa Trời lại có thể ngự trong hình bánh nhỏ thế được?’. Têrêsa thưa:
- Chẳng lại gì điều ấy, bởi vì Đức
Chúa Trời phép tắc vô cùng! - Phép tắc vô cùng nghĩa là gì? - Nghĩa là Chúa
muốn làm gì cũng được!
Nhưng còn điều này lý thú hơn nữa:
Têrêsa mỗi ngày thò tay vào túi đến trăm lần để lần hạt, tính việc lành đã làm.
Hai đứa không thể rời nhau và đã dủ
dê chơi cùng nhau cả ngày. Người vú cho Têrêsa một con gà sống và một con gà
mái nhỏ; con bé liền biếu chị con gà sống. Ngày nào cũng cơm xong, thì chị nó
đi bắt con gà sống, mà bắt gà sống thì được cả gà mái một trật. Thế là hai chị
em đem nhau lại ngồi bên lò sưởi, chơi không còn biết chán.
Có một sáng Têrêsa tự tiện bỏ giường
lại nằm chung với chị Céline. Khi người vú đến giường để vận áo cho, thấy
giường không, trông ra mới biết nó đang nằm chung với chị. Nó liền ôm chặt lấy
Céline, hôn và nói:
- Để kệ em, vú Louise xem này, hai
chúng em như hai gà mái trắng, không thể rời nhau được!”
Sự thật, bấy giờ con không thể ở đâu
mà không có chị Céline ở với; dù khi ăn cơm, con chưa kịp ăn món tráng miệng,
nếu thấy chị Céline đứng dậy, con cũng đứng dậy không ăn nữa. Con thà bỏ dở bữa
ăn để chạy đi chơi với chị thì thích hơn.
Ngày Chúa nhật, bởi con còn bé, chưa
đi lễ được, mẹ thường ở nhà với con. Những khi ấy, con ăn ở rất ngoan ngoãn,
con đi lại rất dón dén; nhưng thoạt khi thấy mở cổng là con mừng rỡ lắm: con
chạy ngay ra đón chị yêu dấu của con, con reo mừng hỏi chị:
- A! Chị Céline! Bánh phép cho em
đâu?
Phải một lần chị không có... làm sao
được? Con thì con không có thể mà nhịn cho qua đâu, vì con lấy bánh phép làm lễ
Missa của con. Bỗng dưng một ý nghĩ hay vụt trong óc:
- Vậy chị không có bánh phép, chị lãy
làm cho có đi!
Chị con liền mở tủ lấy bánh cắt một
miếng, rồi tay cầm, miệng trịnh trọng cúi xuống đọc kinh Kính Mừng, trao cho
con chịu lấy. Con vừa làm dấu thánh giá, vừa ăn rất sốt sắng, ăn ngon lành, như
ăn bánh phép.
Một ngày kia, chắc là chị Léonie nghĩ
mình lớn rồi không tiện chơi em phỗng nữa. Chị cầm cả cái rổ con của chị đầy
những áo, những mụn vải đẹp và nhiều đồ quý hoá khác, có cả em phỗng đang nằm
trơ hơ ở trên, chị đến với hai chúng con mà bảo rằng:
- Cho hai em chọn, em nào muốn lấy gì
thì lấy!
Chị Céline nhìn, rồi chọn lấy
búi chỉ lụa ngũ sắc. Còn con, con nghĩ một giây, rồi nói:
- Em chọn ráo!
Con vừa nói, vừa vơ lấy cả rổ, cả em
phỗng.
Cử chỉ thơ ngây này coi như một toát
yếu cuộc đời con. Đến sau, khi con đã biết ái mộ đàng nhân đức, con hiểu rằng
muốn nên thánh, cần phải chịu đau khổ nhiều, phải luôn luôn tìm sự trọn hảo
nhất, phải quên mình đi cho hẳn. Đàng trọn lành thánh thiện có nhiều bậc, mỗi
linh hồn được tự do tiến tới theo ơn Chúa, được tự do hành động nhiều ít tuỳ sở
nguyện; tắt một lời, được tự do chọn trong những cách hy sinh mà Chúa muốn.
Vậy, như hồi thơ ấu, con đã kêu cùng
Chúa rằng:
Lạy Chúa, con chọn ráo; con không
muốn làm thánh nửa vời; con chẳng sợ như thế thì phải chịu khổ sở nhiều vì Chúa
đâu, con chỉ sợ điều này là không bỏ được ý riêng con thôi. Xin Chúa nhận lấy ý
riêng con, bởi vì con chọn tất cả những sự Chúa muốn, con chọn trót ý Chúa.
Một chiêm bao
Nhưng, thưa Mẹ yêu dấu, con lại sảng
sốt: đang kể chuyện lúc ba bốn tuổi, con nói xiên đến chuyện khi đã nhơn nhớn.
Trong giai đoạn thứ nhất này, con
chiêm bao một điều mà nay vẫn còn nhớ rõ ràng lắm:
“Con chiêm bao đi bách bộ một mình ở
vườn, bỗng thấy hai thằng quỷ con rất xấu xí, đang thoăn thoắt nô nhảy ở trên
thùng vôi gần giàn cây mát mặc dầu chân chúng vẫn còn đeo xích sắt rất nặng.
Hai thằng trợn mắt đỏ như lửa nhìn con; rồi như kinh khiếp, rúc cả vào thùng.
Chúng lại chui ra lối nào không biết mà cắm đầu cắm cổ chạy lẫn vào nhà giặt ở
đàng đầu vườn. Thấy hai quỷ nhát như cáy, con muốn theo dõi xem chúng còn giở
trò gì. Con đánh bạo chạy lại nhòm cửa sổ... Hai quỷ bí lối tẩu thoát, chạy
quẩn quanh trên bàn giặt nhưng vẫn không tránh được mắt con. Thỉnh thoảng,
chúng lại gần cửa sổ, sợ sệt ghé mắt nhìn qua cửa kính, mà thấy con còn đứng
đấy, thì lại hoảng sợ chạy như thất vía”.
Đành rằng chiêm bao chẳng có gì là;
nhưng con tin rằng Chúa đã dùng chiêm bao này để tỏ cho con biết một linh hồn
có nghĩa với Chúa, chẳng phải sợ gì lũ quỷ: chúng hèn lắm, nhát sợ cả cái nhìn
của đứa trẻ nít.
Ôi! Thưa Mẹ, trong tuổi này, lòng con
tràn ngập vui sướng; chẳng những cảnh đời vui cười niềm nở với con mà đàng nhân
đức cũng ru lòng con dịu dàng lắm. Xưa cũng như rầy, hình như tâm hồn con vẫn
giữ một thái độ, vẫn làm chủ quyền trong mọi việc làm. Bởi vậy từ bé con đã tập
được thói quen không hề phàn nàn khi ai lấy gì của con; hay khi bị cáo gian
cũng không kêu ca một điều. Con quý sự ở lặng hơn sự chữa mình. Con không có
công gì ở chỗ đó, tự nhiên con giữ được thế thôi.
Tuy những năm nhuộm ánh hồng rực rỡ
ấy, những năm tươi như hoa nở của tuổi thơ trôi đi mau lẹ, nhưng vẫn còn ghi
dấu êm dịu và mát thơm ở hồn con, tưởng trọn đời không hết mùi hương vị!...
Con vui sướng nhớ lại những ngày cha
dẫn đi thăm trại ngoài thành; nhất là những ngày Chúa nhật, con được theo mẹ đi
dạo mát, qua những cánh đồng lúa bát ngát xanh tươi, chen thêm những bông hoa
sặc sỡ trắng, vàng, đỏ... Con ngắm cảnh nên thơ và mỹ lệ trời đất, mà lòng cảm
xúc mạnh mẽ sâu xa lắm, nay tưởng như vẫn còn được xem trước mắt.
Tuổi ấy, con đã biết thú ngắm phong
cảnh xa xa, trông trời đất cao rộng, nhìn cây cổ thụ um tùm to lớn! tắt, rằng
cảnh thiên nhiên tốt đẹp đã làm say lòng con lắm, nâng rước tâm hồn con lên tới
cõi Thiên Thai.
Đi chơi mát hay gặp kẻ khó, nên mẹ đã
giao cho con công tác mang tiền làm phúc. Nhận công tác ấy, lòng con rất vui
sướng. Nhiều lần sợ đi xa quá mệt công chúa nên cha dẫn con về trước. Con không
thích thế tý nào, nhưng cũng phải vâng ý cha. Và chị Céline như để an ủi con,
đi chơi về thường đem cho con một rổ đầy hoa sặc sỡ.
Ôi! Thực khi ấy thế gian niềm nở cùng
con quá! Mọi cái mọi vui tươi: con đi bước nào cũng gặp hoa, hoa nở tưng bừng!
Lại cái tính vui vẻ của con càng giúp cho đời sống: người vui cảnh lại vui
thêm.
Nhưng một giai đoạn mới sắp sửa vén
màn.
Chúa GIÊSU, đã chọn con làm vị hôn
thê sớm lắm, nên tự sớm lắm, con đã phải chịu đau khổ. Ví như hoa tiết xuân bắt
đầu nẩy mầm dưới sương tuyết, đợi ánh nắng mặt trời mọc mới nở bông thế nào,
thân hoa mọn viết chuyện đây, cũng phải trải qua một tiết đông đau lạnh, phải
chịu đựng trong đài hoa non những hạt sương lệ sầu thể ấy...
Đầu cuối câu chuyện mẹ bệnh, và nhất
là mấy tuần lễ sau hết mẹ sống ở thế gian, nay con còn nhớ hết.
Hồi ấy, chị Céline và con như hai đứa
trẻ phải đi đày! Sáng nào bà X... cũng đến đón chúng con về nhà bà.
Hai chúng con ở đấy cả ngày.
Một lần hai chị em chưa kịp đọc kinh
sáng, đã phải ra đi; chị Céline vừa đi vừa khẽ bảo con:
- Có nên thú chưa đọc kinh không?
- Ô! Nên lắm chứ. Con trả lời.
Bấy giờ, chị con mới nhút nhát tỏ sự
ấy cùng bà X... Bà bảo ngay chúng con rằng:
- Thế thì chúng con đọc kinh đi đã.
Chúng con liền vào một gian phòng
rộng lớn, còn bà thì lảng ra chỗ khác. Thấy vậy, chị Céline bỡ ngỡ nhìn con;
con cũng bỡ ngỡ nhìn chị và nói:
- Bà không được như mẹ! Mẹ, bao giờ
mẹ cũng kèm chúng ta đọc kinh kia mà.
Suốt ngày, dù người ta dùng trăm cách
để làm khuây khoả chúng con, nhưng cũng không thể làm chúng con thôi nghĩ đến
mẹ luôn luôn. Con nhớ một lần người ta cho chị Céline quả mơ chín, chị liền ghé
vào tai con nói:
- Chúng ta đừng ăn, để chị đem về cho
mẹ.
Ôi! Khi ấy mẹ mệt lắm rồi, còn ăn gì
được hoa quả thế gian nữa, chỉ còn đợi về thiên đàng, để hưởng no đầy sự vui
mừng cả sáng Đức Chúa Trời, và uống rượu mầu nhiệm cùng Đức Chúa Giêsu, thứ
rượu mà Chúa đã nhắc đến trong bữa tiệc ly, và hứa sẽ chia phần nào cho chúng
ta trên nước Cha Cả.
Con cũng nhớ tất cả những lễ phép rất
cảm động khi Thầy cả làm phép Xức dầu thánh cho mẹ; con còn trông thấy chỗ
người ta bảo con quỳ; con còn nghe thấy những tiếng cha nức nở khóc...
Hôm sau ngày mẹ chết, tức là ngày 28
tháng 8 năm 1877, thọ 46 tuổi, cha bế con vào phòng để xác mẹ và bảo rằng:
- Con vô hôn mẹ con lần sau hết!
Con chẳng nói được lời nào, chỉ lặng
lẽ cúi xuống hôn mặt đã lạnh lẽo!...
Con không nhớ có khóc mẹ lắm không.
Con cũng chẳng nói cùng ai những tâm tình lâm ly thống thiết đầy ngổn ngang
trong lòng. Con cứ lặng lẽ đứng nhìn và nghe xem các công việc. Con xem được cả
những sự người ta muốn giấu con. Có một lúc, chỉ có mình con đứng trước quan
tài đặt ở ngoài hè; con ngắm một lúc lâu sự xưa nay con chưa từng thấy mà con
cũng hiểu được! Khi ấy con bé quá, phải nghển mãi mới nhìn thấy hết quan tài.
Quan tài to lắm mà cũng bi đát lắm!...
Mười lăm năm sau, lại có lần con đứng
trước một quan tài, quan tài Mẹ Đáng Kính Geneviève lập Dòng Kín Lisieux. Khi
này lòng con lại bồi hồi thổn thức sự xưa? Bao nhiêu kỷ niệm xé ruột lại diễn
ra trong trí. Ấy cũng là Têrêsa nhỏ xưa mà nay đã lớn, đã biết coi quan tài là
nhỏ, không phải nghển cổ mà nhìn như xưa, chỉ phải nghển cổ mà ngắm nền trời
cao sáng lộng lẫy đẹp thôi. Gian nan cơ cực của đời đã hun chín, đã tôi luyện
kỹ lưỡng linh hồn Têrêsa rồi, đời chẳng còn gì khó có thể làm Têrêsa nản lòng
và mất vui được nữa.
***
Cái ngày Hội Thánh làm phép xác mẹ và
an táng; Đức Chúa Trời không nỡ để con mồ côi quá; Người cho con một mẹ khác và
cho chọn tuỳ ý.
Khi ấy chị em chúng con cả thảy là
năm người, mặt ủ mày chau, buồn bã nhìn nhau. Thấy thảm cảnh nhà đương tan nát,
người vú cũng rầu lòng thương hại, quay nhìn chị Céline và con mà nói rằng:
- Khốn nạn, các cô không còn mẹ nữa!
Chị Céline liền chạy ngay vào lòng
chị Marie mà nói:
- Chị nhé! Chị làm mẹ em đấy!
Con xưa nay vốn hay làm theo chị
Céline, thấy chị nhận chị Marie làm mẹ, cũng toan bắt chước chị như thế; nhưng
nghĩ lại nếu vậy thì chị Pauline buồn vì thấy mình trơ trọi không có em nào
nhận. Cho nên, thưa Mẹ, con liền nhìn Mẹ, nhìn cách yêu dấu, rồi ngả đầu vào
ngực Mẹ, con nói:
- Em nhận chị Pauline làm mẹ!
Như trên con đã nói, từ giai đoạn
này, con đã bước sang đoạn đời thứ hai, đoạn đời phải nếm mùi đau khổ nhiều hơn
và càng đau khổ hơn nữa từ ngày chị Pauline mà con đã nhận làm mẹ lại bỏ con,
đi vào Dòng Kín. Đoạn đời đau khổ này dài vắn cũng ngót mười năm. Trong tuổi 14
này con lại khôi phục được tính vui vẻ khi xưa và càng am hiểu rõ rệt lẽ nhân
tình thế thái ở đời.
Thưa Mẹ, Mẹ cũng biết khi mẹ vừa mất,
tính nết con liền đổi hẳn.
Trước con vui vẻ, hay nghịch, hay
nói, bấy giờ ra nhút nhát hiền lành và rất đa cảm: Chỉ một cái nhìn cũng đủ làm
mếu khóc, nên hơn hết con ước ao đừng ai săn sóc trông nom gì con nữa. Nhà đông
khách đến chơi, con cũng bứt rứt khó chịu. Con chỉ còn vui được khi có chị em
nhà ở cùng nhau thôi.
Trong gia đình, con vẫn được cha và
các chị thương yêu chiều chuộng lắm. Lòng cha yêu lũ con đã thắm thiết, nay lại
giấu thêm cả tình yêu thắm thiết của tấm lòng mẹ; các chị cũng tận tình yêu em
như mẹ thương con.
Ôi! Nếu Chúa không giãi những tia
sáng yêu thương thể ấy xuống thân hoa mọn này, lẽ nào hoa mọn này còn sinh sống
được ở thế gian. Bởi thân hoa còn non nớt, chưa có sức chịu đựng những trận mưa
to gió lớn, nên cần phải được ấp ủ trong bầu không khí ấm áp, có sương sa mát
mẻ, có hơi gió xuân nhẹ nhàng phe phẩy; dầu khi phải trải qua những trận tuyết
gian nan, những ơn kia cũng vẫn man tràn đầy dẫy.
Trong trại Buissonnets, gà sống nuôi
con
Qua ít ngày, gia đình bỏ tỉnh
Alençon, dọn về ở tỉnh Lisieux gần nhà cậu ruột, sở dĩ là để nhờ mợ đỡ cha coi
sóc đàn con côi cút.
Phần con, thấy đổi sang ở Lisieux
cũng chẳng buồn, lại theo tính tình tự nhiên còn vui thích là khác. Đến nay,
con vẫn còn nhớ cuộc hành trình di cư lần ấy, đi mãi gần tối mới đến nhà cậu.
Mợ với hai em Jean và Marie đã thấy đứng đón ở cổng. Con thấy cậu mợ và các em
tỏ tình nghĩa yêu quý gia đình nhà ta như thế, cảm động quá!
Ngày hôm sau, cậu đưa cha con nhà
sang ở nhà mới trong trại Buissonnets, một nơi tĩnh mạc gần vườn chơi mát quen
gọi là Vườn sao.
Địa thế nhà mới phong quang lắm: nhà
có sân trên mái, đứng đó nhìn được rất xa. Trước nhà có vườn cảnh, sau nhà có
vườn trồng rau. Địa thế đẹp và quang đãng này đem lại cho trí tưởng tượng ngây
thơ của con một cảnh vui thú. Trong ngôi nhà đã biến thành rạp hát ấy, trên sâu
khấu đã phô diễn biết bao cảnh vui buồn thương nhớ của gia đình, tưởng không
bao giờ nhạt lòng tri niệm. Vả lại, như đã nói ở trên, con là đứa đi đày, không
khỏi khóc, không khỏi nhớ rằng mình đã mất mẹ rồi; nhưng ở nơi đây, lòng con
lại cởi mở, đời sống lại tươi cười vui vẻ.
Mỗi sáng thức dậy, các chị đến hôn
con rồi cho con ngồi đọc kinh bên các chị. Chị Pauline lại dạy con đọc sách.
Con nhớ rằng khi con biết đọc một mình, con đã đọc tiếng TRỜI trước hết. Tập
đọc xong, con lên ngay trên gác chỗ cha thường ngồi. A! lần nào được điểm tốt
đem lên khoe cha, con vui sướng quá!
Chiều chiều, con thường được theo cha
đi chơi mát, rồi vào nhà thờ viếng Mình Thánh, hôm nay nhà thờ này, hôm mai nhà
thờ khác. Nhân thế mà con được vào viếng Chúa ở nhà nguyện Dòng Kín lần thứ
nhất. Lần ấy, cha bảo con rằng:
- Này! Con xem bên trong phên sắt,
hàng có các bà Dòng thánh thiện cầu nguyện cả ngày.
Phải mà khi ấy con biết nghĩ rằng
chín năm sau, con sẽ được vào ở với các bà và trong nhà thánh này, Chúa sẽ ban
cho con nhiều ơn cả thể!
Đi chơi về, con làm bài; làm bài
xong, còn tí thì giờ nào, con chạy ra vườn nô chơi quyện quanh bên cha. Con
không biết chơi em phỗng. Cái vui chơi của con khi ấy là đi nhặt nhạnh những
hạt, những vỏ cây mà nấu nước. Khi nước nấu đã thành sắc đẹp, con rót vào chén
nhỏ coi ngon lành ai cũng muốn dùng, con bưng mời cha uống. Cha chiều con thật,
bỏ ngay việc đấy, tủm tỉm cười, làm ra bộ uống rất ngon lành.
Con cũng thích cấy hoa, thích chơi
bày bàn thờ ở góc tường xây bao vườn. Bày bàn thờ xong, con chạy đi mời cha lại
xem. Để chiều ý con, cha đứng ngắm nghía, rồi khen lao và khéo léo mỹ thuật!
Thưa Mẹ, nếu con kể đến ngàn điều nữa, vị tất đã hết các điều con nhớ. Thật
không lẽ nào nói hết những cách cha quý yêu chiều chuộng công chúa cha được!
Những ngày tươi đẹp của đời con, cũng
là những ngày con được vua yêu dấu - con thích gọi cha bằng tên ấy - cho theo
đi câu cá. Cũng có bận con vác cần câu nhỏ của con đi tập câu: thường thường
con thích ngồi xa trên đám cỏ hoa lăn tăn, những khi ấy trí khôn con ngẫm nghĩ
rất xa xăm, và tuy chưa biết nguyện ngắm, linh hồn con cũng như mê mệt trong
việc trao đổi tình ý thâm thiết cùng Chúa. Rồi rừ xa xa con nghe như có tiếng
ai nói, có tiếng gió đưa rì rào, thỉnh thoảng xen lẫn tiếng nhạc nhà binh trong
tỉnh phảng phất bay ra như mơ hồ, như não nùng làm ngao ngán lòng người câu cá,
lòng khách xa lạ.
Trong những giây phút buồn vui lơ
lửng ấy, con cảm thấy rõ rằng thế gian là chốn lưu đày, bơ vơ... Lòng lại mong
mỏi về nơi phúc lạc!
Những buổi chiều thơ mộng ấy rất
chóng vắn, chưa chi đã phải thu dọn trở về trại. Nhưng trước khi thu dọn về,
con mở thúng nhỏ lấy bánh ăn. Khốn nạn! bánh nhân mức các chị mới làm đẹp thế
mà đã nhợt hết màu; con thấy bánh không còn ngoan lành như trước, lại trông như
cũ và ỉu, thì nhân đó lại sinh lòng chán ngán thế gian hơn. Con hiểu chỉ có sự
mừng vui thiên đàng mới khỏi vầng mây u ám.
Nói đến mây, con nhớ một hôm trời
đang thanh quang, tạnh ráo, bỗng rừng mây đùn lên đen nghịt cả vòm trời, rồi
cơn mưa kéo đến, rồi chợp loè, rồi sét đánh râm ran tứ phía. Khi ấy không chợp
mắt, con quay nhìn tứ tung để kịp xem hết cảnh oai hùng của Tạo Hoá, thì một
tiếng sét nổ vang trời ở cánh đồng bên chỗ con ngồi, nhưng con chẳng khiếp chút
nào, lại có phần thinh thích. Con có cảm giác như Chúa trời đất đang ở gần con.
Cha không thích như con, người lại cầm tay con dắt về. Bấy giờ cỏ cùng những
cây hoa cao hơn con mọc ở bờ ruộng, đều đã ướt cả, lóng lánh như dát đá ngọc
quý. Hai cha con còn phải đi qua nhiều ruộng cỏ nữa mới lên tới đường về. Tuy
đã phải mang xách những đồ câu, cha cũng còn cõng con. Ngồi trên lưng cha, con
cúi nhìn những hạt nước óng ánh như kim cương mà tiếc không được ướt đẫm cả
mình.
Lòng thương kẻ khó
Con chưa nói khi đổi về Lisieux, cũng
như khi còn ở Alençon, những khi đi chơi mát hàng ngày, con thường đem tiền để
bố thí cho kẻ khó.
Một chiều kia, gặp ông lão đi nạng
khệnh khạng, con lại gần đưa cho ông một đồng tiền. Ông cứ nhìn con, nhìn buồn
bã rồi bằng một nụ cười đau đớn, ông lắc đầu không lấy. Con không thể nói được
nỗi lòng thổn thức của con khi ấy; ý con muốn an ủi và giúp đỡ ông một chút,
hay đâu lại làm ông thêm tủi, thêm phiền?
Chắc ông đã đoán được tâm sự con, nên
một lúc sau, ông đã quay lại nhìn con rồi mỉm cười.
Cùng lúc ấy, cha vừa cho con một
chiếc bánh, con muốn chạy ngay đem cho ông lão. Bụng bảo dạ:
- Ông không muốn lấy tiền, chắc ông
vui lòng lấy bánh.
Rồi không hiểu tại sao, con đâm lo sợ
không dám chạy lại nữa, ruột gan bồn chồn thổn thức quá! Con không cầm nổi nước
mắt. Cho đến khi sực nhớ tới câu người ta thường nói hôm chịu lễ lần đầu muốn
xin Chúa ơn gì cũng được, lòng con mới yên yên. Dù mới sáu tuổi, lúc ấy con
cũng bảo mình rằng:
- Hôm chịu lễ lần đầu, tôi sẽ cầu
nguyện cho ông này.
Qua năm năm sau, con đã giữ trọn lời
hứa ấy, con vẫn đinh ninh lời con cầu xin cho phần thân thể đau đớn này của
Chúa, đã được khứng nhận và tán thưởng.
Con càng lớn, lửa mến Chúa càng cháy
mạnh mẽ trong linh hồn con. Con năng đọc kinh mẹ đã dạy khi xưa để dâng lòng
cho Chúa. Trong mọi việc làm con chỉ cố làm đẹp lòng Chúa và giữ ý kẻo mất lòng
Chúa cách nào. Phải một hôm con phạm một lỗi đáng tội kể lại đây. Lỗi ấy, nghĩ
đến mà xấu hổ, nhưng con tin mình đã ăn năn đền tội đủ.
Tháng 5 năm 1878 vì còn bé, chị
Pauline không cho con theo chị đến nhà thờ thông công việc kính Đức Mẹ. Con
phải ở nhà với người vú. Ở nhà, con rủ người vú làm việc kính Đức Mẹ ở bàn thờ
riêng con đã bày: Bàn thờ bé, thành ra các đồ thờ phượng cũng bé, chân nến bé,
lọ hoa bé, vv...
Chỉ hai ngọn nến bé con đốt lên cũng
đủ soi sáng tất cả. Thỉnh thoảng vú Victoire muốn tiết kiệm nến nhỏ của con, có
đem cho con vài khúc nến to, nhưng cũng năm chừng bảy hoạ mới có một lần.
Một hôm, lúc sắp bắt đầu việc tháng
Đức Mẹ, con bảo vú rằng:
- Xin vú xướng kinh Lạy Thánh Nữ để
em đốt nến.
Vú đã giả cách như xướng kinh, rồi
lại nhìn con mà cười phì lên. Con thấy nến của con cháy hao lắm, một lần nữa
con giục vội vú đọc kinh Lạy Thánh Nữ nhanh đi. Vú không đọc! Vú cứ cười sặc
sụa! Bấy giờ con mới giận quá đứng ngay dậy, quên hẳn cái tính hiền lành mọi
khi, con giậm chân giậm tay kêu ầm ĩ rằng:
- Victorie! Vú dữ tợn thế!
Người vú liền thôi cười, ngẩn nhìn
con, rồi thò tay vào túi áo lấy ra hai khúc nến to đưa cho con. Khốn nạn! trước
con đã khóc vì giận dữ, bây giờ lại khóc vì hối hận! Con xấu hổ quá, tự thẹn
thuồng và đã quyết chí không có lần như thế nữa.
Xưng tội lần đầu
Ít lâu sau, con được dọn mình xưng
tội lần đầu. Thật là một kỷ niệm rất dịu dàng êm đẹp!
Thưa Mẹ yêu dấu, khi ấy Mẹ bảo con
rằng:
- Hỡi em Têrêsa, nay em đi xưng tội;
em xưng với Chúa, chẳng phải là xưng với người nào thế gian.
Con cũng đã biết điều ấy lắm, nên con
có thưa lại Mẹ một cách thận trọng rằng có phải trình với Cha Ducéllier: con
mến người hết lòng không, bởi vì con trình với người điều ấy cũng như trình với
Chúa vậy.
Khi đã học biết đủ các lẽ cần dọn
mình kỹ càng xong, con vào quỳ trước toà xin tội. Cha giải tội mở cửa toà không
thấy ai hết. Bởi con thấp quá đầu chưa tới nơi vịn cửa toà. Cha liền bảo con
đứng dậy mà xưng. Con vâng đứng ngay, ngẩng mặt nhìn thẳng mặt người. Con xưng
hết các tội và chịu phép giải tội cách sốt sắng lắm. Con nhớ lời Mẹ đã dạy
trước rằng trong giây phút nghiêm trọng ấy, nước mắt Chúa Giêsu sẽ rửa sạch
linh hồn con. Nay con vẫn còn nhớ những lời cha khuyên bảo, nhất là cha tha
thiết khuyên con sự sốt sắng kính mến Đức Mẹ Đồng Trinh; con đã hứa cùng cha
xưa nay con vẫn yêu mến Đức Mẹ, nhưng rầy đi con sẽ yêu dấu Người gấp bội.
Đoạn con đưa tràng hạt nhỏ của con
xin Người làm phép, rồi bước ra khỏi toà, trong lòng khoan khái nhẹ nhàng! Con
chưa cảm thấy được vui mừng thể ấy bao giờ.
Bấy giờ trời đã tối.
Khi về qua cột đèn, con ngừng chân
lại, móc túi lấy tràng hạt vừa làm phép ra xem, ngắm nghía mãi. Mẹ liền hỏi
con:
- Em Têrêsa ngắm nghía gì thế?
- Em xem tràng hạt làm phép xem thế
nào?
Câu nói tự nhiên ấy đã làm Mẹ vui
cười lắm!
Phần con, con đã giữ được ơn phép
Giải tội rất lâu, và trở đi từ đó, con năng xưng tội các ngày lễ trọng. Con có
thể nói, lần nào xưng tội xong, lòng con cũng được an ủi và rất vui mừng.
Các Lễ Trọng!... A! Biết bao kỷ niệm
thơm tho ấp ủ trong tiếng Lễ Trọng!... Con thích những ngày Lễ Trọng lắm! Hồi
ấy, Lễ Trọng nào Mẹ cũng giải nghĩa sự mầu nhiệm cho con nghe. Những ngày ấy ở
khách đày, đối với con, vui như những ngày vui thiên đàng. Nhất là con thích
những ngày kiệu Thánh Thể!
Còn sướng gì bằng sướng được tung hoa
dưới chân Chúa!
Bao giờ con cũng có ý tung rõ cao,
cho hoa chạm Mặt Nhật đã, rồi hãy rơi xuống thì lòng mới thoả.
Những Lễ Trọng. Ôi! Nếu những lễ
trọng hoạ hiếm mới có, thì tuần nào cũng có ngày Chúa nhật! để thoả lòng con
rồi.
Tưng bừng sáng sủa thay ngày Chúa
nhật! Ngày phụng sự Thiên Chúa, ngày nghỉ ngơi việc phần xác.
Ngày Chúa nhật nào tất cả nhà cũng đi
xem lễ hát. Con nhớ mỗi khi đến lúc giảng, lại phải tìm chỗ ở giữa nhà thờ mà
ngồi để nghe cho dễ; ngồi gian cạnh, xa toà giảng quá không nghe được. Mà mỗi
khi tìm được chỗ, cũng không phải là dễ. Nhưng bởi ai ai cũng có lòng vị nể hai
cha con, nên sẵn sàng nhường chỗ. Cậu thấy hai cha con cùng có chỗ thì mừng.
Cậu hay gọi là tia sáng nhỏ của mặt trời, và nói pha trò rằng trông vị lão già
đạo mạo khả kính, cầm tay con gái nhỏ dắt đi, như trông một bức hoạ đẹp lý thú!
Phần con, ai nhìn mặc ai, con chỉ cầm
trí nghe giảng. Bài giảng mà con hiểu được trước hết là bài giảng cuộc tử nạn
Chúa Cứu Thế. Tuy con mới hơn năm tuổi, con cũng cảm động sâu xa. Và tự đấy về
sau, nghe giảng lần nào con cũng hiểu được cả.
Một lần kia, khi giảng về Mẹ thánh
Têrêsa, cha liền cúi xuống khẽ bảo con rằng:
- Con cầm trí nghe, đang nói về thánh
quan thầy con đấy.
Con vẫn cầm trí; song xin nói thực
rằng con hay nhìn cha hơn nhìn diễn giả. Diện mạo cha tốt đẹp, nói cùng con
nhiều sự lắm; thỉnh thoảng hai mắt cha ứa lệ, cha cố giữ mà không giữ nổi, phải
để tràn ra.
Khi nghe giảng về những chơn lý đời
đời, cha hình như không còn phải là người dương thế nữa, linh hồn cha như đã
bay xa về thế giới khác, chìm đắm trong cõi phúc đâu đâu! Nhưng hỡi ôi! Đường
đời còn dài, cha còn phải phiêu lưu lâu mới về tới quê thật; cha còn phải sống
nhiều năm đau khổ nữa, mới đến ngày được thấy cửa trời mở, được thấy Chúa giơ
tay gạt nước mắt cho đầy tớ trung trực Người...
***
Con trở lại câu chuyện ngày Chúa
nhật.
Ngày Chúa nhật vui thì vui thật, song
mau chóng lắm, lại cũng không khỏi có sự buồn; con chỉ vui được tự sáng đến khi
đọc kinh tối (Complies), rồi trở đi tâm tình buồn lại vẩn lên trong mình. Con nghĩ
đến ngày mai cũng lại có thế: Lại sống, lại làm việc, lại học bài, mà chạnh
lòng ngao ngán kiếp phù sinh, mãn và ước ao mau mau về an nghỉ chốn đời đời, để
vui sống ngày Chúa Nhật trường cửu trên Quê Thật.
Lần nào cũng thế, khi đi nhà thờ về,
mợ cũng mời các cháu vào chơi tối ở nhà mợ, lần thì cháu này, lần thì cháu
khác. Đến lượt con, con rất vui. Ở nhà mợ, cậu kể chuyện cho nghe rất thú;
chuyện nào cậu nói cũng hay, cũng có vị. Chắc khi ấy cậu không nhận được con
chú ý nghe chuyện cậu thế nào. Có nhiều chuyện nghe vừa thích vừa ghê ghê, nhất
là lúc cậu yêu cháu, cho ngồi lên gối cậu rung đùi hát bài “Bộ Râu Xanh” hát
tiếng to ghê sợ, con rợn cả mình!
Phỏng 8 giờ, cha lại đón con về. Lúc
về đường, nhìn lên nền trời muôn sao nhấp nhánh đẹp xinh, lòng con rạo rực
khoái trá quá. Con nhìn thấy trên ngọn trời chót vót một đám sao sáng như ngọc
óng ánh xếp thành hình chữ T..., thì lòng càng vui sướng, con nói cùng cha
rằng:
“Cha ơi! Cha xem tên con đã viết ở
trên trời kìa!”.
Đã thấy trời, con chẳng muốn nhìn xem
đất nữa; con thưa với cha để người dắt con đi, con cứ ngẩng mặt nhìn trời sao
mà chẳng biết mỏi, cũng chẳng biết chân mình bước làm sao.
Những buổi tối mùa đông
Những buổi tối mùa đông ở trại
Buissonnets. Ôi! Con biết nói sao bây giờ! Vui thú lắm! Các chị hết đánh cờ,
lại đọc sách, khi thì đọc sách “Lễ nhạc quanh năm”, khi thì đọc những sách gì
hay và có ích. Trong những cuộc vui gia đình ấy, con thường được ngồi vào lòng
cha; và khi đọc sách xong, bao giờ cha cũng hát, tiếng rất hay, hát những bài
êm tai dịu lòng lắm, dường như để ru con ngủ. Con gục đầu vào ngực cha, cha lắc
lư ôm con yêu dấu chừng nào!...
Chơi đoạn, cả nhà lại lên gác đọc
kinh. Ở trên gác con vẫn được ngồi bên cha, con chỉ cần nhìn cha cũng biết được
cách các thánh cầu nguyện.
Đọc kinh xong, chị Pauline đưa con đi
ngủ; lần nào đến bảy giờ con cũng hỏi chị:
- Hôm nay em có ngoan không?
- Chúa có bằng lòng em không?
- Các thiên thần nhỏ có bay lượn
chung quanh em không?
Bao giờ chị cũng trả lời có; nếu mà
không thưa có, có lẽ con khóc cả đêm.
Hỏi xong bấy nhiêu điều, các chị hôn
con, rồi mới để Têrêsa bé tí nằm ngủ một mình trong phòng tối!
Con coi như một ơn trọng được tập bạo
dạn tự thủa bé. Nhiều khi tối, chị Pauline còn sai con lại buồng xa lấy cái nọ,
cái kia. Thưa Mẹ, bấy giờ Mẹ đã bảo, thế nào cũng phải đi; với con đó là điều
cần thiết lắm, chẳng vậy không làm sao cho con khỏi được tính rát quá lẽ; nhưng
ngày nay làm sợ hãi được con là tất cả một việc rất khó.
Con thường vấn tâm làm sao Mẹ đã khéo
dạy con thế! Yêu thì rất yêu, mà không làm con hư. Con hiểu là vì Mẹ đã không
làm ngơ cho con một lỗi nào, lại cũng chẳng khi nào mắng con vô cớ, và điều gì
Mẹ đã bảo là phải y một phép, nói rồi không nói lại.
Chị Pauline lại là người tâm sự của con;
bao nhiêu tình ý tha thiết trong lòng, con đều tỏ hết cùng chị; gặp nghi nan gì
cũng nói để chị giải thích cho an lòng. Một lần kia con hỏi chị rằng:
- Em lạ! sao Chúa không ban sự vui vẻ
cả sáng cho các thánh bằng nhau; e rằng các thánh chẳng được trọn vui tất cả.
Chị liền bảo con đi lấy cái cốc uống
nước của cha, đặt cốc ấy bên một tách nhỏ, chị rót nước vào đầy cả cốc, cả
tách, rồi hỏi con cái nào đầy hơn.
Con thưa chị:
- Em xin cái nào cũng đầy cả, cái nào
cũng không thể đổ nước thêm được nữa, vì hết sức chứa rồi.
Bấy giờ chị giảng nghĩa cho con hiểu
ở trên thiên đàng cũng vậy, vị thánh nhỏ nhất không phân bì phúc trọng của đấng
thánh cả, đấng nào cũng được trọn phúc trọn vui hết thảy. Thí dụ này đã mở lối
cho con hiểu thêm nhiêu lẽ sâu nhiệm khác. Chị đã nuôi linh hồn con bằng của ăn
cần thiết và rất bổ vậy.
Điềm lạ
Hằng năm, khi gần đến ngày phát
thưởng, lòng con rạo rực mừng vui lắm; tuy chỉ có mình con là thí sinh, mà bài
thi vẫn chấm rất thẳng. Con chỉ được những phần thưởng đáng được mà thôi.
Lần nào đứng nghe tuyên bố kết quả,
lần nào tiến lên lĩnh thưởng và vòng hoa bởi tay Vua cha trước mặt toàn gia
đình, tâm hồn con cũng hồi hộp quá; con có cảm tưởng như phải đứng trước toà
phán xét.
A! Khi thấy cha vui vẻ như thế, lẽ
nào con đoán được rằng sau này cha con phải nhiều nỗi gian nan tân khổ; song đã
có một ngày Chúa cho con xem điềm lạ; dường như triệu chứng rõ rệt sự gian nan
đau đớn đang đến.
Vậy hồi ấy, cha đi vắng xa chưa thể
về được. Một hôm vào lúc hai ba giờ chiều, mặt trời nắng gay gắt, cảnh vật tưng
bừng như ngày hội, một mình con đang đứng bên cửa sổ trông ra vườn lòng trí
những liên miên nghĩ chuyện đâu đâu, thì thoát chốc, trông thấy ở đàng trước
nhà giặt đối diện nơi con đứng, một người ăn vận giống hệt cha, tầm thước và
điệu bộ cũng như cha mọi đàng, chỉ khác điều này là coi bộ già hơn cha và khom
lưng hơn.
Con nói già hơn là nói đại khái khổ
người coi như thế, chứ con không nom được rõ mặt đâu, vì đầu ông ấy đã trùm kín
một khăn vải đầy.
Ông bước đi thong thả, bước đều đặn,
đi đường dọc vườn. Bỗng rưng cả người con giợn lên ghê quá, con thét lên một
tiếng to và kinh hãi:
- Cha! Cha!
Nhưng ông lạ kia hình như không nghe
thấy tiếng con kêu, cứ nhẩn nha lừ lừ bước đi, đi cho đến bụi cây thông ở đầu
lối vào vườn. Con ráng đợi xem ông có qua bụi thông mà trở lại không, thì thôi,
chẳng còn thấy ông nữa! Điềm sấm đã biến mất!
Các sự này xảy ra nhanh chóng trong
chốc lát; một chốc lát mà cũng in sâu vào ký ức con, đến nay tuy đã bao năm
trường, mà mắt như còn đang xem hình người lạ trước mắt.
Thưa Mẹ, khi ấy chị Marie đang ở
phòng bên cạnh cùng Mẹ. Nghe tiếng con gọi cha, cả hai chị cũng giật mình sợ
hãi. Chị Marie trấn tĩnh ngay, chạy sang hỏi con:
- Cha còn đang ở Alençon, sao em lại
gọi cha như thế?
Con liền kể lại cho chị nghe điềm lạ
con vừa xem thấy; rồi như để dỗ con đừng sợ, chị bảo con rằng ý chừng người vú
đội vạt áo lên đầu để nhát em đấy, đừng sợ.
Nhưng gọi vú Victoire ra hỏi, vú bảo
vú có ra khỏi bếp lúc nào đâu, và lại, sự thật đã sáng rõ trong trí con rồi:
con đã trông thấy một người, và người ấy giống hệt như cha.
Bấy giờ ai nấy cũng chạy lại đàng sau
bụi thông thử xem có gì không, thì chẳng thấy gì. Mẹ liền bảo con đừng nghĩ đến
nữa.
Đừng nghĩ đến nữa!
A! Cái đó con không có thể. Con không
muốn nghĩ, mà luôn luôn trí vẽ cứ hình dung người lạ ra trong óc; luôn luôn con
cố khám phá ra sự bí mật ấy. Ở thâm tâm, con vẫn tin rằng rồi đây sẽ có ngày sự
bí mật ấy phải tiết lộ tỏ tường.
Thưa Mẹ yêu dấu, nay Mẹ đã hiểu sự bí
mật ấy rồi; ấy chính là cha mà Chúa đã cho con xem thấy đó; xem thấy trong hình
dung một ông lão khom lưng vì nặng tuổi, diện mạo uy nghi khả kính, đầu trắng
xoá in dấu đau thương của kiếp phong trần đày đoạ. Như nhan thánh Chúa Giêsu
phải che trong tuần chịu nạn, dong nhan đầy tớ trung thực này cũng phải che
giấu trong những ngày thê thảm, để có ngày càng thêm vinh quang chói loà rực rỡ
trên nơi cả sáng thiên đàng.
Ôi! Chúa xử đãi con nhân hậu dường
nào! Người cho con xem trước cây thánh giá quý trọng ấy, khác thể cha hiền kia
cho con mình biết trước phần cơ nghiệp đã sắm cho mai sau; mà chính cha, bởi
yêu dấu con, cùng hả lòng, hả dạ lúc nhìn xem của cải để làm phần gia tài cho
con cháu.
Nhưng trí khôn con lại nghĩ rằng, sao
Đức Chúa Trời đã tỏ sự ấy cùng một con trẻ, mà giả như nó hiểu được, có lẽ sẽ
chết vì đau đớn.
Sao thế?
Đó là một trong những mầu nhiệm ta
chỉ có thể hiểu ở trên trời để đời đời cảm mến ngợi khen quyền phép Chúa.
Lạy Chúa tôi, Chúa khoan nhân lân ái
dường nào! Chúa hàng lựa sức con mọn mà gởi cho đau khổ, thánh giá. Hồi ấy, dầu
nghĩ mà thôi con cũng chưa có can đảm để nghĩ rằng rồi đây, sẽ có ngày cha phải
chết.
Một ngày kia, cha đang ở trên ngọn
thang, con thì đứng ngay dưới chân thang. Cha bảo con rằng:
- Công chúa cha đứng xa ra, kẻo cha
ngã đè bẹp con mất.
Con cảm thấy cả một sự phản động nổi
lên trong mình, con càng bước lại gần chân thang với ý nghĩ:
- Nếu cha ngã, ít là mình được chết
theo cha, để khỏi cái đau đớn đứng nhìn cha chết.
Lòng con yêu mến cha, con không thể
nói hết! Con cảm phục cha lắm lắm. Một lần kia cha cắt nghĩa cho con như cho
một người đã lớn tuổi nghe tư tưởng của cha trầm mặc về những việc quan trọng.
Con đã thưa cha cách ngây thơ thật thà rằng:
- Lạy Chúa, cha mà nói những lẽ khôn
ngoan cao thượng cùng các quan trong nước, nhất định các ngài sẽ bầu cha làm
vua ngay, và nước Pháp, sẽ được thịnh vượng hơn khi nào hết; nhưng cha sẽ phải
khổ, vì sự khổ là số phận chung các nhà vua. Và rồi cha cũng chẳng còn là vua
riêng của mình con nữa. Nhân thế, chớ gì nhà nước đừng để ý đến cha thì hơn.
Trên bãi biển
Khi đã sáu bảy tuổi, con mới được xem
biển lần thứ nhất. Cảnh uy hùng vô cùng ấy xúc động tâm hồn con rất mạnh mẽ sâu
xa. Lòng con suy chẳng mỏi, mắt con nhìn chẳng chán: mênh mông bát ngát tiếng
muôn sóng gầm ầm ầm như cao rao quyền cả phép tắc vô lượng vô biên của Chúa
trời đất muôn vật.
Con nhớ lần chơi biển này có hai ông
bà nào cũng để mắt nhìn con mãi, lại hỏi cha rằng:
- Có phải con bé nhà ông đấy không?
Gớm, cô em xinh quá!
Cha liền làm hiệu để họ đừng khen.
Con hiểu ngay và cũng mừng vì con chẳng cho mình là xinh đẹp gì. Lại các chị
cũng giữ gìn ý tứ để con khỏi phải nghe những lời nói có thể làm mất sự thật
thà đơn sơ tự nhiên của con. Con cũng chỉ tin lời các chị thôi nên ai nói hay
dở thế nào, nhìn ngắm làm sao cũng mặc. Con kể như không và cũng chẳng nghĩ gì
đến.
Buổi chiều ấy, lúc mặt trời như lặn
xuống tắm mát trong biển bao la sóng nước, còn vương lại nơi chân trời một
luồng sáng trắng vàng dịu dàng. Con cùng chị Pauline lại ngồi chơi trên một
ghềnh đá thanh vắng; con cứ chăm chú nhìn theo luồng sáng vàng đẹp ấy mà chị
bảo là hình bóng ơn Chúa soi đàng dẫn lối cho các kẻ lành vượt biển hiểm thế
gian. Khi ấy lòng trí con như muốn tung bay lên giữa giãi sáng, phất phới như
chiếc thuyền lan nhẹ, có cánh buồn trắng xinh xinh nhởn nhơ trôi... Và con
quyết tâm không một giây phút nào dám để thuyền con rời mắt Chúa, cho thuyền cứ
việc theo gió lướt đi lanh lẹ và bình an mà tới bến thiên đàng vui vẻ.
Khi chị Léonie mãn học ở trường các
bà Dòng Thánh Benedicto, thì con vừa được tám tuổi rưỡi. Cha cho con đi thế
chân chị. Ở trường, các bà nhận con vào lớp các chị đều lớn hơn con; có một chị
14 tuổi, hơi kém phần trí khôn, nhưng lại có tính hiếu thắng. Chị thấy con trẻ
nhất mà làm bài hầu như nhất mãi, lại được các bà Dòng yêu, chị sinh lòng ghen
tuông và làm khó dễ cho con lắm.
Với bổn tính nhút nhát và hay mủi
lòng, con không biết đối phó thế nào cho phải. Còn đành ngậm tăm mà khóc.
Thưa Mẹ, khi ấy chị Céline cũng như
Mẹ, chẳng chị nào biết nỗi khổ tâm của em, mà con cũng chẳng có nhân đức để nén
mình chịu đựng những điều cơ cực ấy, cứ ngậm ngùi cho lòng thêm ưu tư sầu muộn.
May chiều nào tan học rồi cũng được
về nhà. Khi ấy bao nhiêu nỗi lòng được cởi mở hết: con chạy đến xoắn xuýt bên
cha, khoe những điểm được ở trường.
Một cái hôn yêu cha ban đủ làm tan
hết mọi nỗi u buồn.
Con vui sướng biết bao lúc trình cha
kết quả bài thi thứ nhất: con được nhất.
Cả nhà lại thưởng cho con một hào;
con bỏ hào ấy vào ống để dành cho kẻ khó. Thường thứ năm nào ống của con cũng
được thêm một hào. Ôi! Con cần phải được chiều chuộng thể ấy! Một cây hào non
mà năng được bón rễ tơ bằng đất vụn nền nhà thì quý lắm chứ. Nó không còn tìm
đâu được chất nuôi bổ và cần thiết hơn.
Các thứ năm, ở trường được nghỉ học;
nhưng con không thích bằng những ngày chị Pauline cho nghỉ ở nhà mà con được
lên gác ở bên cha hầu cả ngày. Con không biết chơi như chị em chơi, thành thử
khó chơi với chị em lắm. Con đã cố bắt chước mà không sao được.
Đừng kể chị Céline, nói được là không
thể rời con, con lại hay chơi với chị Marie là chị em họ. Chị dễ dãi cho con
được thong dong, chọn cách chơi tuỳ ý thích. Hồi ấy, chúng con đã thân thiết
nhau lắm, chặt chẽ một lòng một ý, y như Chúa đã cho chúng con linh cảm trước
rằng, một ngày kia hai chúng con sẽ cùng chung sống trong Dòng Kín.
Thường thường bên nhà cậu hay có hài
kịch này: Marie và Têrêsa ở với nhau, như hai nữ tu hành hãm mình nhiệm nhặt.
Cả hai có một lều nhỏ, một miếng đất cỏn con để cấy lúa, một cái vườn bé tý để
trồng rau.
Suốt ngày hai chị tu hành chỉ siêng
năng đọc kinh nguyện ngắm, nghĩa là thay phiên nhau: chị này đọc kinh thì chị
kia làm việc. Mọi sự đều thoả thuận, lặng lẽ và giống cách thức nhà dòng.
Lúc đi dạo, hai chị cũng giữ thói
thầy tu hành; vừa đi vừa lần hạt, nhưng đếm bằng đốt ngón tay thôi, kẻo người
ta kêu mình sốt sắng quá. Phải một bận, chị Têrêsa có cái bánh bỏ ra ăn, chị
làm dấu to quá làm những người qua lại bật cười.
Thỉnh thoảng có lần sự đồng tâm hiệp
ý của hai chúng con đi quá trớn. Như buổi chiều kia, lúc về học chúng con muốn
bắt chước các thầy tu hành đi rõ trang nghiêm. Con bảo chị Marie rằng:
- Tôi nhắm mắt vào đây, chị dắt tôi
nhé!
- Tôi cũng nhắm mắt, chị Maria trả
lời.
Thế là cả hai chị tu hành tự ý nghiêm
trang nhắm mắt đi, và đi trên vỉa hè để khỏi phải tránh xe.
Nhưng vừa mới vui vẻ bước đi được mấy
phút, lòng đang hí hởn cái thú đi không phải trông, thì cả hai xô ngã vào cái
kiện hàng để ngoài cửa hiệu, làm đổ lộn kiện hàng của người ta. Chủ hiệu bực bõ
quá, vừa chạy ra nâng kiện hàng lại, vừa sốt mắng ầm ĩ. Hai người mù tự ý kia
vội vàng bò nhỏm dậy, mắt mở cho to, chân chạy cho nhanh và vểnh tai nghe chị
Jeanne mắng cho một mẻ không kém gì người chủ hiệu.
Con xin nói đến cách thức chị Céline
cùng con ăn ở với nhau trong hồi này:
Ở Lisieux tính nết hai chúng con đổi
ngược lại: Céline tinh nghịch ghê gớm; Têrêsa nhu mì hiền lành, nhưng dễ mủi
lòng lắm. Bởi vậy Têrêsa cần phải có một trạng sư năng đi kèm để bênh đỡ luôn.
Chị Céline đã có gan sắt đứng ra nhận trách nhiệm ấy. Hai chúng con hễ có quà
gì cũng ăn chung, thành thử gây được một hạnh phúc thú không gì bằng.
Tuổi ấy của chúng con không biết nhàm
chán; hai tâm hồn tươi tốt đua nở như hoa xuân, hớn hở hứng lấy những bụi sương
mát mẻ lúc bình minh và phất phơ động rung theo hơi gió nhẹ nhàng phe phẩy.
Thật vui nào cũng là vui chung cho cả hai, nên ngày Céline được chịu lễ lần
đầu, lòng con cũng hoan lạc sung sướng không kém gì chị!
Khi ấy con mới bảy tuổi, chưa được đi
học ở trường các bà Dòng. Nay nhớ lại thời kỳ chị dọn mình chịu lễ lần đầu, con
thấy lòng êm nhẹ dịu dàng quá! Mấy tuần trước ngày hạnh phúc ấy, chiều nào chị
Pauline cũng nhắc đến ơn rất trọng mà chị Céline sắp được, để chị dọn lòng cho
thật sốt sắng. Những lúc ấy, thường con cũng đứng nghe và cũng muốn dọn mình,
cho nên khi bị chị bảo đi chỗ khác mà chơi thì bực lòng lắm! Con nghĩ bụng, bé
thì bé, dọn mình rước Chúa sớm trước bốn năm thì đã làm sao!
Một hôm, con nghe thấy chị Pauline
khuyên chị Céline lời quý hoá này:
- Hễ em chịu lễ lần đầu rồi, em phải
bắt đầu sống đời sống hoàn toàn mới!
Nghe lỏm được câu ấy, con liền quyết
chí cũng bắt đầu sống đời sống hoàn toàn mới với chị Céline, không cần phải mỏi
lòng đợi cho đến khi được chịu lễ lần đầu.
Trong khi chị Céline cấm phòng dọn
mình, chị ở lại nhà Dòng như một lưu học sinh. Con lấy thời gian vắng chị ít
ngày làm lâu quá. Nhưng rồi ngày hạnh phúc đẹp đẽ ấy đến. A! ngày ấy để lại nơi
lòng con một cảm tưởng dịu ngọt dường nào! Tựa hồ một bản đàn dạo trước ngày
hạnh phúc của con cũng đang đến! Chúa đã ban cho con nhiều ơn trong ngày đó, kể
con là một trong những ngày vui vẻ nhất, đẹp đẽ nhất của đời con vậy.
Biệt ly đau đớn
Để nhắc lại kỷ niệm êm ái chịu lễ lần
đầu của chị Céline, con đã phải lùi chuyện lại một tí. Bây giờ con xin nói đến
một biệt ly làm đau lòng con lắm - biệt ly chị Pauline yêu dấu đi vào Dòng Kín.
Trước kia đã có lần con nói cùng chị
rằng con muốn theo chị lên tu hành ở rừng rõ xa. Chị trả lời đó cũng là ý chí,
nhưng còn phải chờ con lớn lên đã. Lời hứa không thể thực hiện này, Têrêsa vẫn
ôm lòng như một điều quan trọng. Cho nên lẽ nào Têrêsa không buồn bã khi thấy
chị Pauline lại nói chuyện với chị Marie, mình sắp sửa vào Dòng Kín. Lúc ấy,
con chưa hiểu Dòng Kín là thế nào; chỉ hiểu rằng chị Pauline sắp bỏ con mà đi
tu, chị không đợi con nữa!
Con không nói xiết nỗi cực lòng khi
ấy! Trong giây phút, cuộc đời hiện ra trước mắt con với tất cả sự thật chua
chát: đau khổ rồi lại đau khổ, đau khổ chồng chất; biệt ly rồi lại biệt ly,
biệt ly mãi mãi! Ôi! Hai hàng nước mắt tuôn rơi, ruột đau như cắt tơi bời xót
xa!... Hồi ấy nào con đã biết lấy hy sinh làm vui sướng? Con hèn sức yếu đuối
lắm, đến nỗi nay con cho là ơn cả thể: đã chịu sự gian truân coi như quá sức ấy
mà không chết.
Con sẽ nhớ mãi những lời êm ái dịu
dàng chị Pauline đã an ủi con. Chị cắt nghĩa cho con nghe sự ở nhà Kín; và một
buổi chiều tà, ngọn gió hiu hiu thổi như gợi lòng con đang thở thẩn một mình,
nghĩ lại những lời chị đã nói về Dòng Kín, con nhận thấy rằng Dòng Kín cũng là
chốn tu hành vắng, là nơi Chúa muốn con vào ở. Con thấy lòng chắc chắn lắm,
không nghi ngờ chút nào, không là mơ mộng của nữ nhi, mà là tiếng Chúa kêu gọi
tỏ tường. Mối cảm xúc mà con không thể tả đây, đã để lại nơi lòng con một bình
an khoan khoái lạ!
Hôm sau, con kể tâm sự ấy cho chị
Pauline. Chị cũng nhận đó là ý Chúa, và hứa mai ngày sẽ dẫn con đến nhà Kín
thăm Mẹ Bề Trên, cũng tỏ cho Mẹ hay việc Chúa kêu gọi.
Vậy ngày chọn đi thăm nhà Kín là ngày
Chúa Nhật.
Khi con biết chị Marie là chị họ, còn
bé, cũng sẽ theo con đi con lúng túng quá. Con cần phải có lúc được một mình
hầu chuyện Mẹ Bề Trên về việc linh hồn, mà chị Marie theo thì làm thế nào được?
Sau con đã nghĩ được một kế: Con bảo chị Marie rằng ta được đến thăm Mẹ Bề Trên
là rất quý, nên phải ở cho hết sức ngoan và lịch sự, tử tế; phải trình Mẹ một
vài điều kín trong linh hồn, mà khi người này trình, người kia phải ra đứng ở
ngoài.
Chị Marie ngần ngại vì phải tỏ sự kín
mà chị không có, nhưng chị cũng giữ lời con đã dặn. Nhân thế con mới có dịp
được gặp Mẹ Marie de Conzague một mình. Mẹ nghe con trình việc linh hồn cũng
cho là có ơn Chúa gọi, nhưng Mẹ lại bảo nhà Dòng không khi nào nhận trẻ chín
tuổi vào tập tu, con phải đợi đến tuổi 16 sẽ hay.
Biết sao được! Con đành phải cầm lòng
chịu tuy con ước ao được vào cùng chị Pauline, và được chịu lễ lần đầu chính
ngày chị mặc áo Dòng.
Thấm thoát thoi đưa, mồng 2 tháng 10
đã đến! Mồng 2 tháng 10 là ngày nước mắt, ngày mùa ân, ngày Chúa Giêsu hái hoa
nở trước hết trong khóm hoa của Người. Bông hoa được chọn hái đây ít năm sau đã
trở nên Mẹ thật các em mình.
Trong khi Cha yêu dấu cùng Cậu và chị
Marie leo lên núi Carmel để tế lễ Chúa của lễ đầu tiên, thì mợ dẫn lũ cháu là
chị Léonie, chị Céline và con đi xem lễ. Thấy chúng con bước vào nhà thờ, đôi
hàng lệ chan chứa, người ta bỡ ngỡ không hiểu sao chị em chúng con khóc! Mặc,
chúng con vẫn cứ khóc! Con lại nghĩ bụng sao mặt trời không tối đi cho rồi!
Thưa Mẹ, có lẽ Mẹ cho là con phóng
đại nỗi lòng! Quả nhiên nay chính con cũng nghĩ rằng sự biệt ly ấy chẳng lẽ làm
con rầu rĩ đau đớn đến thế; nhưng thực tình, bấy giờ tâm hồn con còn non nớt
yếu đuối lắm. Ngày nay con tới bến bình an này, ngày nay con được vui vẻ nếm
những hoa trái ngon lành trong việc bỏ hẳn mình đi và yêu mến Chúa cách chí
thiết, chính là vì con đã phải trải qua nhiều gian nan nguy hiểm trước.
***
Chiều mồng 2 tháng 10 năm 1882, con
được nhìn chị Pauline yêu dấu đã thành Bà dòng Kín với cái tên Agnès de Jésus!
Chị đứng bên trong phên sắt ở phòng khách nhà Dòng.
Thật, nơi đây đã làm con đau đớn quá!
Bởi con viết chuyện linh hồn con, nên con phải nói hết. Con thấy rằng những nỗi
lòng chua xót lúc chia tay trước, chẳng thấm đâu với những đoạn trường lúc này!
Xưa nay con vẫn quen lòng cùng phơi giãi tâm tình cùng chị lâu giờ; bận này
phải chờ mãi đến lúc mọi người nói chuyện chán chê xong, con mới được vài phút
cùng chị than thở! Ôi! Vài phút ấy con đã khóc, đã đổ hết nước mắt thương nhớ
chị và lúc từ giã chị ra về, ruột đau như cắt, tim rầu như nẫu!...
Con không hiểu vì lý do gì mà hai chị
em không được cùng nhau chuyện trò một vài khắc, còn cha cùng chị Marie lại
phải để cho nói chuyện lâu thế. Vì không hiểu, nên con nghĩ thầm rằng, thôi thế
là con mất hẳn chị Pauline! Lúc ấy lòng con như phải phanh ra ngâm trong đau
thương chua xót, sức mọn chịu chẳng nổi liền ngã bệnh rất nặng.
Một bệnh lạ
Con mắc bệnh này, hẳn là cũng bởi ma
quỷ ghen ghét, hậm hực ấm ức việc chị Pauline vào Dòng Kín lắm, rồi quay ra thù
hằn con vì lẽ gia đình nhà sau này sẽ làm thiệt hại chúng nó nhiều.
Nhưng lầm!
Quỷ mê muội chẳng biết Nữ Vương thiên
đàng gìn giữ và niềm nở cùng hoa mọn Người luôn. Người sẵn sàng để khiến gió
bão yên, một khi thân hoa mọn, cánh hoa giòn này sắp chực gẫy nát.
Từ cuối năm 1881, con luôn luôn bị
chứng rức đầu; nhưng chưa đến nỗi phải bỏ học. Bệnh cứ dai dẳng cho đến lễ Phục
sinh năm 1883. Kỳ ấy cha cùng hai chị Léonie Marie sang thành Paris, đã đem gởi
chị Céline và con ở đằng nhà cậu mợ.
Một hôm chỉ có hai cậu cháu ngồi
chơi, cậu nhắc lại chuyện mẹ cho con nghe. Thuật lại nhiều kỷ niệm dĩ vãng; cậu
nói bằng giọng rất thương hại cháu, làm con cảm động quá phải khóc! Con khóc
làm cậu cũng mủi lòng. Cậu thấy cháu mới bằng ấy tuổi mà đã biết thương nhớ mẹ
dường ấy thì lạ. Rồi trong cả kỳ hè cậu hằng bày nhiều cách chơi để khuây khoả
nỗi lòng thương nhớ của cháu.
Rồi thánh ý Chúa định khác. Chính
chiều ngày ấy, bệnh con phát nặng lắm, con bắt chứng run rẩy suốt đêm. Mợ đã
thương cháu như mẹ thương con, không rời cháu lúc nào! Trong hồi con bệnh, mợ
chăm nom săn sóc thuốc thang thật là tận tình tận nghĩa.
Con không thể nói được sự đau đớn của
lòng cha khi ở Paris về! Người thấy bệnh con quá trầm trọng, đã lo tính mệnh
con không biết thế nào; nhưng có lẽ Chúa đã tỏ cho cha biết: “Bệnh này chẳng
chết đâu, một chỉ làm cho danh Đức Chúa Trời thêm cả sáng thôi” .
Mà thật danh Chúa đã sáng trong cơn
bệnh nạn này lắm! Phần thì cha đã vui lòng vâng theo ý Chúa cách lạ lùng; phần
thì các chị cũng vui lòng chịu khổ sở vất vả vì em, nhất là chị Marie. Chị
Marie đã phải cơ khổ vì con nhiều. Con phải biết ơn chị thế nào cho xứng. Chị
đã tự đoán những sự cần mà giúp đỡ con. Thật lòng người mẹ thương con chu đáo
và mạnh mẽ hơn nhà bác sĩ bội phần!
Thưa Mẹ, hồi này đã gần tới ngày Mẹ
mặc áo Dòng. Nhà không muốn nói cho con biết, sợ con buồn vì chưa khỏi bệnh để
đi dự lễ. Dầu vậy, con vẫn tin mạnh mẽ, thế nào đến ngày ấy, Chúa cũng cho con
sự an ủi được xem thấy chị Pauline mến nhớ của con. Con đã đoán ngày lễ ấy chắc
hoàn toàn vui, vì Chúa Giêsu chẳng chịu để vị hôn thê của Chúa đã phải đau lòng
vì em bệnh, nay lại phải buồn vì vắng mặt em. Quả thật ngày ấy con đã được đi
dự lễ, được ôm hôn, ngồi trong lòng chị, chui đầu vào lúp chị và được chị hết
lòng yêu dấu. Khi ấy, con ngắm nghía dong nhan chị ăn vận toàn màu trắng tươi
sáng láng.
Thật là một ngày vui trong chuỗi ngày
sầu của đời con; nhưng ngày đó, hay đúng hơn, giờ đó mau như biến, để con lại
phải ngậm ngùi từ giã Carmel ra về.
Khi về trại Bulssonnets, dầu con
không nhọc, nhà cũng bắt con đi nằm. Đến hôm sau, bệnh phục tác nguy kịch lắm,
đến nỗi theo sức chạy chữa thế gian, con không thể trông sống được nữa.
Con không biết tả cái bệnh kỳ dị ấy
làm sao! Những ngày ấy, con nói huyên thuyên luôn miệng, nói mà không nghĩ gì
hết; con làm nhiều điều nhảm nhí, làm như có người bắt ép phải làm. Hầu ngày
nào con cũng mê mẩn như điên; nhưng con nhớ trí khôn khi ấy vẫn tỉnh táo như
thường. Có nhiều lúc con nằm đờ ra trong mấy giờ: chân không động đậy, tay
không nhúc nhích. Trong những cơn bệnh phi thường ấy, tai con vẫn tỉnh, nghe rõ
hết các tiếng nói ở chung quanh, dù nói khẽ.
Thừa cơ ấy, ma quỷ còn bày vẽ nhiều
điều rất kinh sợ! Cái gì bấy giờ con coi cũng giùng mình ghê sợ cả: Chung quanh
giường nằm, con thấy những vực sâu hoắn chỉ chực nuốt trửng, những cái đinh,
đóng ở tường trông như những ngón tay to và đen đủi quá sức, làm cho con kinh
khiếp phải thét lên.
Có một ngày, đang khi cha rầu rĩ lặng
lẽ đứng nhìn con, cái mũ cha cầm ở tay, tự nhiên con trông như biến thành một
quái vật không hiểu là giống gì mà gớm ghiếc lắm; con liền hoảng hốt giật mình
sợ hãi, cha phải lùi đi bưng mặt khóc!
Tuy bề ngoài Chúa cho phép ma quỷ đến
sán quấy con, nhưng Người cũng sai nhiều Thiên Thần đến an ủi và khuyến khích
con mạnh dạn can đảm; chẳng hạn như chị Marie, dù con quấy chị lắm chị cũng
chẳng nề quản, chẳng tỏ một chút dạ phiền, chẳng hề rời con; con cũng không thể
rời chị. Dù lúc chị đi ăn cơm, đã có vú Victoire ở với con, con cũng cứ luôn
miệng gọi chị:
- Chị Marie! Chị Marie ơi!
Con chỉ chịu nằm yên để chị đi khỏi
nhà hai lúc này: Một là đi nhà thờ, hai là đi thăm chị Pauline.
Còn chị Léonie và Céline yêu dấu! Có
phải hai chị chẳng thương gì con chăng? Ngày Chúa nhật, hầu cả ngày hai chị
không rời cái con ngẩn ngơ này mấy giờ!
Ôi, các chị yêu dấu! Em đã làm khổ
các chị lắm lắm!...
Cậu mợ cũng thương cháu trọn tình
trọn nghĩa. Ngày nào mợ cũng lại chơi thăm cháu, đem cho đủ thứ bánh quà! Trong
hồi bệnh này, lòng con càng quý mến cậu mợ nói không xiết. Con hiểu thấm thía
hơn bao giờ lời cha vẫn thường dặn chúng con:
- Hỡi chúng con, chúng con phải ghi
lòng tạc dạ tấm lòng cậu mợ thương chúng con như thế, rất ít có đấy!
Từ lúc mình già tuổi yếu, chính cha
cũng nghiệm thấy trong mình tấm lòng đầy đặn tình nghĩa quý hoá của cậu mợ.
Ngày nay lẽ nào cha lại quên bang trợ
và chúc lành cho những kẻ mà cha đã mang nặng nghĩa đầy ơn xưa!
Những lúc trong mình thấy bớt đau và
dễ chịu, con chỉ lấy sự này làm vui thích, là lấy các hoa kết mũ triều thiên
kính dâng Đức Mẹ. Khi ấy là tháng Đức Mẹ: muôn hoa xuân rực rỡ nở trong cảnh
trời đất tươi tốt đó vậy, chỉ có thân hoa mọn này là sắc phai màu lạt cánh rũ
rợi... Vậy mà ánh sáng mặt trời cũng thương tình giãi đến hoa mọn. Mặt trời ấy
là Đức Mẹ Nữ Vương thiên đàng. Hoa mọn này hằng quay đài về phía Mặt Trời
riêng, dù sắc màu lợt lạt, dù thân thể bại đau, cũng gắng nghiêng mình nhìn
sang mà cầu xin Đức Mẹ chiếu tình thương con.
Một ngày kia con thấy cha bước vào
phòng, điệu bộ tiều tuỵ lắm, nét mặt rầu rầu, cha tới giao chị Marie mấy đồng
vàng, bảo viết thư gởi ngay sang Paris, xin thầy cả làm lễ tuần cửu nhật ở đền
thờ Đức Bà Thắng Trận khấn cho em được lành.
Ôi, con thấy cha mạnh tin và có lòng
kính mến ấy, con cảm động quá! Con ước chi được ngồi ngay dậy để thưa cha rằng
con được khỏi bệnh rồi. Nhưng thảm hại! Sự ước ao của con không làm nổi phép
lạ, cần phải có một phép lạ cả thể để chữa bệnh con. Phép lạ cả thể ấy, Đức Bà
Thắng Trận thành Paris đã làm.
Đức Mẹ mỉm cười
Vậy ngày Chúa nhật trong tuần cửu
nhật, lúc chị Marie vừa ra ngoài vườn, để con trong nhà với chị Léonie đang
ngồi đọc sách bên cửa sổ. Qua mấy phút, con liền khe khẽ gọi:
- Chị Marie ơi! Chị Marie ơi!
Chị Léonie tưởng con rên như mọi khi,
không để ý. Con liền gọi rất to, chị Marie chạy vào ngay. Rõ mắt con thấy chị
ấy vào rồi, mà khốn nạn! lần này là lần thứ nhất con không nhận được chị nữa!
Con nhìn chung quanh, nhìn ra vườn, áy náy thổn thức, con lại gọi:
- Chị Marie ơi! Chị Marie ơi!
Con rất đau đớn vì cơn hoảng này, nỗi
đau không lời nói hết. Có lẽ chị Marie còn đau lòng hơn con. Chị đã cố hết sức
làm con tỉnh lại mà không được. Chị quay nói thầm gì với chị Léonie rồi mặt mày
tái mét, mình mẩy run rẩy chị lại bước ra vườn.
Sau đó chị Léonie bế con ra đứng bên
cửa sổ. Con trông ra vườn cũng không nhận được chị Marie ở vườn: bấy giờ chị
tiến lại thong thả, giơ tay với con, rồi cười, rồi nói, nói rất thong thả dịu
dàng:
- Em chị ơi! Têrêsa ơi!
Ngọt ngào đến thế mà thấy con vẫn
không nhận được chị, chị buồn bã quá, quỳ xuống bên giường con sùi sụt khóc!
Chị quay sang phía tượng Đức Mẹ kêu van thảm thiết như mẹ lành thương con thảo,
tiếc xót sự sống đứa con đang nguy cấp! Chị Léonie và Céline cũng quỳ gối cầu
xin như chị. Ba linh hồn than khóc, một lòng tin sắt đá, tiếng cầu xin thống
thiết mạnh mẽ vang lên như chấn động cửa trời phải mở tung ra.
Con thấy linh đơn dược diệu thế gian
đã hết thế chạy chữa! Con thấy bệnh trong mình vẫn đau đớn như hầu phải chết!
Con lại cố gượng quay nhìn lên phía tượng Đức Mẹ Đồng Trinh, hết lòng tha thiết
cầu xin Đức Mẹ thương con trong lúc vật vờ nguy hiểm ấy.
Bỗng dưng tượng Đức Mẹ linh động như
người sống! Đức Mẹ hoá nên xinh tốt lạ lùng quá trí khôn lường! Miệng lưỡi phàm
trần không thể nói được sự xinh đẹp trên trời! Dong nhan Đức Mẹ dịu dàng hiền
hậu và từ ái lắm; nhưng điều xúc động tâm hồn con một cách khoan khoái lạ, là
sự Đức Mẹ mỉm cười rất xinh. Với nụ cười xinh xắn ấy, bao nhiêu nỗi u uất đau
đớn trong mình con đều biến hết! Hai hàng nước mắt ứa lên và từ từ chảy...
A! Đó là những giọt nước mắt vui mừng
hoan hỉ! Sự hoan lạc thiên đàng ban xuống không lẫn lộn chút bụi buồn nào. Đức
Mẹ Đồng Trinh tiến lại gần con! Người mỉm cười cùng con... Con sung sướng quá.
Khi ấy con định bụng sẽ chẳng nói phúc trọng này cùng ai kẻo mất vui chăng!
Đoạn, dễ dàng, con quay mặt lại nhìn và nhận được chị Marie ngay! Chị nhìn lại
con cách yêu dấu và rất cảm động, nhưng có vẻ còn do dự về ơn Đức Mẹ vừa chữa
con khỏi bệnh.
Ôi! Chính là nhờ chị, nhờ lời cầu xin
thống tình thiết tha của chị mà con được ơn Đức Mẹ mỉm cười! Khi thấy con đăm
đăm nhìn lên tượng Đức Mẹ, chị nói:
- Em Têrêsa được khỏi bệnh!
Vâng hoa mọn này được hồi sinh rồi;
mặt trời riêng đã giãi chiếu ánh sáng dịu dàng, và đã chữa bệnh nguy cấp cho
con rồi!
Tiết đông thảm đạm đã qua, con mưa đã
tạnh .
Hoa mọn của Mẹ Đồng Trinh được nhuộm
sắc thêm hương rất chóng, 5 năm sau, đã thấy tươi nở đẹp đẽ trên ngọn non xanh
rờn Carmel.
Chị Marie vẫn yên chí khi Đức Mẹ chữa
bệnh con, chắc có ban cho con một vài ơn nữa mà con còn giấu chị; cho nên lúc
nào có hai chị em ở cùng nhau, chị cũng hỏi con nhiều câu thân thiết lắm, khẩn
khoản lắm, làm con nể lòng quá phải nói hết cùng chị.
Ôi, con đã không nhầm! Hạnh phúc của
con sắp trở nên sự đắng cay ray rứt lòng con! Ròng rã bốn năm, mỗi khi nhớ đến
ơn trọng đã được, lòng chỉ những bứt rứt buồn bực! Sau con phải sang viếng đền
thờ Đức Bà Thắng Trận, sấp mình kêu van dưới chân Mẹ lành mới lại được lòng vui
như xưa. Sự vui Đức Mẹ trả lại lần này được đầy đặn như lần trước. Sau này con
sẽ nói đến ơn thứ hai ấy.
Lý do mất vui
Vậy duyên do cái vui của con thành
nỗi buồn là thế này: Số là khi chị Marie nghe con tường thuật thật thà và tự
nhiên về ơn đã được, chị muốn con để chị kể lại cho Mẹ Bề Trên dòng Kín biết.
Lại một lần nữa nể lòng chị, con phải nghe.
Khi chúng con đến thăm Dòng Kín lần
ấy, thấy chị Pauline mặc áo Đức Bà rất đẹp, vui mừng quá. Giờ phút chị em gặp
gỡ đằm thắm biết bao! Rất lắm điều thân thiết để trao đổi! Những nỗi lòng chị
em cùng chung khổ xưa, ôn lại sao hết! Con nghẹn giọng, nói chẳng nên lời, lòng
đầy đến cổ!...
Mẹ đáng kính Marie de Gonzague cũng
ra tiếp chuyện. Mẹ tỏ tình thương con lắm! Con lại được gặp thêm mấy chị Dòng,
các chị hỏi thăm con về phép lạ khỏi bệnh, chị thì hỏi rằng Đức Mẹ có bế Đức
Chúa Giêsu không? Chị khác hỏi thêm, có thiên thần hầu Đức Mẹ chứ, vv... Những
câu hỏi rộn rã làm con rối rít khó chịu. Con chỉ biết thưa lại thế này:
- Con xem Đức Mẹ Đồng Trinh tốt đẹp
lắm. Người lại gần và mỉm cười cùng con.
Con nhận thấy các bà Dòng có vẻ ngờ
vực gì đó, làm con phải bẽn lẽn như mình đã nói dối. Giả như đừng tỏ cho ai
biết thì đâu mất được sự vui trong lòng Song ý Đức Mẹ đã muốn thế để tấn ích
cho linh hồn con. Nếu con không bị cực lòng như vậy, có lẽ con đã lên mày mặt
khoe khoang; và thay vì vui mừng ở khiêm nhượng, con lại nhìn mình mà ghê tởm.
Lạy Chúa! chỉ mình Chúa hiểu thấu
lòng con mọn đau đớn!
Nhân kể chuyện thăm Nhà Kín lần này,
con lại nhớ lần đi tiễn chân chị Pauline vào Dòng. Buổi sáng ấy con hỏi mình
không biết khi vào Dòng đặt tên gì được; con biết đã có một chị tên là Têrêsa
Giêsu rồi, mà con thì không thể bỏ được cái tên Têrêsa đẹp đẽ của con. Tức thì
con nghĩ đến Chúa Hài Đồng Giêsu mà con yêu mến lắm, con đã nói thầm một mình:
- A! Tôi mà được gọi tên là Têrêsa
Hài Đồng Giêsu thì sướng quá!
Con chỉ nghĩ thế, chứ chẳng tỏ cho ai
biết sốt. Thế mà còn đang nói chuyện. Mẹ Bề Trên đã bảo con rằng:
- Này chị, sau này chị vào ở với
chúng tôi, chị sẽ được gọi là Têrêsa Hài Đồng Giêsu.
Con vui quá! Sự gặp gỡ may mắn trên
đường tư tưởng đó, con xem như một nhã ý Chúa Giêsu xử tình cùng con.
Thưa Mẹ, con còn có tính thích xem
tranh ảnh và ham đọc sách mà con chưa nói. Những tranh ảnh Mẹ cho con xem hồi
ấy, đã ảnh hưởng rất hay, đã làm con vui thú lắm, kích thích con tiến tới mạnh
mẽ trên đàng nhân đức. Con xem ảnh từng mấy giờ không chán? Chẳng hạn như mẫu
ảnh vẽ “Bông hoa nhỏ đặt trước nhà chầu” gợi lòng yêu mến thanh sạch biết bao!
Như rủ rỉ với hồn con trăm ngàn sự hiểu được mà nói chẳng được. Con nhìn ảnh mà
hồn thiếp đi trong cõi tình cao khiết...
Con dâng mình làm hoa mọn đứng trước
ngai Chúa, con muốn an ủi Chúa, tới gần bên Chúa. Chúa nhìn con như chiếc hoa,
bón tưới, vun trồng và hái lúc nào tuỳ ý Chúa.
Bởi con vụng chơi, nên giờ chơi,
thường là con đọc sách. Với con có lẽ đọc sách cả đời cũng không chán. Con được
mấy chị như thiên thần chỉ sách tốt cho con đọc, lại vừa tầm trí khôn con, vừa
giải trí, thêm kiến thức, mở rộng tâm hồn. Nhưng giờ phút quý hoá ấy chẳng có
là bao, lại đã nên dịp cho con phải hãm mình rất nhiều. Con thích đọc thật,
nhưng hết giờ, thì thôi ngay, dầu câu sách đang đọc hay mấy, thích mấy cũng gấp
đấy đã, đi làm việc khác.
Về cảm tưởng bởi đọc sách, con phải
thú nhận rằng khi con đọc chuyện những vị anh hùng cái thế, nhiều lần con không
hiểu lẽ đời thế nào là phải. Còn khi đọc những chuyện ái quốc của các bậc cứu tinh
nước Pháp, nhất là vị Thánh nữ anh hùng Jeanne d’Arc, con thấy lòng ái mộ nối
gót các ngài lắm. Hồi đó, con được một ơn mà vẫn suy là một trong những ơn cả
thể đời con, vì khi ấy, con chưa được ơn trên soi sáng như bây giờ.
Đức Chúa Giêsu đã soi cho con biết sự
vinh hiển nhất và chân thật phải là sự vinh hiển vĩnh viễn; muốn đạt tới vinh
hiển ấy, chẳng cần phải có sự nghiệp to tát lừng lẫy, chỉ cần phải ăn ở nhiệm
nhặt, làm việc đừng thích phô trương, cũng đừng cho mình biết theo lời Phúc Âm
dạy: “Tay trái chẳng biết việc tay phải làm” . Lúc ấy con thầm nghĩ rằng:
Đã mang danh làm người đứng giữa càn khôn, tất phải có công danh, mình phải lo
phương liệu thế cho tới bước công thành danh toại. Con đang trầm ngâm tư tưởng
ấy thì Chúa soi cho hay rằng công danh của con là làm thánh; công danh ấy tuy
không rực rỡ trước mắt thế gian, nhưng là vinh hiển thật.
Chút cao vọng làm thánh này có thể
coi là càn dở, nếu ai đã biết con hồi ấy thế nào rồi; và ngày nay, tuy đã vào
tu tác bấy nhiêu năm trời mà vẫn còn khô khan lạnh lẽo. Nhưng ai nghĩ sao thì
nghĩ; phần con, con vẫn một lòng quả cảm muốn làm đại thánh. Con không cậy công
con, có đâu mà cậy; con hoàn toàn cậy trông ở Chúa là sức mạnh, là chính sự
thánh. Những cố gắng nhỏ nhặt của con cũng làm Chúa vui lòng. Người sẽ nâng đỡ
con lên tới Người, Người sẽ lấy công nghiệp cực trọng Người mà bù đắp cho con.
Người sẽ làm con nên thánh.
Khi ấy con chưa nghĩ rằng làm thánh
thì phải đau khổ nhiều, song chẳng mấy chốc Chúa đã soi cho biết, chính vì ham
muốn công danh làm thánh, mà con đã phải bao phen ngậm đắng nuốt cay như đã kể
trên.
Con trở lại câu chuyện khỏi bệnh.
Khỏi bệnh vừa được ba tháng, con được
theo cha trong một cuộc viễn du vui lắm; cuộc viễn du này làm con am hiểu cuộc
thế. Mọi cái mọi vui, hạnh phuc như vây phủ con; khắp đó đây đều cho lời khen
ngợi, mừng chúc và rất chiều đãi; tắt rằng trong 15 ngày, con sống như nằm giữa
muôn hoa thơm tươi rực rỡ. Lời sách Khôn Ngoan đã nói rất phải: “Tâm hồn dù
trung chính cũng sẽ siêu vì sự vui thế gian làm mê mẩm” .
Lòng trẻ mười tuổi lẽ nào khỏi háo
hức. Con thấy cảnh đời vui chơi sung sướng ấy, cũng bén lòng mừng thích. Ra như
người ta lại muốn trà trộn sự phù vân giả trá vào việc làm tôi kính Chúa! Người
ta quên bẵng giờ lâm tử.
Tuy nhiên, thần chết vẫn đến cướp biết
bao người thân kẻ thích, nào già, nào trẻ, nào phú hộ vinh sang! Con thích hồi
tưởng những lâu đài gác tía mà xưa kia, người thác đi đã sống phong lưu sung
sướng, để hỏi mình họ đi đâu mất rồi! Lâu đài ấy, dinh thự ấy xưa đã làm êm ái,
thú sướng biết bao cuộc đời họ, nay há chẳng giúp họ đôi chút sao! Hay chẳng
qua chỉ là sương sa ngọn cỏ? Ôi! Thế mới hay mọi sự đều huyễn hoặc hư vô, trừ
một sự làm tôi kính mến Đức Chúa Trời mới là phúc thật mà chớ .
Chịu lễ lần đầu
Ngày con chịu lễ lần đầu, chính là một
kỷ niệm muôn phần đẹp đẽ của đời con, hễ nhớ là vui; con đã dọn mình kỹ càng
hết sức.
Thưa Mẹ, chắc Mẹ còn nhớ cái quyển
sách nho nhỏ xinh xinh mà Mẹ đã cho con ba tháng trước ngày hạnh phúc. Quyển
sách quý hoá thay! Đã giúp con dọn mình chu đáo và rất mau chóng. Nếu từ lâu
trước con đã nghĩ đến sự chịu lễ lần đầu, thì những ngày ấy, lẽ nào chẳng nghĩ
đến hơn và sinh lòng sốt sắng mới chớm nở nhiều hoa việc lành như sách dạy vẽ.
Ngày nào con cũng tích cóp lấy nhiều
hy sinh, nhiều việc mến Chúa, như muôn hoa nở trong linh hồn, hầu làm ngai thơm
đẹp đẽ Chúa ngự trong ngày đại phúc.
Khi chị Pauline vào Dòng, chị Marie
thế chân chị, dạy bảo con. Chiều nào con cũng được ở bên chị lâu giờ, con thích
nghe chị dạy vẽ lắm! Chị đã nói biết bao sự đẹp đẽ khéo léo! Hình như cái tâm
hồn to lớn đảm đương và độ lượng của chị đã chuyển cả sang người con. Như xưa,
các nhà thiện chiến tập cho con em việc binh đao thế nào chị cũng tập con cách
đánh giặc thiêng liêng thể ấy; chị lại khuyến khích lòng hăng hái và tưởng lệ
rất khéo sự chiến mà thắng và khải hoàn vinh hiển, chỉ cúi xuống là thu nhặt
được vô số của vô giá; mà tiếc thay, nhiều khi lại đang chân giày xéo lên như
bộ không thiết!
Thật, chị lợi khẩu quá! Ước chi nhiều
người được đến nghe lời chị như con: khi ấy con nghĩ thật thà rằng những người
tội lỗi lâu năm, giả như được nghe chị khuyên bảo, có lẽ cũng động lòng ăn năn
trở lại, sẽ khinh chê sự giàu có sang trọng thế gian và chỉ lo tìm của thật
trên trời.
Giai đoạn này, con đã biết lấy sự suy
ngắm làm êm dịu ngọt ngào lắm; nhưng chị Marie cho là con đạo đức đủ rồi, chỉ
cho phép con đọc kinh thôi. Một lần kia ở trường học, có bà giáo hỏi con, những
ngày nghỉ học về trại Buissonnets chăm làm những việc gì, con nhút nhát thưa
rằng:
- Con thường lẻn vào góc phòng bên
trong màn che giường con và ở đấy, con suy nghĩ...
- Con suy nghĩ cái gì? Bà giáo cười
hỏi tiếp.
- Con suy nghĩ Đức Chúa Trời, con suy
nghĩ cuộc đời mau chóng; con suy nghĩ sự đời đời hằng có mãi; tắt rằng con suy
nghĩ!
Bà giáo nhớ mãi câu chuyện này, sau
thỉnh thoảng lại hỏi con xem có còn suy nghĩ nữa không... Nay con hiểu rằng,
những giờ phút suy nghĩ ấy là những giờ phút suy ngắm thật, và Chúa đã dạy dỗ
linh hồn con cách dịu dàng thâm thiết lắm.
Ba tháng dọn mình rước lễ lần đầu đã
qua mau chóng: Con đã được vào phòng, và trong tuần phòng, con lưu lại trường
cả tuần. Ôi! Hồng phúc thay tuần phòng! Con không tin ngoài các tu viện người
ta còn thể nếm sự vui mừng ấy ở nơi nào khác. Số trẻ cấm phòng ít, nên sự giúp
đỡ bảo ban riêng từng trẻ được dễ dàng lắm. Thật, con viết mấy lời này mà lòng
chan chứa biết ơn các bà như tình con thảo. - Các bà chăm chút chúng con như mẹ
nuôi con thơ. Con không hiểu tại duyên cớ gì khi ấy các bà lại săn sóc con hơn
các trẻ khác.
Tối nào, bà giáo nhất cũng cầm đèn
đến giường con, sẽ mở màn rồi nhẹ nhàng đặt lên trán con một cái hôn yêu lắm.
Con thấy bà thương con thể ấy, cả tấm lòng tốt của bà, nên một tối con đã trình
bà rằng:
- Thưa bà, con mến bà lắm, con muốn
tỏ cùng bà một điều kín.
Nói xong, con rút ở dưới gối một
quyển sách nói về Dòng Kín đưa cho bà xem. Bà êm nhẹ cầm lấy, mở xem vài tờ rồi
bảo con rằng có phúc lắm đấy.
Trong tuần phòng, nhiều lần con nhận
thấy, những trẻ phải số phận mồ cô mẹ như con, rất ít trẻ được yêu quý như con
trong lúc còn đầu xanh thơ dại.
Các giờ Cha Domin dạy giáo lý, con
rất chăm chỉ để nghe; con thường biên được đại ý để nhớ. Còn những điều con suy
nghĩ ra, con không biên vì biết mình có thể nhớ được; nay con vẫn còn nhớ.
Giót tuần phòng, con được hân hạnh
thông công cùng các bà hết các giờ thiêng liêng! Chị Léonie cho con một tượng
chuộc tội lớn: để có vẻ khác chị em, con đã đeo tượng ấy vào dây lưng làm như
kiểu các cha truyền giáo, người ta ngờ con muốn bắt chước chị đang ở Dòng Kín.
Cũng có phần đúng, vì lòng trí con vẫn luôn luôn nhớ đến chị! Chị lại cũng đang
cấm phòng, không phải cấm phòng để rước lễ; mà là cấm phòng để kết nghĩa trao
duyên cùng Chúa. Ngày hợp hoan ấy lại nhằm chính ngày con chịu lễ lần đầu! Rõ
không hẹn mà hò! Tuần phòng đã thành quý hoá gấp bội.
Sau hết, ngày muôn xinh ngàn đẹp,
muôn mong ngàn đợi đã đến! Biết bao kỷ niệm vui mừng từng phút của ngày hỉ hoan
không lời tả hết ấy, còn rực rỡ trong lòng con! Vầng đông tươi sáng; chị em
mừng rỡ; các bà Dòng yêu; phòng đóng bộ đầy những áo trắng xinh xắn, em nào
cũng được ăn vận rất đẹp!
Nhất là những trái tim non ấy rạo rực
lúc bước chân vào nhà nguyện, tai được nghe đang hát vãn du dương:
A! A! Trên cung thánh!
Muôn thiên thần rung cánh đứng chung
quanh!
Ôi! Thưa Mẹ, con chẳng muốn và muốn
cũng chẳng thể nói hết lòng mừng; có lắm cái mất thơm khi phải đưa ra gió; có
lắm tư tưởng thâm thiết mất nghĩa cao thượng siêu vượt khi phải đụng chạm tới
lưỡi phàm trần!
Ôi! Tâm hồn con khi được giao hoan
với Chúa, được Chúa ẵm hôn lần thứ nhất, ngon lành dường náo Thật là cái hôn
tình, hôn nghĩa, cái hôn làm con cảm thấy mình được yêu và yêu lắm. Trong phút
tình yêu ngây ngấy ấy, con đã thân thưa Chúa Giêsu rằng:
- Con yêu Chúa, yêu lắm! Con phó trót
mình con cho Chúa đến trọn đời!
Khi ấy, Chúa không đòi con gì khác,
cũng không buộc con phải hy sinh gì. Từ đã lâu, Giêsu và Têrêsa đã thân nhau
lắm, đã hiểu nhau lắm... nên lần gặp nhau đây, chẳng còn nhìn nhau suông, một
là thấu nhập vào nhau như keo sơn gắn bó; không còn phải là hai. Têrêsa đã trở
nên hạt nước rơi tan trong biển cả, đã mất Têrêsa, chỉ còn Giêsu là Chúa Cả, là
Vua cầm quyền thống trị! Têrêsa đã van xin Chúa cất sự thong dong của mình đi,
chẳng để làm chi nữa. Còn thong dong, chỉ thêm bận lòng lo sợ, Têrêsa biết thân
phận mình mỏng manh hèn yếu nên hằng giây hằng phút, hằng muốn kết hiệp cùng
Đấng mạnh mẽ vô cùng.
Nhưng sự hoan lạc dào dạt quá, lòng
mọn Têrêsa chứa không hết, những hạt lệ mừng đã cuồn cuộn tràn ra, chị em chúng
bạn phải ngẩn lạ; đến sau đã thì thầm cùng nhau rằng:
- Sao hôm ấy Têrêsa lại khóc? Lương
tâm chị có điều áy náy chăng?
Chị khác cãi không phải, hôm ấy con
tủi vì không có Mẹ hay chị yêu dấu đang ở Dòng Kín đến dự lễ!
Tuyệt nhiên, chẳng ai hiểu cho rằng
bởi sự vui thiên đàng tràn ngập lòng nhỏ hẹp, siêu bạt, đoạ đày và mỏng manh
này, nên sướng quá thì rơi lệ mừng đó thôi.
Con buồn vì nỗi vắng lời, khuất mặt
Mẹ trong ngày diễm phúc ấy? Nào cả thiên đàng đã chẳng rời đến đóng đô trong
linh hồn con sao? Chịu lấy Chúa Giêsu vào lòng, con được thửa tiếp cả Mẹ nữa...
Con khóc vì nỗi chị Pauline không đến dự lễ? Còn giờ phút nào chị em được hợp
vui bằng giờ phút ấy! Một lần nữa, con nhắc lại, con khóc chỉ vì lẽ vui mừng
quá, sự vui không lời tả hết, sự mừng không lẽ nói cùng...
Chiều ngày ấy, con được thấy các chị
em đọc kinh dâng mình cho Đức Mẹ. Các bà giáo cắt con đọc, chắc là vì lẽ thấy
con phải mồ côi mẹ sớm nhất. Con đã cầm trí hết sức đọc kinh ấy; con thiết tha
nài xin Đức Mẹ giữ gìn con! Xem như Đức Mẹ đã nhìn hoa mọn Người cách yêu dấu
và mỉm cười nữa. Khi ấy con lại nhớ đến lần Đức Mẹ mỉm cười chữa con khỏi bệnh,
mà lòng chứa chan biết ơn Mẹ nhân lành! Chính Đức Mẹ, sáng ngày mồng 8 tháng 5
năm ấy đã chẳng hiện đến trao Chúa Giêsu Con Mẹ là hoa nở ngoài đồng và huệ mọc
nơi thung lũng cho linh hồn con ẵm bế là gì!
Dâng mình cho Đức Mẹ xong, cha dẫn
con lại Dòng Kín thăm chị Pauline. Chị đã trở nên bạn trăm năm Chúa rồi! Lễ
cưới đã cử hành cũng sáng ngày ấy. Con thấy chị trùm lúp trắng như con, đầu đội
mũ hoa mân côi đẹp đẽ! Con vui sướng, con ước ao mau mau được vào ở cùng chị và
cùng chị mong chờ ngày về quê thiên đàng...
Tối về trại Buissonnets, cha đã cho
bày tiệc mừng, con cảm động quá! Người lại thưởng con một đồng hồ quít rất
xinh. Ngày hạnh phúc thật đã hoàn toàn hoan hỉ cho cả hồn lẫn xác, trọn vẹn yên
hàn vui vẻ.
Và đêm tối đã đến. Ngày vui thế mà
cũng có đêm! Chán cõi trần ai: Ngày càng sáng đêm lại càng tối! con chạnh lòng
mong mỏi cái ngày hồng phúc kia - ngày mà được hiệp nghĩa cùng Chúa đời đời
trên cõi trường sinh; ngày ấy mới cả sáng thật, không có đêm u ám chen lấn.
Không lâu la gì, ngay hôm sau màn
buồn đã thấy buông! Những khăn áo đẹp, những quà mừng rỡ được bữa qua đã thấy
nguôi lòng thích! Lòng chỉ còn biết vui, biết thích một mình Chúa, ước ao mong
mỏi rước Chúa lần thứ hai. Thật mong đêm mong ngày, và đến lễ Chúa Lên Trời,
con đã được sự mong mỏi rước Chúa. Lần ấy lên chịu lễ, con được hân hạnh quỳ
giữa cha cùng chị Marie. Lòng đầy vui mừng ngọt ngào, nước mắt chảy ra. Giây
phút ấy, con luôn luôn than thở cùng Chúa lời Thánh Paulo: Không phải tôi sống,
một là Chúa sống trong tôi .
Từ khi rước Chúa lần thứ hai, lòng
con lại càng khao khát chịu lễ hơn nữa! Con đã được phép chịu lễ các ngày lễ
trọng. Nhưng các lễ trọng lại lưa thưa quá!
Các chiều áp lễ trọng, chị Marie vẫn
giúp con dọn mình như khi chịu lễ lần đầu. Con nhớ một lần chị cắt nghĩa về sự
đau khổ chị nói có lẽ Chúa không để con phải đi đường đau khổ, Người sẽ bồng bế
con như trẻ thơ. Sáng hôm sau, khi chịu lễ đoạn, con liền nhớ đến những lời chị
đã nói tối hôm trước, và tin tưởng thánh giá chờ con vác rất nhiều. Bấy giờ
trong linh hồn, trào lên những an ủi ngọt ngào chưa từng cảm thấy bao giờ. Trở
đi từ đó, sự đau khổ thành sở thích của con, con nhận thấy nhiều lý thú trong
lẽ đau khổ. Những cái vui lý thú trong đau khổ đã làm tươi tỉnh đời con, làm
vui say tâm hồn mà trí khôn vẫn chưa hiểu tại sao.
Khi ấy con lại ước ao một điều cả thể
khác: ước ao chỉ kính mến Đức Chúa Trời và chỉ tìm vui nơi Chúa mà thôi. Trong
những phút cám ơn chịu lễ, con hay thầm thĩ lời sách Gương Phúc rằng: “Lạy Chúa
Giêsu là của ăn ngon ngọt vô cùng, xin Chúa đổi những sự an ủi đời này nên sự
cay đắng cho lòng con chịu” . Những lời cầu xin tha thiết ấy, miệng lưỡi
con đọc lên rất dễ dàng. Con đọc mà lòng chẳng hiểu, tựa hồ đứa trẻ ai nhắc làm
sao đọc làm vậy.
Thưa Mẹ, sau đây Mẹ sẽ thấy Chúa thực
hiện lòng khát vọng của con thế nào. Người đã trở nên sự êm dịu ngọt ngào cho
linh hồn con làm sao. Nếu con nói ngay ra đây, có lẽ câu chuyện sẽ mất thứ tự,
vì trong giai đoạn thứ hai này, còn nhiều điều mà con chưa thưa Mẹ hết.
Chịu phép Thêm Sức
Sau chịu lễ lần đầu ít lâu, con lại
cấm phòng dọn mình chịu phép Thêm Sức. Con đã sửa soạn rất chu đáo để tiếp rước
Chúa Thánh Thần ngự vào linh hồn con. Con không hiểu lý do người ta không lấy
làm quan trọng việc dọn mình chịu phép bí tích dấu yêu này.
Chính ngày định chịu phép Thêm Sức đã
ngăn trở, tuần phòng được kéo dài thêm, con lấy đó làm lẽ an ủi.
Ôi! Khi ấy linh hồn con vui mừng lắm!
Như các Thánh Tông đồ, con vui sướng đợi Đấng an ủi đến, con mừng rỡ vì sắp
được trở nên người giáo hữu hoàn toàn, được mang đời đời trên trán dấu thánh
giá mầu nhiệm của phép bí tích rất trọng.
Ngày chịu phép Thêm Sức, con không
nghe thấy tiếng gió ào ào thổi như ngày lễ Hiện Xuống thuở xưa; nhưng con đã
thấy một thứ gió nhè nhẹ phe phẩy mà tiên tri Elias đã nghe rì rào trên núi
Horeb. Ngày ấy, Đức Chúa Thánh Thần đã ban cho con sức mạnh để chịu đau khổ; đó
là ơn cần thiết cho đời con lắm; vì ít lâu sau, linh hồn con đã phải chìm nổi
khốn nạn trong bao nỗi gian truân cơ cực.
Xong những cuộc lễ vui mừng và không
thể quên này, con lại phải theo đuổi việc học. Trong việc học vấn, con cũng có
phần tấn tới lắm, và dễ nhớ những điều đã lĩnh hội được. Con chỉ vất vả khổ sở
khi phải học thuộc lòng từng chữ; nhưng khi học sách Bổn, sự cố gắng của con
vẫn kết quả đẹp. Cha coi trường đã tặng con cái danh hiệu Tiến sĩ nhỏ của Ngài.
Ngài tặng cho thế chắc chỉ vì cái tên Têrêsa của con thôi.
Giờ giải trí, con thích đứng xa xa
xem chị em nô đùa vui vẻ và ngẫm nghĩ sự xa xôi. Đó là cách giải trí hợp với
tính tình con nhất. Con cũng đã bày ra một cách chơi mà lấy làm thú, là đi tìm
chim non bị rơi tổ nằm chết ở các gốc cây to, rồi chọn một đám cỏ xanh làm
nghĩa địa và mai táng một cách kính cẩn cả những chim thiệt phận ấy. Có lúc con
ngồi kể chuyện cổ tích cho chị em nghe; các chị lớn cũng hay đến dự thính,
nhưng chẳng bao lâu, một bà giáo khôn ngoan cấm con tiếp tục cái nghề diễn
thuyết ấy; bà muốn chúng con chạy chơi, chứ đừng xúm lại gẫu chuyện.
Tình nghĩa
Ở trường học, con làm bạn với hai chị
bằng tuổi con; nhưng lòng người hẹp hòi quá! Trong hai chị, một vì tình cảnh
gia đình bó buộc, phải nghỉ học mấy tháng. Trong mấy tháng xa chị con không hề
quên chị, vẫn mến nhớ; và khi thấy chị lại tới học, con vui mừng quá! Trời ôi,
chị lại nhìn con bằng cặp mắt dửng dưng! Tình nhạt như nước lã! Tình yêu của
con không chị hiểu; con ngậm ngùi vậy... Con đã dốc lòng rầy đi chẳng bè bạn
một cách quá dễ như trước nữa. Nhưng Chúa đã cho con một tấm lòng thuỷ chung
như nhất, đã yêu ai thì yêu cho trọn, nên con vẫn còn cầu nguyện cho chị hằng
ngày và mến nhớ luôn.
Con thấy chị em trong trường, kẻ thì
trìu mến bà giáo này, người thì yêu quý bà giáo khác. Con đã muốn bắt chước các
chị mà không được. Ôi, sự vụng về may phúc! Sự vụng về ấy đã giúp con tránh
khỏi bao điều rất đáng tiếc. Con đội ơn Chúa đã cho con chỉ gặp sự cay đắng
trong tình nghĩa thế gian! Với một trái tim non như trái tim con, có lẽ sẽ bị
dụ hoặc rất dễ dàng, sẽ bị sém cháy ngay; lúc đó còn trông bay về chốn an nghỉ
làm sao được?
Một trái tim đã có tình kia nghĩa nọ,
đã dan díu với nhân vật thế gian, còn thể mến Chúa chí thiết chăng? Hẳm không
có thể. Con đã được mục kích nhiều linh hồn phải dụ hoặc mê mẩn vì nghĩa giả
dối ấy, họ ngờ là ánh sáng thật, họ chạy xô lại như những con thiêu thân bay
quyện quanh mồi lửa, để phải trụi lông, cháy cánh, khi trở lại cùng Chúa, đã
tang thương lắm rồi, tê bại cả hồn lẫn xác; lửa thiêng dọi vào chẳng bén!
Ôi! Nay con hiểu, bởi Chúa biết phận
con hèn sức yếu đuối, đã không để con phải mắc mưu độc địa. Giả như Chúa ngơ để
con theo dõi ánh sáng giả dối ấy, hẳn là con đã bị thiêu đốt khốn nạn trong mồi
lửa. Nơi mà các linh hồn mạnh mẽ gặp sự vui, rồi lại trung thành dứt lòng ra
được, con chỉ gặp thấy ưu tư phiền muộn. Nào có phải con đã hoạt động nhiều nên
đã tránh được tình quyến luyến tạo vật? Không đâu, con được thế chỉ bởi lòng
lành Cha Cả xót thương kẻ yếu đuối mà chớ!
Con nhận thấy rằng nếu Chúa chẳng
thương con, có lẽ con sa ngã không kém bà thánh Madalêna; và lời cao ý sâu
nhiệm xưa Chúa phán cùng ông Simon thuộc dòng Pharisêo, đã vang dội trong linh
hồn con cách rất êm đềm dịu dàng. Thật, con vẫn biết “Kẻ được tha ít, mến
ít” . Con nhận thấy Chúa Giêsu đã tha cho con nhiều hơn bà thánh
Madalêna. Ôi! Ước chi con bày tỏ hết tâm tình! Con xin lấy ví dụ này để giãi
bày đôi chút tâm tình ấy:
Ví dụ ông bác sĩ danh giá kia có cậu
ấm, đi đường vấp phải đá ngã gẫy tay. Tình cha thương con, khiến ông bác sĩ vội
vã chạy lại nâng cậu ấm dậy, thương xót, xoa bóp, băng bó. Ông dùng mọi phương
pháp tài giỏi trong y khoa để chữa cho con chóng lành. Qua ít bữa, tay gẫy cậu
ấm được khỏi hẳn! Cậu đội ơn cha vạn bội. Đành rằng cậu có lẽ lắm để yêu mến
cha cậu! nhưng cô em sau đây thì sao!
Cha cô biết trước rằng, quãng đường
con gái yêu của mình sẽ đi, có khối đá nguy hiểm nằm ngang giữa đàng; cha cô
liền chạy trước, lăn đá ấy ra bên cạnh mà chẳng ai biết. Nhất định cô em được
cha âu yếm quan phòng cho chu đáo thế, mà không biết gì đến tai nạn được khỏi
mắc, cô cũng chẳng ân huệ gì cha cô chỗ đó, cô cũng chẳng yêu cha bằng cậu ấm
ngã gẫy tay được cha chữa khỏi. Nhưng nếu cô em lại hiểu biết tình cha thương,
được nghe rõ đầu đuôi câu chuyện, thì, hỏi rằng cô có yêu cha hơn cậu ấm gấp
bội không?
Ấy, thưa Mẹ, cô em nói đây là chính
con, một đối xích của tình yêu quan phòng, người Cha “không sai Ngôi Hai xuống
cứu kẻ lành, một sai xuống để chuộc lại kẻ tội lỗi” .
Người muốn con kính mến Người hết
lòng hết sức, vì Người đã tha thứ cho con chẳng phải là nhiều, một là tha tất
cả. Chúa không đành đợi con kính mến Người nhiều như đã đợi thánh Madalêna.
Người đã lập cách cho con hiểu rằng: Người vốn yêu con chí thiết lắm, quan
phòng rất chu đáo, để nay con có lý mà mến yêu Chúa cho say sưa như mê mệt
trong lửa tình ái.
Nhiều lần trong tuần phòng hay dịp
nào khác, con đã nghe nói chưa gặp thấy một linh hồn nào sạch tội lại yêu mến
Chúa bằng linh hồn tội lỗi đã thống hối! Chà! Nói thế mà thật cao, con muốn cải
chính lời nói ấy.
Bệnh bối rối
Ở đây con lại lạc đề xa quá, không
còn biết phải bắt chuyện lại từ chỗ nào...
Trong tuần phòng dọn mình rước lễ,
lần thứ hai, con mắc phải chứng bệnh khốn nạn lắm - bệnh bối rối. Có đau mắt
mới thương người mù, có bệnh này mới hay nỗi lòng cực. Con không thể nói hết
những cơ cực phải chịu hầu giót hai năm trời. Bất cứ suy nghĩ gì, làm việc gì,
dù rất nhỏ nhặt, lòng con cũng lo âu áy náy. Cơ khổ quá! Cái gì cũng phải đi
nói hết với chị Marie mới yên lòng được; thành thử những tư tưởng rất dông dài
cũng phải kể lể từng tí! Khổ vậy mới trút được gánh nặng, mà gánh nặng vừa trút
xuống, sự bình an vừa thử nếm thì lại biến nhanh như ánh sáng loè trong đêm
tối, linh hồn lại bối rối như nắm tơ vò.
Lạy Chúa, con đã làm bận lòng nhẫn
nại của chị yêu dấu con lắm lắm!
Vụ hè năm ấy chúng con được phép đi
chơi biển 15 ngày. Mợ vốn là người nhân nghĩa tử tế, thương các cháu như mẹ
thương con, chiều đãi mọi cách vui có thể nghĩ ra được: nào cho các cháu cưỡi
lừa đi chơi, nào cho cần câu đi câu cá, vv... Cả đến cách ăn mặc cũng cho các
cháu được đỏm đáng lắm. Con nhớ có lần mợ đã cho con những dãi lụa xanh xanh da
trời để buộc tóc. Tuy mới 12 tuổi rưỡi, được buộc tóc bằng những dãi lụa đẹp
con cảm thấy lòng đã vui thích. Đến khi xưng tội ở thành Trouvill, con đã bối
rối lo lắng vì tội làm dáng này lắm; con cho sự vui thích ngây ngô ấy là một
tội.
Lại cũng trong dịp này, con rút được
một kinh nghiệm rất hay: Chị Marie, con gái yêu của mợ, kỳ ấy hay rức đầu. Mợ
thương hại lắm, chiều chuộng lắm, đặt cho nhiều tên rất yêu, rất hay để gọi cho
chị khuây khoả; song chị vẫn nước mắt đầy mặt, vẫn năn nỉ luôn miệng:
- Cháu rức đầu lắm.
Phần con, thật không ngày nào là
không rức đầu, nhưng con không rên như thế. Phải một hôm, vì muốn học mót chị,
con vào ngồi ghế ở phòng khách, rồi sụt sịt khóc. Khóc được một lát, chị Jaenne
thân thiết của con đến thăm rồi mợ cũng đến và hỏi con tại sao mà khóc. Con
cũng nũng nịu như chị Marie, vừa mếu vừa nói:
- Cháu rức đầu lắm!
Mợ và chị Jeanne xem ra không tin con
khóc vì nhẽ rức đầu, nên không yêu dấu mơn trớn cháu như mọi khi, lại nghiêm
nét mặt và mắng cháu như mắng một người đã biết điều; chị Jeanne cũng khó chịu,
trách con êm nhẹ mấy điều và tỏ bộ buồn vì con không thật lòng nói cho mợ biết
tại sao mà khóc; chị ngờ là con phải bối rối điều gì quá chăng.
Thấy kết quả không hay, không lợi,
lại bị mắng, con đã nhất định rầy đi không chơi cách đó nữa, cũng chẳng học mót
ai làm gì. Con hiểu câu chuyện ngụ ngôn con lừa và con chó con, mà hổ thẹn...
Con tự ví mình là lừa, thấy chủ vuốt vẻ chiều chó con, cũng bắt chước ghệ bàn
chân cuốc lên bàn để chủ hôn và vuốt ve. May mà con không phải gậy đập vào lưng
như con lừa khốn nạn kia; nhưng cũng đã được một bài học nên thân. Bài học ấy
đã chữa con khỏi hẳn cái bệnh muốn làm nũng, muốn được để ý...
Sự lương tâm bối rối, đã làm con sinh
bệnh phần xác. Con phải bỏ dở dang việc học hồi 13 tuổi. Nhưng để kết thúc việc
học vấn ấy, hàng tuần cha thường dẫn con lại đàng nhà một bà quý phái kia để
xin bài học. Bà đã cho con nhiều bài học rất hay, quý hoá lắm, giúp con tấn tới
cả đôi đàng: thêm kiến thức, từng trải việc đời.
Nhà bà ăn chơi theo lối cổ; trong
phòng bày biện sách vở báo chí rất nhiều, quý khách vào ra tấp nập hầu cả ngày.
Bà cụ thân sinh ra bà chuyên môn có việc tiếp khách.
Những ngày đông khách đến chơi, con
học chẳng được mấy, mũi dòm sách mà tai vẫn để nghe chuyện đâu đâu, thành thử
con nghe được hết, cả những mẩu chuyện không nên nghe, cũng vào tai con cả. Có
bà nói khen con có tóc đẹp quá! Bà khác lúc ra về, còn hỏi với lại con bé nào
mà xinh thế! Những lời khêu gợi lẳng lơ này, lẽ ra đừng nói để con nghe mới
phải, đã làm động tình vui thích trong mình con. Sự động tình vui thích đó,
chứng tỏ lòng tự ái của con quá mạnh mẽ.
Thương hại! Có biết bao linh hồn hư
đi khốn nạn cũng chỉ vì thế! Đường đời rắc hoa dễ chiêu người lắm! Chắc rằng,
một linh hồn đã có phần khôn ngoan cao thượng đôi chút, sẽ hiểu ngay được sự êm
ngọt của đường đời vốn pha lẫn mùi chua chát cay đắng, và những lời tô nịnh
trong giây phút, chẳng thể làm thoả mãn lòng ao ước bao la man mác của mình;
một lần nữa, con nhắc lại nếu lòng con đã không hướng về Chúa ngay từ lúc bắt
đầu biết cảm, nếu cuộc đời đã niềm nở vui cười cùng con ngay từ khi vừa chạm
trán với đời, không biết con sẽ trở nên giống gì?
Ôi! Mẹ yêu dấu, con phải ngợi khen
lòng lành thương xót Chúa dường nào! Nào Chúa đã chẳng thương con như lời sách
Khôn Ngoan dạy: “Trước khi thế gian mưu mô ám hại phần trí khôn và giở trò giả
dối để dụ hoặc linh hồn tôi, Chúa đã cất tôi ra khỏi đó”
Để dâng mình cách riêng cho Đức Mẹ,
con đã thành tâm quyết chí vào hội Con Đức Mẹ; bởi thế, tuần lễ nào con cũng
phải vào nhà Dòng hai lần. Sự năng vào ra như thế, con rất ngại vì vốn tính con
rất nhát. Tuy vẫn quý mến và biết ơn các bà dạy dỗ con nhiều, nhưng như con đã
nói, con không trìu mến riêng bà nào như các chị em trong trường, để trò chuyện
từng giờ, từng mấy giờ. Những khi đến nhà Dòng con cứ lặng lẽ làm việc bổn phận
cho xong; và thừa lúc không ai để ý đến, con lên ngay sàn gác nhà Nguyện, ở đấy
cho đến khi cha đến đón con về.
Con rất được an ủi những khi viếng
Chúa lặng lẽ thể ấy. Nào Đức Chúa Giêsu không phải là nghĩa thiết số một của
con sao? Con chỉ biết chuyện trò với Chúa. Nói chuyện với chị em, dù là những
chuyện đạo đức, linh hồn con cũng dễ nhọc lắm. Sự thật, những lúc trơ trọi một
mình đó, nhiều lần con cũng cảm thấy tẻ lạnh; nhưng con thường hay tự an ủi
bằng cách ngâm nga lời thơ đẹp đẽ mà cha đã có lần đọc cho con nghe rằng:
Thế gian không phải là nhà,
Thuyền con xuôi bến, ấy là thế
gian...
Con bé thì bé thật, nhưng khi đọc
những lời thơ cảm khái ấy, con thấy tâm hồn dũng mãnh lên nhiều. Tới ngày nay
đã bao năm trường, dầu con đã quên nhãng nhiều cảm tình sốt sắng lúc còn nhỏ,
nhưng hình ảnh cái thuyền con không thể quên. Thuyền vẫn như chờn vờn trong trí
khôn con, làm con vui thích, giúp con chịu đựng hăng hái cuộc chìm nổi ở chốn
ba đào.
Trong Sách Thánh đã nói:
Cuộc đời ví thể thuyền trôi,
Lao mình trong nước xé đôi sông ngàn!
Băng băng còn biết hỏi han?
Một làn nước mặn xoá tan vết
đường...
Trong giờ phút tâm niệm ngẫm nghĩ
những lời văn này, đôi mắt con như mơ mộng, siêu chìm trong cõi vô biên! Con
tưởng thuyền đã trôi xa, mắt đã nhìn thấy bến đời đời! Đức Chúa Giêsu đã yêu
dấu ôm con vào lòng... Con mơ thấy Đức Mẹ Đồng Trinh cũng vui vẻ ra đón con, có
cả cha mẹ và bốn anh chị như bốn Thiên Thần rất xinh đẹp! Con tưởng chừng đã
đến giờ hiệp hoan hưởng phước đời đời trên Quê thật!
Khúc tân ly biệt
Nhưng có đâu mà được về nghỉ ngơi
trên nhà Cha Cả! Con còn phải chịu đau lòng nhiều vì nỗi sanh ly tử biệt. Chính
năm con được nhận vào hội Con Đức Mẹ, chị Marie là cột chống đỡ linh hồn con,
lại từ giã gia đình vào nhà Kín Lisieux.
Từ khi chị Pauline vào Dòng, con chỉ
còn chị Marie để hỏi han nương tựa, cho nên con quý mến chị lắm, không ở đâu là
không có chị có em.
Vừa khi được biết chị nhất định bỏ
thế gian, con cũng nhất định không thiết gì ở thế gian nữa. Con nhớ khóc chị cả
ngày! Hồi ấy con dễ khóc lắm: bất cứ xảy ra việc quan trọng hay tầm thường, con
cũng khóc. Chẳng hạn như mấy dịp sau đây:
Con ái mộ đi đàng nhân đức, nhưng lại
thích làm việc nhân đức cách kỳ dị: con không quen hầu mình; chị Céline thường
thu buồng hộ con, con cũng không phải mó tay đến việc cửa nhà. Thỉnh thoảng để
làm vui lòng Chúa, con thu xếp chăn chiếu, hay buổi chiều chị đi vắng chưa về,
con thu cất bình hoa của chị Céline vào nhà. Như con đã nói, chỉ vì mến Chúa mà
con làm những việc ấy. Vậy thì lẽ ra làm rồi đừng mong được ai trả ơn mới phải.
Nhưng khốn nạn! Nếu chị Céline đã biết con giúp chị công việc như thế, khi về
mà không tỏ mặt vui vẻ, không lấy làm lạ sao con làm được như vậy, thì con lại
khó chịu, chẳng bằng lòng và mắt lại ướt!
Lại giả như con vô tình làm phiền ai
điều gì, lẽ thì phải xin lỗi mà sửa lại ngay; nhưng không, lại còn buồn bã để
sinh bệnh nạn ốm yếu, thành thử đã lỗi lại lỗi thêm; và khi tự biết an ủi vì
điều lỗi đó, lại quay ra hối hận mà khóc vì trước đã khóc.
Thật là tội nợ! Chỉ mình làm tội mình
mà khổ!
Ngày nay không thế nữa; Chúa đã ban
cho con ơn không còn phải xao xuyến vì lẽ gì thế gian. Nghĩ lại chuyện xưa,
việc cũ, con không thể nào cảm tạ Chúa cho xiết được. Ơn Chúa ban đã làm cho
con đổi hẳn tính nết, đến nỗi nay chẳng còn giống xưa một tính nết nào.
Khi chị Marie vào dòng Kín, là con
hết người để tỏ bày tâm sự. Con đã ngửa mặt lên trời thở than với bốn Thiên
Thần nhỏ là các anh chị con đang hưởng phúc trên đó. Con nghĩ bụng những linh
hồn thánh này, xưa sống ở thế gian, không hề phải biết đến những nỗi âu lo sợ
hãi, hẳn sẽ thương tình đứa em út còn đang sầu khổ ở nơi khách địa tha phương.
Con đã lấy tình em thật thà đơn sơ
thưa với bốn thiên thần anh chị con rằng:
Trong nhà thì em là út, cho nên cha
mẹ và các chị đều có lòng thương yêu chiều chuộng cả. Phải mà ngày nay còn được
họp mặt cả ở thế gian, chắc cái lòng cha mẹ thương con, anh chị yêu em cũng vẫn
còn, và có lẽ đến nay kể là đã lâu ngày tháng, cái tình thương yêu đó lại càng
thắm thiết hơn bội phần.
Nhưng các thánh đã về quê Thiên đàng,
lẽ đó có phải là lẽ đủ để bỏ quên em chăng? Trái lại, rầy anh chị được ở gần
kho tàng vô giá Thiên Chúa, âu là nhớ em lắm, xin gởi xuống cho em sự bình an
để minh chứng: trên trời người ta cũng biết thương yêu.
Con vừa thân thưa xong, thì thấy trả
lời ngay: trong hồn con dớn lên những đợt sống bình an thư sướng lắm.
Thế là con đã được yêu, yêu ở dưới đất,
yêu ở trên trời! Từ đó, lòng con càng sốt sắng mến nhớ các anh chị thiên thần;
con những thích cầu xin, chuyện vãn kể lể cho các anh chị biết hết những nỗi
buồn thảm thế gian và phơi giãi tấm lòng khát khao mong mỏi chóng được về với
các anh chị để hưởng phúc cực lạc quê Thiên đàng.
Nếu trời đổ ơn xuống cho con, cũng
chẳng phải là bởi công lênh mà con được. Tuy con vẫn thật lòng ước ao đi đàng
nhân đức; nhưng việc thực hành nhân đức còn khuyết điểm lắm. Tính đa cảm của
con đã làm cho con dở hơi quá; hồi ấy lý lẽ đối với con cũng vô ích hết, con đã
biết là xấu thói mà không thể chừa. Như vậy, còn muốn vào Dòng Kín sao được?
Phải có phép lạ mới có thể giúp con
trong một thời hạn vắn, trở nên người biết điều. Phép lạ mong ước ấy, Đức Chúa
Trời đã làm trong ngày không thể quên kia – ngày 25 tháng 12 năm 1886. Trong
đêm Sinh Nhật – một đêm hồng phúc – Chúa Hài đồng Giêsu, chỉ trong một giờ, đã
đổi hẳn đêm tăm tối u mù của linh hồn con thành những vầng sáng rực rỡ chói
lói. Tình yêu vô lượng đã khiến Chúa sinh làm con trẻ ngây thơ yếu ớt, để con
là chính kẻ yếu đuối dại dột trở nên mạnh dạn can đảm. Người trao khí giới
Người cho con dùng. Với những chiến khí, con bước tới đâu thắng tới đấy, thắng
luôn luôn; có thể nói: Con có bước đi của tướng đại lộ, thành công nhanh như
chớp. Suối lệ từ đó cũng khô, rất khó khóc, rất hoạ hoằn mới lại khóc.
Thưa Mẹ, con xin kể trường hợp Chúa
ban cho con ơn quý hoá biến đổi tính nết đó:
Năm ấy, đi lễ nửa đêm về, quen thân
quen thói như lúc còn nhỏ, con lon ton chạy lại bên lò sưởi lấy kẹo bánh và các
đồ chơi trong giầy – cử chỉ này minh chứng cho đến năm ấy – con còn được chiều
chuộng như trẻ nít. Cha cũng thích xem con sung sướng thích nghe con reo mừng
mỗi khi rút ở giày ra một cái quà. Con thấy cha thích, lòng càng hớn hở.
Nhưng giờ đã đến giờ, Chúa Giêsu muốn
con thoát ly những thói hư tuổi trẻ và từ bỏ những vui thích ngây thơ. Chúa
cũng khiến cha đừng nuông con như mọi khi, nên lần này cha tỏ vẻ khó chịu không
bằng lòng với con. Khi bước lên phòng, con nghe thấy cha nói những lời như xé
ruột rằng:
“Một con gái lớn như Têrêsa mà còn
phải chiều thế này, trẻ con lắm! Cha hy vọng đây là lần sau hết”.
Chị Céline, vì đã biết con hay mủi
lòng, khẽ bảo con rằng:
“Thong thả một chứ đã, em đừng xuống
vội, kẻo thấy cha và quà cha cho, em lại khóc mất!”.
Nhưng Têrêsa này khác Têrêsa xưa
rồi... Chúa Giêsu đã hoán cải tâm tình!
Chùi nước mắt cho sạch, con nhanh
nhẩu chạy xuống phòng ăn, và hãm trái tim rung quá mạnh, con cầm lấy những
chiếc giày vui vẻ rút ra bao nhiêu là đồ chơi, kẹo bánh, mặt mày hớn hở, như vị
công chúa. Cha cũng vui cười, trên gương mặt không thấy dấu gì bất bình khó
chịu; chị Céline bỡ ngỡ tưởng mình đang mơ! Nhưng mơ chi mà mơ! Đó là một sự
thật đẹp dịu dàng: Têrêsa vừa đã phục hưng cái sức mạnh mẽ linh hồn, cái sức
mạnh đã mất hồi bốn tuổi rưỡi.
Chính trong đêm sáng sủa này đã mở
đầu giai đ0ạn thứ ba trong đời con – một giai đoạn đẹp đẽ nhất, hồng ân nhất.
Trong nháy mắt, công cuộc hằng bao
năm trời cố gắng không xong, Đức Chúa Giêsu đã làm xong ngay; làm vì thương con
có lòng ngay lành. Như các môn đệ Chúa, con đã có thể nói:
“Lạy Chúa, con đánh cá cả đêm mà chẳng
được con nào!” . Đức Chúa Giêsu tỏ tình yêu con hơn yêu các Tông đồ.
Người đã cầm ngay lấy lưới, tung xuống rồi kéo lên đầy những cá to; Người đã
làm con trở nên người đánh cá thiêng liêng... Đức ái nhân đã dồn dập vào lòng
con, thôi thúc con hằng phải quên mình mãi mãi, và cũng tự giây phút ấy, con
mới thấy mình được phúc cho thật.
Tha thiết phần rỗi
Một ngày Chúa nhật, khi lễ xong, con
gấp quyển sách con lại, mẫu ảnh Chúa chịu nạn kẽ sách, còn thò ra ngoài mép, để
con trông thấy một bàn tay Chúa phải đanh đóng thâu qua, máu chảy ròng ròng.
Khi ấy, lòng con xúc động phi thường, trái tim như nứt vỡ tan tành vì đau đớn
quá chừng; con thấy Máu rất châu báu ấy tầm tã nhỏ xuống đất, mà chẳng có ai
vội vã hứng lấy! Con liền dốc lòng đem trí khôn đến “thường trực” dưới chân
Thánh giá chẳng khi đừng, hứng lấy Máu Thánh hay sinh phần rỗi ấy, hầu phân
phát cho các linh hồn nhờ.
Từ đấy về sau, tiếng tha thiết dấu
yêu Chúa đã than thở trên Thánh giá lúc hấp hối sinh thì: “Tao khát!” từng giây
phút, hằng vang inh ỏi trong trái tim con, làm cho lòng con nóng nảy quá, như
ngọn lửa bầng bầng cháy liên. Con muốn dâng nước cho Chúa uống kẻo khát! Con
cũng cảm thấy lòng con khát khao phần rỗi linh hồn người ta lắm; con muốn dùng
hết tài, xuất hết lực, hy sinh mọi lẽ để cứu kẻ tội lỗi cho khỏi lửa hoả ngục.
Như để kích thích lòng con tha thiết
phần rỗi, ít lâu sau, Chúa đã tỏ cho con biết Người rất vui lòng vì những ước
ao của linh hồn con. Có lần con nghe nói tên tù phạm Pranzini bị luận án tử, vì
những tội loạn thường gớm ghiếc. Nó cứng lòng chẳng chịu ăn năn, ắt sẽ phải
thêm án trầm luân khốn nạn đời đời. Con muốn ra tay cứu tội nhân cho khỏi án
trầm vong muôn kiếp; con đã dùng mọi phương pháp thiêng liêng; và biết mình hèn
hạ không đáng gì, con đã dâng tất cả những công nghiệp trọng vô cùng của Chúa
Cứu Thế, mọi kho tàng Hội Thánh để chuộc lại linh hồn ấy.
Lòng con như tin chắc người tội lỗi
sẽ trở lại. Nhưng để được chấn phấn theo đuổi công cuộc phần rỗi, con đã thực
tình nài xin Chúa rằng:
- Lạy Chúa tôi, tôi tin chắc Chúa sẽ
thứ tha cho Pranzini tội lỗi khốn nạn; dù nó không xưng tội, không tỏ một dấu
gì ăn năn, tôi cũng vẫn tin vững vàng chắc chắn, vì tôi trông ở lượng hải hà
xót thương Chúa lắm.
Song, lạy Chúa tôi! Này là kẻ tội lỗi
thứ nhất mà tôi lo lắng cứu lấy, bởi lẽ đó, tôi dám xin Chúa nhân từ vô cùng,
khấng ban cho nó tỏ một dấu ăn năn, để an ủi lòng tôi cậy trông ở Chúa!
Lời cầu xin của con đã được đắt từng
chữ! – Xưa nay chẳng bao giờ cha cho phép chúng con đọc báo; nhưng phen này có
đọc cột thời sự về vụ án xử tử tội nhân Pranzin, con không tin là lỗi đức vâng
lời. Hôm sau ngày xử Pranzini, con vội vàng mở tờ báo “La croix” ra xem. Chao
ôi! Lòng cảm động, nước mắt trào ra! Con không thể đứng yên phải chịu rút lui
đi chỗ khác. Pranzini không xưng tội, không được chịu phép giải tội, đã bước
lên đoạn đầu đài; khi lý hình đằng xác hắn lên tấm ván để xử, bỗng chốc được ơn
trên soi sáng thôi thúc, hắn quay mặt lại cầm thánh giá vị linh mục vẫn còn
theo để an ủi khuyên bảo trao cho, hôn ba lần những thương tích Chúa!...
Ấy là dấu Pranzini ăn năn trở lại mà
con cầu xin Chúa, và Chúa đã khấng ban cho; dấu này làm êm dịu lòng con lắm
lắm. Ấy vì nhìn thấy những thương tích đau đớn Chúa, vì trông thấy những hạt
bửu huyết Chúa nhỏ xuống ròng ròng mà lòng con khát khao phần rỗi linh hồn
người ta dường ấy! Con muốn đưa Máu cực thánh ấy cho các linh hồn uống, để rửa
sạch mọi bợn nhơ ô uế. Thì đây, tội nhân này thật là con đầu lòng của con, lúc
hòng sa xuống hoả ngục, đã áp môi đau đớn hôn vết thương Chúa, uống bửu huyết
Chúa! A, Chúa đoái nghe lời ta cầu nguyện dường nào!
Từ khi được ơn trọng này, sự tha
thiết phần rỗi các linh hồn càng mạnh mẽ trong lòng con; con nghe như Chúa thì
thầm cùng con lời xưa đã phán cùng người nữ Samaritano: “Hãy cho Ta
uống!” . Đó là một cách trao đổi tình ái rất thân: Con trao Máu Thánh
Chúa cho các linh hồn uống, con tiến Chúa những linh hồn ấy, đã được mát mẻ vì
Máu Thánh Chúa tưới giội. Con tưởng làm thế mới giải khát lòng Chúa được một
hai phần; nhưng càng dâng nước cho Chúa uống, con càng thấy lòng con khát khao
hơn. Con xem sự nóng nảy khát khao này là phần thưởng Chúa ban, phấn chấn lòng
con mọi đàng.
Tính hiếu học
Trong một thời gian vắn, Chúa đã dẫn
con ra khỏi khu vực hẹp hòi mà con đã sống trước. Đã bước được một bước dài;
nhưng, con đường phải đi còn rất xa xăm!
Sau khi khỏi bệnh bối rối, bỏ được
tính đa sầu đa cảm, tâm trí con cởi mở lắm. Trước con đã ưa thích cái to, cái
đẹp; từ bấy giờ lại bắt thêm cái thích: Thích thông thái am hiểu nhiều sự.
Không lấy những bài học các bà giáo ra làm đủ, con chuyên riêng nhiều khoa
khác; và theo sự cố gắng riêng ấy, chỉ trong mấy tháng, con đã lượm được nhiều
kiến thức hơn tất cả những năm học ở trường. Ôi! Sự nhiệt thành này phải chăng
là sự giả trá vô ích, sự bận lòng cực trí?
Với tính khí nóng nảy ấy, con thấy
mình ở vào quãng đời nguy hiểm nhất. Nhưng Chúa đã xử đãi con như lời tiên tri
Ezéchiel nói xưa:
“Người thấy tôi đã đến tuổi cần được
yêu; Người giao ước lấy tôi ngay, và tôi đã trở nên bạn Người; Người khoác áo
ngoài mình lên tôi; tắm rửa tôi bằng những nước thơm quý báu rồi vận áo bóng
bẩy đẹp đẽ cho tôi, lại cho đeo vòng vàng xuyến ngọc và xức nước hoa hảo hạng
cả mình. Người nuôi tôi bằng thứ bột rất tinh sạch, bằng thứ mật rất quý, bằng
thứ dầu rất ngon, thứ nào cũng rất hậu. Khi ấy tôi đã trở nên xinh tốt đẹp mắt
Người lắm. Người lại phong tôi là Hoàng Hậu uy quyền lộng lẫy” .
Thật, Chúa đã yêu con đúng từng nét.
Con có thể lấy từng chữ của đoạn văn tuyệt bút mà tiên tri nói đấy, để ướm vào
mình lời nào cũng hợp cả. Nhưng chẳng cần, những ơn Chúa ban cho con xưa rày
như đã kể trên, là chứng cớ cụ thể rồi. Đây con chỉ nói về cách Chúa nuôi con
rất hậu.
Từ lâu trước, con vẫn bồi dưỡng sự
sống thiêng liêng linh hồn con bằng “thứ bột rất trong sạch” chứa trong sách
Gương Phúc. Hồi ấy con chỉ biết tấn tới bằng sách ấy thôi. Nhưng kho tàng châu
báu trong sách Phúc Âm, con chưa biết khám phá đến. Con không rời sách Gương
Phúc khỏi tay khi nào. Cả nhà ai cũng thích đọc sách ấy; nhiều lần mợ mở bất
ưng, gặp trang nào bảo con đọc trang ấy cho mợ nghe.
Khi lên 14 tuổi, nhận thấy con rất
hiếu học, Chúa đã pha thêm nhiều mật và dầu vào bột tinh sạch cho con dùng. Thứ
mật và dầu này Người cho con cảm thấy trong tập diễn văn của cha Arminjon nói
về sự bế mạc thế gian và những sự mầu nhiệm đời sau.
Đọc tập diễn văn ấy, linh hồn con như
được gieo trong hạnh phúc, thứ hạnh phúc không phải của thế gian, con đã cảm
thấy trước những êm dịu ngọt ngào sung sướng Đức Chúa Trời để dành cho những kẻ
kính mến Người; con thấy phần thưởng trọng hậu quá, chút công lênh bé mọn làm
thuở bình sinh chẳng đáng gì; bởi vậy con muốn kính mến Chúa cho hết tình chí
thiết, cho tận nghĩa say sưa, con muốn tỏ tình thắm thiết ấy bằng muôn cách có
thể được.
Dây thân ái giữa Céline và Têrêsa
Chị Céline đã nên người tâm sự của
con, nhất là từ lễ Sinh Nhật trở đi, bao nhiêu tâm tình ý chí, con tỏ hết cùng
chị. Chúa muốn cho hai chị em, tay cầm tay, tiến bước trên nẻo trọn lành; ngoài
cái tình ruột thịt khăng khít, Chúa lại buộc lòng chúng con yêu quý nhau bằng
dây thân ái thiêng liêng, bền chặt hơn dây huyết quản nhiều. Người làm hai linh
hồn chúng con nên hai chị em nghĩa thiết.
Chúng con thấy thực hiện nơi chúng
con những lời cha Thánh Gioan Thánh Giá đã vịnh trong ca thiêng liêng rằng:
Lạy Chúa chí ân, chí ái
Chân Chúa đi lốt để lại đàng
Các thiếu nữ nhẹ nhàng theo bước,
Sáng rực rỡ soi,
Rượu thơm tho dẫn
Các thiếu nữ hớn hở thở hơi thơm ngát...
Chân Chúa đi lốt để lại đàng
Các thiếu nữ nhẹ nhàng theo bước,
Sáng rực rỡ soi,
Rượu thơm tho dẫn
Các thiếu nữ hớn hở thở hơi thơm ngát...
Vâng, dõi theo lốt chân Chúa, chúng
con cảm thấy nhẹ nhàng thảnh thơi lắm! Những ánh hồng rực rỡ Chúa giãi xuống
hồn chúng con, rượu ngon thơm tho và bổ Người cho chúng con uống, làm phai mờ
nhạt nhẽo trước mắt chúng con tất cả những phù vân giả tạm thế gian; và từ
miệng lưỡi chúng con thở ra những lời khát khao sực mùi tình ái.
Nay nhớ đến những câu chuyện chị em
thỏ thẻ cùng nhau khi ấy, vui thú êm đềm lạ! Chiều nào hai chúng con cũng rủ
nhau lên sân thượng say sưa ngắm cảnh trời xanh thăm thẳm, lốm đốm sao vàng đẹp
đẽ, xem chừng khi ấy chúng con được nhiều ơn trọng lắm. Lời sách Gương Phúc:
“Có khi Đức Chúa Trời thông mình ra trong giữa nơi quang ánh chói lói; có khi
Người êm nhẹ né mình dưới bóng rợp và hình bóng” . Đó là cách thức Chúa
đã tỏ mình cùng chúng con. Nhưng bóng rợp kia, hình bóng kia cũng rất nhẹ nhàng
thấp thoáng! Chúng con nhận được Chúa ngay, không do dự chút nào. Chúng con
cũng không còn phải tin cậy gì nữa, lòng kính mến đã giúp chúng con tìm thấy
Đấng chúng con tìm rồi. Chúng tôi đã gặp thấy một mình Người Người hôn mặt
chúng tôi, để sau này chẳng còn ai có thể khinh chúng tôi được .
Những xúc cảm thiêng liêng này chẳng
phải là không sinh công hiệu, không có ảnh hưởng; con đã nhận thấy sự thi hành
nhân đức được dịu dàng và tự nhiên. Khi đầu, cũng phải cầm cự chống trả xác
thịt, nhưng dần dần cái lạ thành cái quen, sự bỏ mình cũng không còn là việc
khó.
Đức Chúa Giêsu đã phán: “Kẻ đã có lại
cho thêm, nó sẽ nên giàu có dư dật” . Bởi con trung thành giữ ơn Chúa,
Chúa đã ban nhiều ơn khác tiếp theo. Con đã được chịu lễ nhiều lần hơn là lòng
dám mong ước. Con ra luật cho mình rằng, phải dọn mình chịu lễ rất sốt sắng
những lần cha linh hồn ban phép, đừng xin thêm bao giờ. Nay con không cứ lối ấy
nữa, vì thiết nghĩ một linh hồn thấy ái mộ siêng năng chịu lễ, phải tỏ lòng ái
mộ ấy cho cha linh hồn biết. Chẳng phải vì bình vàng mà Chúa hằng ngày bởi Trời
ngự xuống thế gian đâu, Người muốn tìm đến một thiên đàng khác: thiên đàng ấy
là chính linh hồn chúng ta, trong đó, Người thoả thuê sung sướng!
Chúa thấy lòng con khát khao thể ấy.
Người đã soi cho cha giải tội ban phép con được chịu lễ mỗi tuần nhiều lần. Con
thấy được chính cha giải tội ban ơn đó, lòng xiết đỗi vui mừng hoan lạc. Trong
kỳ ấy, con chẳng bày tỏ hay bàn hỏi gì về tâm tình kín đáo trong mình, con
đường con đi đã thẳng thắn và sáng sủa lắm. Con chẳng cần phải có hướng đạo nào
ngoài Chúa Giêsu. Con vẫn ví các cha linh hồn như những tấm gương trong trẻo
phản chiếu Chúa trong các linh hồn; nhưng như con, con trộm nghĩ, Chúa chẳng
muốn dùng ai làm trung gian, chính Người đã hoạt động trực tiếp trong lòng con.
Một khi người làm vườn muốn chăm cho
thứ quả nào chóng chín, họ chẳng để quả treo lủng lẳng mãi ở nhành cây đâu, họ
hái đem về rấm, hầu kịp chín để bày tiệc đã định ngày cho lịch sự trọng thể.
Đức Chúa Giêsu đã ban nhiều ơn cho thân hoa hèn này cũng không ngoài cái định
tâm ấy. Người muốn làm lừng lẫy ở nơi con lòng xót thương hải hà Người. Thuở
bình sinh trong một lần hứng vui, Chúa đã kêu lên rằng:
“Lạy Đức Chúa Cha, Con ngợi khen Cha
vì đã giấu những người khôn ngoan thông thạo, các sự này để chỉ tỏ cho những kẻ
hèn mọn biết” .
Bởi con hèn mọn yếu đuối, nên Chúa đã
thương tình chiếu cố đến và dịu dàng dạy bảo con những sự kín nhiệm về tình yêu
Chúa. Như lời thánh Gioan Thánh giá đã vịnh trong ca linh hồn rằng:
Đèn sôi người dẫn nào có có!
Ta chỉ có ánh sáng trong lòng.
Dẫn ta đi sáng như giờ ngọ,
Ta đã về chốn vẫn chờ mong.
Ta gặp bạn tình xưa quen biết,
Đã cùng ta thân thiết mặn mà...
Ta chỉ có ánh sáng trong lòng.
Dẫn ta đi sáng như giờ ngọ,
Ta đã về chốn vẫn chờ mong.
Ta gặp bạn tình xưa quen biết,
Đã cùng ta thân thiết mặn mà...
Chốn chờ mong đó, chính là nơi Dòng
Kín, nhưng trước khi được nằm nghỉ dưới bóng Đấng yêu mến , con đã phải
qua biết bao gian nan cơ cực! Mặc lòng, tiếng khẩn khoản Chúa kêu gọi kia, dù
phải bước qua lửa mà đến cùng Chúa, con cũng không quản ngại nghe theo.
Để phấn khởi ơn Chúa kêu gọi con, khi
ấy con chỉ gặp được một linh hồn – linh hồn chị Pauline yêu dấu. Trái tim con
rất ăn nhịp cùng trái tim chị; giả như không có chị cảm khái cho, nhất định con
không thể tới bến phúc lộc mà chị đã tới 5 năm trước.
Thật, thưa Mẹ, 5 năm xa cách Mẹ, con
tưởng như đã phải vĩnh biệt Mẹ rồi; ngờ đâu trong lúc gian nan xo giụi, lại
được chính Mẹ đứng ra vạch đường chỉ nẻo, con rất cần sự an ủi ấy, bởi vì cả
những lần đến thăm nhà Dòng, mà chị em gặp nhau ở nhà khách, con cũng thấy nặng
lòng quá: Con không thể nói đến việc xin vào tu mà không bị hất hủi; chị Marie
cứ nhất thiết rằng con còn bé, vào làm sao được mà vào. Thoạt kỳ thuỷ, con gặp
ngăn trở như trấu rắc. Đàng khác, con chưa dám nói gì cùng chị Céline, mà sự
lặng lẽ này làm khổ lòng con lắm; con phải giữ bí mật với chị một điều gì, thật
là khó khăn quá.
Nhưng chẳng bao lâu chị cũng đã biết
ý định của con, và quý hoá thay! Chị không can gián, chị đã can đảm hy sinh đứa
em yêu dấu một cách gan góc lạ lùng! Nhẽ ra phải để chị đi trước vì chị cũng
quyết tâm tu đã lâu; song le, như xưa các thánh tử đạo đã vui lòng từ biệt các
em mình bước vào pháp trường chiến đấu trước thế nào, thì nay chị cũng bình tâm
để con từ giã chị thể ấy, đồng thời chị lại vui lòng nhận một phần sự gian truân
trong việc lo liệu con cho theo ơn kêu gọi chẳng khác gì như lo cho chính mình
chị vậy.
Têrêsa xin phép cha vào Dòng Kín 15
tuổi
Vậy xét phần chị Céline, con không
phải lo ngại gì rồi; nhưng còn phần cha, khó khăn quá! Con chẳng biết liệu cách
nào mà trình Người được. Cha vừa mới phải hy sinh hai con cho Chúa, nỗi thương
nhớ còn đầy lòng, bây giờ lại nói đến chuyện phải lìa công chúa cha sao cho
đành? Vả nữa năm ấy chúng con thấy cha phải chứng bệnh bại thân đau lắm, tuy đã
chóng khỏi thật, nhưng cũng còn phải lo ngại cho sau này.
Ôi! Trước khi tỏ việc cùng cha, lòng
con đã phải bối rối âu lo dường nào! Nhưng dù sao cũng phải nói cho xong, vì
con đã sắp 14 tuổi rưỡi, chỉ còn sáu tháng nữa đến lễ Sinh nhật là ngày con đã
nhất định vào Dòng Kín, cũng một giờ năm trước con được ơn sửa đổi tính nết.
Con đã chọn ngày lễ Hiện Xuống để
thưa cha việc quan trọng này. Cả ngày ấy, con những cầu xin Chúa Thánh Thần ban
ơn soi sáng, kêu van các Thánh Tông đồ nguyện giúp cầu thay, để con được biết
lời mà nói cho cha vui lòng. Có lẽ nào một trẻ mọn đã quyết chí dốc lòng từ bỏ
mọi sự, phú dâng mạng sống và cả đời, chỉ để chăm lo cầu nguyện cho các môn đệ
Chúa, lại chẳng đáng các Thánh Tông đồ bang trợ sao?
Đến khi hát kinh Chiều về, con đã gặp
được dịp mỏi lòng mong đợi. Thấy cha ra chơi ngoài vườn, ngồi khoanh tay ngắm
cảnh mỹ diệu thiên nhiên. Mặt trời sắp lặn, những ngọn cây cao lớn còn vương
ánh vàng nhợt nhạt, các chim con ríu ríu nguyện kinh tối, phim trời đã hòng
chiếu hết.
Thấy dong nhan cha nghiêm nghị như
trầm mặc trên Trời, con hiểu được lòng cha bình an thư thái mọi đàng. Con lặng
lẽ lại ngồi kề bên cha, miệng chưa kịp nói lời gì mà nước mắt tràn đầy hai mí.
Cha đã nhìn con cũng tỏ lòng yêu dấu chí thiết. Cha ẵm đầu con vào ngực mà hỏi:
- Con, việc gì vậy? Nói cho cha nghe
nào...
Đoạn cha đứng dậy như để nén lòng
thổn thức xuống cứ ôm con vào lòng, bước đi bước lại cho khuây khoả.
Lúc ấy con mới gạt nước mắt, nói tới
việc Dòng Kín và tỏ lòng ước ao được vào Dòng cho chóng. Cha nghe cũng phải
khóc! Nhưng người chẳng nói lời gì ngăn cản ơn kêu gọi của con; người chỉ bảo
rằng con còn trẻ đã quyết định việc quan trọng đó làm sao được. Song con cứ nài
nẵng và nói nhiều lẽ nhất thiết xin cho bằng được, thì cha đã theo lòng thẳng
thắn và độ lượng sẵn có mà phục lý và ưng cho. Rồi hai cha con dạo chơi trong
vườn mãi: lòng con nhẹ nhỏm, mắt cha khô lệ, cả hai an lòng vừa đi vừa chuyện
vãn vui vẻ. Con nghe cha nói chuyện như nghe một đấng thánh.
Khi đã tới một bức tường cao cao,
người chỉ cho con xem đám hoa nhỏ trắng giống như những bông huệ cỏn con, người
nhổ một cái đưa cho con và cắt nghĩa đã bao công phu Chúa làm cho hoa nở và gìn
giữ tươi tốt tới ngày nay.
Con nghe cha nói chuyện hoa như nghe
chuyện mình: hoa trắng nhỏ này và Têrêsa bé mọn đây có chuyện giống nhau như
lột. Con đã giữ lấy hoa ấy như một báu vật. Con thấy cha nhổ được cả rễ, không
giập, không đứt rễ nào, dường như còn để đem trồng nơi đất tốt màu hơn. Cái
công việc nhổ cây hoa đó, chính là ám chỉ về mình con: người vừa cho phép con
từ giã gia đình, thân quyến mà đi lên ở trên núi Carmel.
Con đã dán hoa nhỏ ấy vào ảnh Đức Bà
Thắng Trận: Hình như Đức Mẹ thấy hoa thì mỉm cười, và Chúa Giêsu cầm lấy trong
tay. Ngày nay hoa vẫn còn dính trên ảnh, chỉ có thân hoa nơi gần rễ là đã giập;
chắc nhân đó, Chúa muốn tỏ cho con biết chày kíp Người sẽ bứt đứt tất cả những
dây, những rễ chằng chịt thân hoa mọn Người, chẳng đành để nó vật vờ chìm nổi
mãi ở chốn phong đào nguy biến...
Những bước gay go
Khi đã xin được phép cha vào Dòng,
con tưởng như đã có thể tung mình bay một lèo tới đỉnh núi Carmel, không còn
phải e sợ gì. Nhưng ngao ngán thay đàng ngàn dặm mới qua vài bước! Cậu, sau khi
nghe con tỏ bày ý kiến xin vào Dòng, bực tức quá, đã trả lời dứt khoát rằng 15
tuổi đầu vào Dòng ngặt phép ấy, không phải là khôn ngoan gì, cái đó chỉ là mang
tiếng sự đạo, vì cho trẻ con vào tu một Dòng quá khắc khổ! Cậu lại nói thêm, sẽ
triệt để phản đối việc tu này, và nếu không có phép lạ can thiệp, cậu không hề
đổi ý.
Thấy cậu cả quyết như thế, con nghĩ
bụng nói thêm lẽ gì bây giờ cũng bằng thừa, cũng vô ích, con liền rút lui, lòng
rầu rĩ cay quá, nghẹn ngào không biết nghĩ làm sao, chỉ còn biết an ủi mình
bằng lời cầu nguyện. Con đã nài xin Chúa Giêsu lấy phép lạ can thiệp vào việc
tu của con, vì chỉ có phép lạ, con mới có thể vâng theo tiếng Chúa gọi.
Qua đi một thời gian lâu lâu, tưởng
là cậu chẳng còn nhớ gì đến chuyện cũ; nhưng sau con mới rõ cậu vẫn để ý đến
việc con xin vào Dòng.
Trước khi để ánh sáng hy vọng dọi
chiếu vào linh hồn con, Chúa đã gởi cho con một đau đớn, dằn vặt con đủ ba
ngày. Trong cơ hội này, con mới hiểu thấm thía hơn bao giờ, nỗi lòng đau của
Đức Mẹ và thánh Giuse khi đi tìm Chúa Giêsu ở các phố thành Giêrusalem.
Con coi mình như bị lạc vào một rừng
thẳm sâu ghê sợ; hay đúng hơn, linh hồn con như chiếc ghe mong manh đi ngoài
khơi, bị cơn giông dữ dội vặn gẫy tay lái, phải để dật dờ trôi theo sóng gió.
Con cũng biết có Chúa ở thuyền con, đang nằm ngủ; nhưng giữa đêm tăm tối mịt mù
ấy, trông thấy Chúa sao được? Giả như giông tố để mưa xuống, hẳn là sẽ có chớp,
chớp sẽ loè ánh sáng trong mây đen nghịt, và đành rằng ánh sáng của chớp tuy
buồn bã thật, nhưng ít là nhờ nó trong nháy mắt, để nhìn thấy Đấng ân ái của
lòng trìu mến.
Nhưng không, chỉ thấy có đêm mịt mùng
u thảm! Chỉ thấy có trời lạnh lẽo vắng tanh, tẻ lạnh như sự chết! Con đã cảm
thấy mình bơ vơ trơ trọi như xưa Chúa Giêsu bơ vơ trơ trọi trong vườn Hấp Hối!
Chẳng còn tìm đâu ra an ủi, trông lên cũng hết, ngó xuống cũng cùng! Thấy con
héo hắt quá, trời đất cũng chạnh lòng buồn: giót ba ngày mặt trời không mọc,
trái đất không được một tia nóng nào, chỉ có mưa, mưa như sụt trời xuống trọn
ba ngày.
Con nghiệm thấy rằng, trong mọi hoàn
cảnh đời con, trời đất như màn ảnh phô diễn tâm hồn: Khi con khóc, trời tầm tã
mưa; khi con vui, trời quang quẻ nắng, vòm không trung xanh biếc, không có dải
mây nào lơ lửng trôi.
Sang ngày thứ bốn tức là thứ bảy
trong tuần, con lại đến thăm cậu. Lần này cậu đổi hẳn thái độ, làm con ngạc
nhiên quá! Con chưa kịp thưa trình gì, cậu đã bảo con vào phòng làm việc của
cậu. Cậu mở đầu khiển trách con qua loa mấy lời êm nhẹ về cách con ăn ở chẳng
được hả lòng cậu, rồi bảo luôn rằng phép lạ nài hôm nọ chẳng cần nữa; cậu đã
cầu xin biết thánh ý Chúa bằng cách vui lòng cho con vào Dòng, nay cậu đã thấy
vui lòng rồi.
Khi ấy con chẳng còn nhận ra cậu nữa:
cậu ôm lấy con, yêu dấu như một người cha và nói giọng rất cảm động rằng:
“Hỡi cháu yêu dấu, cậu chúc cháu đi
Dòng bằng an; cháu là bông hoa nhỏ yêu quý riêng của Chúa, nay Chúa muốn hái,
cậu chẳng ngăn được”.
Con mừng rỡ quá, hớn hở trở về trại;
trông lên thấy ngọn trời trong vắt sáng sủa đẹp đẽ. Trong linh hồn, đêm tối
cũng chấm hết.
Chúa Giêsu đã thức dậy trả lại vui
mừng cho con rồi. Con chẳng còn nghe thấy tiếng biển gầm, tiếng gió rít: thay
vì gió gian nan lạnh lẽo, một cơn gió mát nhẹ nhàng phe phẩy đưa chiếc thuyền
con trôi về bến. Con tưởng mình đã tới bến! Trời ơi! Còn hơn một giông tố nữa
sẽ nổi lên! Đã có lúc con sợ cuống quýt sợ, vì thuyền trôi xa quá, e không vào
tới bến mỏi lòng mong chờ!
Thưa Mẹ, dàn xếp với cậu xong con lại
tiếp được thư Mẹ cho hay rằng: Cha Bề Trên Dòng không cho phép con vào trước 21
tuổi. Chẳng ai nghĩ đến lời kháng nghị quá nghiêm khắc, quá găng này bao giờ!
Mặc dầu không ngã lòng, con và cha đã đến trình bày sự thể cùng người. Người đã
tiếp hai cha con rất lãnh đạm. Nói làm sao cũng không nghe, cứ nhất thiết trả
lời không được. Lạnh lẽo chúng con từ biệt ra về! Người nói với một câu:
“Tuy thị thế, tôi chẳng qua chỉ là
thay mặt Đức Giám, ngoài ra nếu Ngài cho phép thì còn phải nói gì nữa!”.
Hai cha con vừa bước ra khỏi nhà
Chung, trời liền mưa rào! Trong linh hồn con cũng kéo mây đen ngòm! Cha không
còn biết an ủi làm sao, hỏi con có muốn đi Bayeux hầu Đức Cha thì người sẽ dẫn
đi. Con cảm ơn cha, vâng ngay.
Têrêsa thân việc vào Dòng
cùng Đức Cha Hugonin
Trước khi lên đường đi tỉnh Bayeux,
đã dồn dập xảy đến rất lắm chuyện. Bề ngoài, con vẫn như thường: Vẫn học hành,
vẫn tấn tới trong đàng kính mến Chúa. Nhiều lần con được sốt sắng nóng nảy lắm,
cảm hứng lạ lùng.
Một hôm, yêu mến Chúa quá, không biết
phải thưa Chúa làm sao! Lòng con ước ao chớ gì hết mọi người thế gian đều thờ
phượng ngợi khen Chúa, lòng con lại đau đớn nghĩ đến nơi trầm luân hoả ngục
chẳng có ai kính mến Đức Chúa Trời, chẳng có một chút việc gì là việc yêu mến!
Con đã thật tình than thở rằng, tôi vui lòng gieo mình xuống nơi cực khổ cực
nạn đầy dẫy những lời lộng ngôn dữ tợn ấy! Tôi đành lòng ở đấy để kính mến Đức
Chúa Trời đời đời! Có lẽ thế chẳng phải là làm sáng danh Chúa, Chúa chỉ muốn
ban hạnh phúc cho ta thôi, nhưng trong lúc quá yêu, người ta cảm thấy sự cần
phải nói ngàn điều dở. Nếu con đã dở thế, chẳng phải là con không quý phúc thiên
đàng; sở dĩ là trong con yêu đó, với con, thiên đàng cũng chỉ là tình yêu thôi;
mà trong lúc nhiệt liệt yêu, con thiết nghĩ chẳng có gì gỡ được con khỏi tay
Đấng mà con đã say sưa yêu mến...
Trong giai đoạn thứ ba này, Chúa đã
ban cho con một điều an ủi được sống gần gũi mấy linh hồn thơ ấy. Trước hợp ấy
thế này:
Một gia đình nghèo khó kia, người mẹ
goá lâm bệnh, có hai con dại chưa biết làm ăn gì. Con liền nhận coi sóc hộ bà
hai em dại ấy: con chị chưa đầy sáu tuổi. Thấy hai em ngay thật, có lòng tin cẩn
mọi lời khuyên bảo, con vui thích lắm. Con nói làm sao, hai em cũng tin; thật
phép rửa tội đã in sâu trong linh hồn những nhân đức siêu nhiên, cho nên từ bé
người ta đã biết tin cậy phần thưởng tốt lành đời sau, mà vui vẻ chịu đựng
những nỗi gian nan tất tưởi đời này. Thoảng hoặc một đôi khi thấy hai em bất
bình chi đó, nếu muốn xử hoà cho hai em lại thân thiết yêu nhau, thay vì hứa
cho đồ chơi, cho kẹo bánh, con nói cho hai em nghe phần thưởng trọng vọng thiên
đàng. Chúa Giêsu để dành cho những trẻ em ngoan ngoãn, biết ăn lời. Con chị,
trí khôn đã bắt đầu mở mang, mặt mày hớn hở nhìn con mà hỏi nhiều câu rất hay
về Chúa Giêsu, về nước thiên đàng tốt đẹp. Lại hứa vui vẻ rằng rầy đi sẽ nhường
nhịn em và không khi nào dám quên lời “cô cả” dạy – hai em quen gọi con cái tên
cô cả.
Nhận thấy những linh hồn trẻ thanh
sạch sấy, con sánh ví như sáp ong mềm mại, muốn in hình gì cũng dễ, hình sự dữ,
thương hỡi, cũng dễ như hình sự lành. Con đã hiểu thấm thía lời Chúa quở trách:
“Thà nó gieo mình xuống biển, chẳng thà làm gương mù cho một con trẻ!” .
Ôi! Phải mà được dạy dỗ hẳn hoi từ bé, đã có biết bao linh hồn tới bậc thánh
thiện rất cao.
Đành rằng Đức Chúa Trời chẳng cần ai
để làm ai nên thánh, nhưng như Chúa muốn người làm vườn khéo léo tỉa chăm chú
các cây non nớt và hiếm có thế nào, Chúa cũng muốn người ta giúp Chúa trong
việc vun tưới các linh hồn thể ấy. Chúa soi cho biết cách vun tưới mà thôi, còn
sự cây sinh chồi nẩy lộc, khai hoa kết quả là việc riêng Chúa, chẳng ai làm
nổi. Nếu người làm vườn lại vụng về không biết chắp ngành cây, không am hiểu
tính riêng từng cây, lại đem chắp, thí dụ: ngành hồng vào thân cây đào, muốn có
bông hồng nở trên ngành đào làm sao được?
Nhân đấy con nhớ câu chuyện nuôi chim
xưa:
Ngày xưa, con nuôi nhiều chim, được
một con bạch yến hót rất hay, cũng có một con sẻ rừng mà con chăm riêng vì
thương hại nó phải lìa mẹ khi còn trong tổ. Con sẻ rừng này chẳng được học mẹ
để hót tiếng mẹ, từ sáng đến chiều chỉ phải nghe giọng hót du dương vui vẻ của
chim bạch yến. Sẻ rừng cũng muốn hoà giọng hót theo, nhưng tiếng sẻ rừng lại
ngâm cùng bạch yến khó biết chừng nào! Con thấy nó cố bắt cái tiếng kêu se sẽ
của nó hoà với giọng hót bổng và râm ran của bạch yến mà phải nực cười! Nhưng
lạ chưa? Chẳng bao lâu sẻ rừng đã đi tới thành công: tiếng hót và giọng đưa của
nó hay như bạch yến! Cả hai con hót nghe như một.
Ôi! Mẹ yêu dấu, Mẹ cũng đã rõ ai đã
tập hót cho con thuở nhỏ và tiếng ai đã làm say lòng con lắm! Ngày nay con hy
vọng rằng dầu là hèn sức yếu đuối, sẽ có một ngày con được cùng Mẹ ngâm nga mãi
bài ca Tình Ái mà nhiều lần con đã được nghe Mẹ hát rất dịu dàng êm ái ở thế
gian này...
Mấy mẩu chuyện trên đây đưa con đi xa
quá... lạc mất cả đề! Con xin trở lại vấn đề hoạt động để theo ơn Chúa kêu gọi?
Ngày 31 tháng 10 năm 1887, cha và con
cùng trẩy đi Bayeux, lòng con chứa chan hy vọng, nhưng cũng giật mình khi nghĩ
đến lúc phải đứng hầu Đức Cha ở Toà Giám Mục. Bữa này là lần thứ nhất, con đi
xa mà không được các chị cùng đi với, lại là lần đi hầu Đức Giám! Xưa nay con
có nói gì, chẳng qua chỉ là nói mà thưa lại lời người ta hỏi; lần này phải xuất
đầu lộ diện mà trình bày và giải thích các lẽ muốn vào Dòng Kín, để Đức Cha
thấy rõ ơn kêu gọi mình vào Dòng.
Con phải khó nhọc chiến đấu với tính
nhút nhát nhiều lắm! Con đã nghiệm thấy lời sách Gương Phúc nói rất thật: Tình
yêu không lấy gì làm không có thể, tình yêu tin tưởng cái gì cũng có thể, cái
gì cũng được phép! . Đúng tâm lý lắm. Chỉ có tình yêu Chúa Giêsu mới có
thể làm con chặt đứt hết các dây trắc trở, lướt thắng mọi khó khăn đã đến và
còn đang đến. Con đã phải mua hạnh phúc bằng giá rất đắt, bằng nhiều gian nan
cả thể. Nhưng nay, con lại cho giá ấy còn rẻ và giả như chưa mua được, dù phải
trả giá đau khổ gấp nghìn lần xưa, con cũng sẵn sàng mua ngay.
Khi hai cha con vừa tới dinh Đức
Giám, các thác trên trời mở ra mưa xuống như trút. Cố Chính Révérony, đã hẹn
ngày cho chúng con đến, ra tiếp chúng con niềm nở lắm, nhưng hơi có vẻ bỡ ngỡ.
Người thấy mắt con ướt lệ thì bảo:
- A! Cha thấy con lắm giọt ngọc lắm!
Ý thì không nên để Đức Cha nom thấy!
Khi đi qua những phòng khách rộng
rãi, con nghĩ mình không bằng con kiến mà đâm lo không biết phải thưa trình thế
nào! Lúc ấy Đức Cha còn đang bách bộ với hai cố ở hè; con thấy cố Chính trình
gì với Đức Cha mấy lời, rồi cùng theo Đức Cha ra phòng khách nơi chúng con đang
đợi.
Ở phòng khách đã dọn ra ba ghế bành
to, phía sau có lò sưởi lửa đang cháy.
Thấy Đức Cha bước vào, cha liền quỳ
xuống bên con chịu phép lành, đoạn Đức Cha mời chúng con ngồi. Cố Chính chỉ con
ngồi ghế giữa, con thưa lễ phép không dám; Người không nghe lại giục con thử
ngồi xem đã biết vâng lời chưa? Con liền ngồi ngay, không ngần ngại gì nữa.
Nhưng con rất ngượng khi thấy Cố Chính to lớn ngồi chiếc ghế thường, mà mình bé
bủn lại chỗm chệ ngồi chiếc ghế bành rộng rãi, có dễ bốn người lớn bằng con
ngồi cũng vừa và vừa hơn là để con ngồi bẽn lẽn một mình! Bấy giờ con mong để
cha nói trước; nhưng cha lại giục con thân việc với Đức Cha đi. Con đã dùng hết
tài lợi khẩu mà thân thưa Đức Cha công việc; tuy vẫn biết một lời của Bề Trên
Dòng nói giúp, có giá trị bằng vạn những lý lẽ con trình. Nhưng người đã không
muốn, còn trông nói giúp làm sao!
Đức Cha hỏi:
- Con ước ao vào Dòng Kín đã lâu
chưa?
- Vâng, thân thưa Đức Cha, lâu lắm rồi ạ.
- Vâng, thân thưa Đức Cha, lâu lắm rồi ạ.
Cố Chính liền cười mà ngắt lời:
- Phải, lâu lắm rồi ạ, mà cũng chưa
lâu được 15 năm chứ?
- Vâng, chính thế! Nhưng cũng không phải trừ đi mấy đâu, vì con đã ước ao dâng mình cho Chúa từ lúc 3 tuổi.
- Vâng, chính thế! Nhưng cũng không phải trừ đi mấy đâu, vì con đã ước ao dâng mình cho Chúa từ lúc 3 tuổi.
Đức Cha tưởng là để vui lòng cha, đã
khuyên bảo con hãy ở lại nhà với cha ít lâu đã. Bất ngờ, cha cũng vào bè với
con, làm Đức Cha phải ngẩn lạ và cảm động! Người liền tỏ mặt rất hiền từ bảo
nên trẩy đi viếng Rôma làm một cùng ban tổ chức Địa phận hồi này, và nếu con
chưa xin được phép vào Dòng, thì hôm ấy, đừng ngại tâu Đức Thánh Cha ban phép
cho.
Nhưng trước khi quyết định việc này,
Người đã buộc phải trình Cha Bề Trên biết đã. Con không nghe lời gì mà lấy làm
khó chịu bằng lời phải trình lại Cha Bề Trên đã; vì con biết Người nhất định
ngăn hẳn công việc của con, cho nên bấy giờ con chẳng còn kể gì lời Cố Chính đã
nhặn đừng để Đức Cha nom thấy những hạt ngọc bám ở mắt; chẳng những đã để Người
nom thấy, con lại trao cho Người những hạt ngọc ấy nữa. Con thấy Đức Cha cũng
cảm động. Người mơn trớn con cách yêu dấu, có lẽ chưa thiếu nữ nào được yêu vậy
bao giờ.
Đức Cha bảo con rằng:
- Con chưa nên ngã lòng vội: cha rất
bằng lòng để con theo cha con sang Toà Thánh: như thế ơn kêu gọi của con được
chắc chắn... Hỡi con, đừng khóc, con nên vui mừng mới phải! Vả lại tuần sau cha
cũng đi Lisieux, Cha sẽ nói chuyện việc con với Cha Bề Trên, và có thế nào Cha
sẽ trả lời. Chắc con sẽ nhận được thơ Cha ở Italie.
Đoạn Đức Cha tiễn chân hai cha con ra
đến vườn ngoài; cha vừa đi vừa hầu Đức Cha câu chuyện sáng ấy con đã uốn tóc để
được già giặn người ra. Đức Cha nghe lấy làm khoái chí lắm. Người vẫn nhớ cái
mánh khoé ấy! Nay hễ lần nào Người nói chuyện cùng ai về đứa con mọn, Người
cũng nói cả câu chuyện uốn tóc. Tình thực con muốn đừng nói thì hơn!
Cố Chính tiễn chân ra tới cổng. Người
nói rằng chưa thấy thế này bao giờ: Cha sẵn lòng dâng con cũng như con vui lòng
dâng mình cho Chúa.
Ở Bayeux về được ba hôm, con lại phải
bắt đầu một cuộc hành trình khác xa và lâu hơn, cuộc hành trình Rôma.
Cuộc hành trình này đã cho con một
nhận thức tường tận về lẽ hư không của mọi sự phù vân giả tạm thế gian. Tuy
nhiên, con đã mục kích những đền đài nguy nga, những dinh thự rực rỡ; con đã
chiêm nghiệm những công trình kiến trúc của nghệ thuật và tôn giáo; nhất là con
đã được hân hạnh đặt chân lên đất các thánh Tông đồ đã giẫm xưa, đất đã nhuộm
thấm biết bao máu các thánh Tử đạo, và linh hồn con đã thành to lớn bởi được
đụng chạm tới những di tích Thánh.
Con vẫn sung sướng lắm vì đã được
sang Rôma; nhưng con hiểu bấy giờ có nhiều người đoán cha cho con đi Rôma, sở
dĩ để làm khuây khoả lòng con ao ước vào Dòng. Phải, nếu tâm tu mà không chí
thành, hẳn cũng đã ngã thật!
Trước hết, những người đi viếng Rôma,
không kể chị Céline và con, toàn là những bậc vị vọng quý phái cả; nhưng chúng
con không phải loá mắt vì nhẽ đó, chúng con đã trông những danh vị quyền quý ấy
như mây khói, chẳng mấy chốc mà tan! Con đã hiểu lời sách Gương Phúc nói:
“Chúng con đừng theo dõi cái bóng dáng mà người ta kêu là danh tiếng” .
Con nhận thấy đai danh của một người
không vụ tại ở chức vị, một là ở sâu xa trong linh hồn.
Thánh Tiên tri Isaia đã nói: “Đức
Chúa Trời sẽ cải tên cho những kẻ Người chọn” , và trong sách Khải Hoàn
chúng ta thấy thánh Gioan nói: “Thắng giả sẽ được lĩnh một thoi đá trắng, trên
đá đã thích một tên mới mà chẳng ai biết, trừ người được lĩnh” .
Vậy đợi ngày về Thiên đàng, chúng ta
sẽ biết được vì thứ chúng ta. Khi ấy Chúa sẽ thưởng ai tuỳ công lênh ấy .
Ai trong thuở bình sinh, đã vì lòng mến Chúa mà chọn phần nghèo khổ, mà ẩn tích
mai danh, trên Thiên đàng, kẻ ấy sẽ dự hàng nhất, vẻ vang sang trọng nhất, giàu
có phú quý nhất.
Kinh nghiệm thứ hai con lượm được ở
Rôma là kinh nghiệm liên can đến hàng Giáo sĩ.
Cho đến khi ấy, con vẫn chưa hiểu mục
đích chỉnh sửa lại Dòng Carmel. Cầu nguyện cho kẻ tội lỗi ăn năn trở lại, đó là
việc con say làm lắm; nhưng cầu nguyện cho các thầy cả, những đấng con thiết
nghĩ linh hồn trong sạch hơn thuỷ tinh, con rất lạ lùng! Ở bên Ý, con đã hiểu
được ơn Chúa kêu gọi con. Sang Ý mà thêm được kiến thức phổ cập này, đã có gì
là phải đi xa quá!
***
Trong một tháng, con đã được hân hạnh
gặp nhiều thầy cả đạo đức, thánh thiện, con nhận thấy nếu chức cao trọng linh
mục đã tâng các thầy cả vượt trên hàng Thiên Thần, các ngài cũng vẫn còn là
loài người, có bổn tính giòn mỏng và yếu đuối. Vậy như các thầy cả thánh thiện
mà Chúa Giêsu đã gọi trong Phúc Âm là muối đất, còn tỏ mình cần lời cầu nguyện
lắm, thì phải nghĩ sao về những thầy cả lạnh lẽo khô khan? Nào Chúa đã chẳng
phán: “Nếu muối đã nhạt, còn lấy gì mà ướp nó mặn được nữa?” .
Ôi! Thưa Mẹ, đẹp đẽ thay ơn kêu gọi ở
Dòng Kín! Ơn kêu gọi của chúng ta! Ở Dòng Kín, Chúa đã ký thác nhiệm vụ giữ gìn
muối đất, bảo tồn muối đất! Chúng ta hàng dâng mọi lời cầu nguyện, mọi hy sinh
cho những tông đồ mở Nước Chúa. Chính chúng ta là tông đồ các thầy cả, trong
khi các ngài lấy lời nói, lấy gương sáng việc làm giảng dạy anh chị em ta biết
đàng làm tôi kính mến Chúa.
A, cao thượng thay, vẻ vang thay
thiên chức, sứ mệnh của chúng ta! Nhưng thôi, con không dám nói nữa! Con nhận
thấy nói đến thiên chức đó, ngọn bút của con không biết ngừng...
***
Thưa Mẹ yêu dấu, bây giờ đây, con xin
thuật ít điều tai nghe mắt thấy trên đường đi Rôma.
Mồng 4 tháng 9 năm 1887, hồi 3 giờ
sáng, chúng con đi qua tỉnh Lisieux. Thành phố bấy giờ còn lịm trong bóng tối
của đêm khuya lạnh. Rất nhiều cảm xúc chạy trong tâm hồn: con thấy mình đi đây
là đi một nơi chưa từng quen biết, nơi ấy có biết bao sự quan trọng đang chờ
đợi con!
Thành Paris
Khi đến kinh thành Paris, cha dẫn
chúng con đi thăm những nơi thắng cảnh trong cả thành, nhưng đối với con chỉ có
một nơi danh thắng là Đền Thờ Đức Bà Thắng Trận. Những tâm tình cảm thấy trong
nơi thánh đó, con không thể nói được! Con thấy Đức Mẹ ban cho con những ơn khi
rước lễ lần đầu: trong mình đầy bình an đầy hạnh phúc... Ở nơi thánh ấy, Đức Mẹ
đã tỏ cho con biết chính Người đã đến mỉm cười và chữa bệnh cho con ngày xưa.
Con đã thiết tha nài xin Đức Mẹ hằng
giữ gìn con luôn và thực hiện lòng mơ ước của con, lại cho con luôn luôn nấp
bóng áo đồng trinh Mẹ! Con cũng xin Người cho con biết xa lánh mọi dịp hiểm
nghèo tội lỗi.
Con nhận thấy trong cuộc hành trình
Rôma, con đã gặp nhiều nhân vật và cảnh ngộ có thể làm xao xuyến lòng con; bởi
con chưa biết gì sự tội, nên rất sợ phải biết mà thêm nặng lòng. Khi ấy con
chưa có kinh nghiệm rằng mọi sự thanh sạch cho những kẻ thanh sạch , một
linh hồn đơn sơ, thẳng thắn không thấy sự tội đâu hết, bởi vì sự tội chỉ ở
những tấm lòng nhơ bẩn, chớ chẳng ở những vật vô tri vô giác.
Con cũng cầu xin Thánh Cả Giuse bang
trợ con: từ bé vẫn có lòng kính mến Người cùng Rất Thánh Đức Mẹ. Ngày nào con
cũng đọc kinh: “Lạy Thánh Cả Giuse là Cha và là Đấng Bảo hộ những kẻ đồng
trinh...”. Xem như con đã được Người che chở phù hộ và giúp con thoát mọi hiểm
nghèo.
Khi đã làm việc dâng mình cho trái
tim Chúa Giêsu ở thánh đường Montmartre, chúng con từ giã kinh thành Paris. Hôm
ấy là mồng 7 tháng 1.
Trên xe hoả, người ta bàn vấn đề đặt
tên Thánh các toa xe; thường thường danh dự này nhường cho thầy Cả ngồi trong
toa: hoặc lấy chính tên thánh sư ngài, hoặc tên thánh sư xứ sở ngài coi sóc mà
gọi tên toa.
Vậy đang lúc đông đủ cả phái đoàn du
lịch, chúng con nghe xướng tên thánh Martino là thánh sư cha. Nhã ý biệt đãi
của phái đoàn du lịch làm cha cảm động qua1 Người liền tiến lại đội ơn Đức Cha
Legoux địa phận Contances hướng dẫn phái đoàn. Từ đó, nhiều người cứ gọi cha là
cụ thánh Martino – Monsieur Saint Martin.
Cố Chính Révérony hằng để ý quan sát
rất kỹ từng việc con làm; con thấy ngài ngồi xa xa để dễ trinh sát con. Đến lúc
ăn, nếu con không ngồi đối diện Ngài, Ngài cũng liệu cách xoay sở để nhìn được
con ăn và nghe con nói. Con trộm nghĩ Ngài phải được thoả lòng với công tác
điều tra quá chu đáo ấy; bởi vì lúc du lịch về, con thấy Ngài tán thành việc
con lắm. Con nói lúc du lịch về, chứ cả như ở Rôma, Ngài chẳng nói đỡ con được
một lời, sau đây Mẹ sẽ rõ.
Phong cảnh nước Suisse
Trước khi tới đích cuộc đi viếng
Rôma, chúng con đã vượt qua nước Suisse, có lắm núi cao, ngọn tuyết phủ trắng xoá,
hoà lẫn mây trời. Có những thác nước đổ xuống trắng như màn bạc, có nhiều thung
lũng sâu rườm rà cây to lớn, nhiều bụi thạch bi hoa đỏ chói, coi rất ngoạn mục.
Thưa Mẹ yêu dấu, phong cảnh thiên
nhiên hữu tình đẹp đẽ, chẳng biết từ đâu tung ra không còn có chừng có mực này,
đã làm ích cho linh hồn con lắm lắm!
Nó nâng rước linh hồn con lên tới
Đấng Tạo Hoá, đã chẳng ngần ngại vất xuống cõi trần một mai sẽ phải hư đi,
những công trình vĩ đại bao la đó!
Thỉnh thoảng chúng con được đưa lên
tới đỉnh non vòi vọi; đứng đấy chúng con nhìn xuống chân thấy những vực sâu
hoắm đuối tầm mắt, không còn biết đâu là cùng là tận. Chúng con có cảm giác tựa
hồ những vực thẳm ấy chỉ chực nuốt chúng con xuống mãi đâu đâu. Xa xa hơn,
chúng con lại đi qua một làng coi cũng vui mắt; Các nhà ở làm toàn bằng gỗ, một
ngôi thán
h đường xinh xinh với ngọn tháp chọc
trrời, trông mây vẩn vơ như quyện quanh nô giỡn. Chỗ kia có chiếc hồ rộng, lăn
tăn làn nước xanh biếc pha lẫn ánh vàng lợt lạt của mặt trời đang lặn.
Con biết nói sao những cảm xúc lúc
đứng nhìn phong cảnh hùng vĩ ấy, nên thơ ấy?
Con đã liên tưởng những lạ lùng đẹp
đẽ trên trời... Khi ấy cũng như bây giờ, con đã hiểu như thế nào là cuộc đời
tu: đi tu là phải sống theo khuôn phép nhiệm nhặt, sống bằng hy sinh hàng ngày,
sống với muôn vàn sự cầm hãm mà không để một ai biết tới. Con đã biết, vì thế
người ta dễ nản lòng lắm, người ta có thể quên mục đích cao thượng về ơn kêu
gọi dễ như không. Nên con đã răn mình rằng:
“Sau này được tu thân trong Dòng Kín,
gặp khi gian nan hay là bị cám dỗ quẩn quanh rằng mình chỉ được trông có một
quãng trời hẹp, lúc ấy tôi sẽ nhớ lại ngày hôm nay: tôi đứng giữa thiên nhiên
muôn uy hùng lộng lẫy, muôn cảnh đẹp mắt vui tai, để thêm can trường mà tu thân
tích đức. Nghĩ đến oai quyền Chúa, phép tắc Chúa, tôi chẳng còn thiết gì những
lợi ích cỏn con của mình. Tôi quyết chí yêu một mình Chúa. Tôi chẳng để lòng
dính bén sự thế gian là bụi rác. Giờ đây tôi đã thấy những sự tốt lành vui vẻ
Đức Chúa Trời dành cho những kẻ mến Người ở thế gian”.
Thành phố Milan
Suy ngắm những công trình vĩ đại Chúa
đã dựng nên, con lại đi xem những công trình kiến trúc người thế gian làm.
Thành phố thứ nhất nước Ý mà chúng
con ngoạn mục là thành Milan. Nhà thờ chính toà trong thành xây toàn bằng đá
hoa trắng, bày kính nhiều tượng quý rất đẹp, trông sầm uất như một buổi triều
đông quan văn võ bái yết Đấng Thượng Đế. Chúng con đã được dịp quan sát kỹ
lưỡng.
Có ít bà đi với chúng con rút rát
quá, vừa mới lên được vài bậc thang tháp đền thờ đã bưng mặt trở lại. Mặc các
bà, chị Céline và con, cứ theo những người bạo trèo lên tới ngọn tháp nhỏ nhất,
cao chót vót. Đứng nơi cao ấy, chúng con được cái thú nhìn cả thành Milan quây
quần dưới chân, coi người nào người nấy nhỏ như con kiến gió, mà chúng con thì
to lớn ghê! Thưởng ngoạn xong, chúng con lấy xe đi thăm viếng các nơi danh
thắng hết vừa một tháng. Cuộc viễn du bằng xe lần này làm cho thoả thuê mãi cái
thú du lịch bằng xe hơi.
Nghĩa địa Campo Santo khéo léo đẹp
lắm! Những tượng bằng đá hoa trắng, trạm chổ rất tài tình, trông như người
thật, đứng rải rác trong cả cánh đồng rộng thênh thang; cách xếp đặt coi rõ
khườn mà lại vui mắt lạ. Nom bộ diện các tượng y như người âu sầu rầu rĩ đau
đớn ấy, ai cũng chạnh lòng muốn chạy đến an ủi. Thật là một cách phô diễn rất
tài giỏi tinh thần sầu thương thê thảm, điềm đạm và tôn giáo! Kỳ công kiệt tác
thay! Chỗ này, tượng một đứa trẻ đang rắc hoa trên mả bố, trông chẳng ai nghĩ
được là người đá: Những cánh hoa mềm mại nắm ở tay rơi xuống nhẹ nhàng như thật
! Chỗ kia, tượng những bà chồng chết đang chùm khăn đứng tư lự gió bay rối rả
cả khăn lẫn áo; lại mấy cô con gái trẻ, mồ côi cha, cũng bờ phờ đang đứng đấy,
chẳng còn biết gì đến ngọn gió vô tình đánh phất phơ những dải lụa buộc tóc
trên đầu.
Đang lúc chúng con chưa tìm được lời
để tỏ chút lạ lẫm khen ngợi, một ông già vẫn theo chúng con đi, lẩm bẩm như khó
chịu không muốn đồng tình với chúng con, ông nói lậu bậu rằng:
- Gớm! Những người Pháp sao mà dễ
nhiệt thành niềm nở với!
Con trộm nghĩ ông tây khó tính này
giá ở quách nhà thì hơn. Đi du lịch mà buồn bã quá, không ưa thích một cái gì
hết, chỉ biết lẩm bẩm chê trách luôn miệng: chẳng tỉnh nào ông thích, chẳng
khách sạn nào ông ưa, chẳng người nào ông vừa ý. Ông bất mãn với tất cả.
Cha, tính tình lại khác hẳn ông tây
khó nết ấy; bất cứ gặp ông tây già ở chỗ nào, cha cũng bố bày vui cho ông; khi
thì nhường chỗ trên xe, khi thì theo tính ôn tồn đại lượng sẵn có, giải hoà
những điều ông thắc mắc, cố đưa ông đến chỗ hay trong công việc; dầu vậy cũng
không mua vui cho ông được! Thế mới rõ bá nhân bá tính! Đó là bài học rất hay!
Bài học cá tính ấy, toan giã đời mình mà học được cũng mừng!
Tỉnh Venise
Ở Venise, cuốn phim lại xoay khác hẳn. Thay vì những dinh thự đồ sộ nguy nga, phố xá rộn rã, người ta chỉ nghe văng vẳng trong im lặng những tiếng ồn ào của phu chở đồ những tiếng máy chèo chém nước. Tỉnh này cũng lắm vẻ đẹp mắt, nhưng tẻ lạnh. Chính dinh các quan tỉnh lộng lẫy khá mà cũng đượm vẻ buồn rầu. Đã từ lâu, trong toà không còn nghe sang sảng tiếng quan tỉnh quát tháo, hoặc tuyên án sinh tử cho tù tội. Những phạm nhân đáng tội tử hình cũng không còn phải cái khổ bị chôn sống trong ngục tối nữa.
Ở Venise, cuốn phim lại xoay khác hẳn. Thay vì những dinh thự đồ sộ nguy nga, phố xá rộn rã, người ta chỉ nghe văng vẳng trong im lặng những tiếng ồn ào của phu chở đồ những tiếng máy chèo chém nước. Tỉnh này cũng lắm vẻ đẹp mắt, nhưng tẻ lạnh. Chính dinh các quan tỉnh lộng lẫy khá mà cũng đượm vẻ buồn rầu. Đã từ lâu, trong toà không còn nghe sang sảng tiếng quan tỉnh quát tháo, hoặc tuyên án sinh tử cho tù tội. Những phạm nhân đáng tội tử hình cũng không còn phải cái khổ bị chôn sống trong ngục tối nữa.
Khi lần vào xem những ngục gớm ghiếc
ấy, con có cảm giác mình đang sống đời các Thánh tử đạo. Nếu cần phải xưng đạo
ra con vui lòng chọn ngục tối này làm nơi nghỉ; con đang ngẫm nghĩ thế, thì
người hướng đạo giục đi. Con đã đi qua cái cầu gọi là cầu thở dài; gọi thế vì
những tù phạm bị giam trong ngục tối chốn họ lấy làm cơ cực hơn phải tử hình,
khi được tha, lúc bước lên qua cầu, họ thở dài vì đã thoát cực.
Từ giã tỉnh Venise, chúng con đã tới
tỉnh Padoue kính viếng lưỡi ông thánh Antôn; tới tỉnh Bologne, kính viếng xác
bà thánh Catarina, trên má còn in dấu hôn của Chúa Hài Đồng Giêsu.
Thành Loretta
Trên đường đi Loretta, con cảm thấy
lòng vui sướng quá! Đức Mẹ đã khéo chọn chốn này để di nhà sang. Ở đây cái gì
cũng khó khăn, cũng mộc mạc cũ kỹ: đàn bà còn ăn vận theo lối cổ dân tộc Ý;
không như đàn bà các nơi thành thị khác, đua ăn mặc theo mốt Paris.
Thành Loretta như vậy đã vừa ý con
lắm.
Con phải nói gì về nhà Đức Mẹ? Thật
lòng cảm động rất sâu xa khi thấy mình được đứng dưới cũng một mái nhà như Đức
Mẹ; khi được ngắm nghía những bức tường mà Chúa đã nhìn xưa; khi được đặt chân
lên đất đã thấm nhuộm mồ hôi nước mắt Thánh Cả Giuse, và bàn chân thánh sạch
Đức Mẹ đã đứng lúc cưu mang Con trong lòng, lúc ẵm con trên ngực đồng trinh
cùng cho bú sữa! Con vào xem cả gian phòng Đức Mẹ đã chịu thai bởi phép Chúa
Thánh Thần. Con bỏ tràng hạt con và bát Chúa ăn cơm. Ôi, những kỷ niệm quý báu
dường nào!
Chúng con còn được điều an ủi hơn
nữa: được chịu lễ trong chính nhà Chúa ở xưa, như thế là được trở nên đền thờ
sống của Chúa trong cũng một nơi Chúa đã sống thuở xưa.
Theo lễ phép Rôma: nhà thờ nào cũng
chỉ một bàn thờ được để Mình Thánh; và các thầy cả chỉ cho giáo hữu chịu lễ nơi
bàn thờ ấy.
Ở Loretta bàn thờ để Mình Thánh thuộc
về nhà thờ lớn bao chùm Nhà Thánh gọn lỏn bên trong như hạt kim cương quý giá
gói trong chiếc hộp đá hoa trắng. Chúng con chẳng hài lòng chịu lễ ở bàn thờ
thuộc về nhà thờ lớn, chúng con muốn ăn bánh các Thiên Thần trong chính hạt kim
cương chớ không ăn trong hộp đựng kim cương. Cha thì tính vốn dễ dàng, cứ theo
các người du lịch làm sao, cũng làm vậy; nhưng hai con gái của cha không chịu
nước ấy, đã bảo nhau đi lại chỗ Nhà Thánh.
Cùng lúc ấy, một thầy cả được ơn
riêng, đang dọn mình làm lễ ở đấy; chúng con tỏ ý ước ao để người hay, người
liền xin hai bánh nhỏ đặt trên đĩa thánh rồi làm lễ. Mẹ ôi! Mẹ có đoán được
hạnh phúc không lời nói hết này của chúng con chăng, hạnh phúc chịu lễ lần ấy.
Thật là mừng rỡ vô cùng. Sau này khi chúng ta chịu lễ đời đời trên nhà Cha Cả
thiên đàng, lòng mừng rỡ ấy còn cả thể biết chừng nào! Khi ấy chẳng phải lo hết
vui, chẳng phải buồn vì phải ra về, chẳng phải cạo trộm chút vôi vữa ở tường
Nhà Thánh như chúng con đã làm; vì chưng nhà Cha Cả đã nên nhà chúng ta đời
đời.
Người chẳng muốn cho ta nhà Người ở
dưới đất; chỉ bằng lòng cho ta xem, để nhân đó ta sinh lòng ái mộ sự khó khăn
và quý trọng cuộc đời mai danh ẩn tích. Nhà Chúa dành cho ta là chính đền đài
vinh quang rực rỡ của Chúa, trên đó chúng ta không còn thấy Chúa ẩn mình trong
hình bánh, hay giấu thân trong hình con trẻ, một thấy Người tỏ tường trong sự
uy nghi sáng láng tốt đẹp vô cùng.
Thành Rôma
Bây giờ mới là chuyện chính thành
Rôma. Đến Rôma, con tưởng thế nào cũng được an ủi; mà ngán thay, con đã gặp
Thánh giá nặng!
Khi xe tới Rôma, trời đã khuya lạnh; con
đang thiu thiu ngủ trong toa, thì giật mình thức dậy vì những tiếng huyên náo
ồn ào nói, và hành khách tíu tít reo mừng: Rôma! Rôma! Thật phen này đã đến
Rôma, chớ chẳng còn phải là mơ Rôma nữa!
Ngày thứ nhất, chúng con dạo chơi
ngoài châu thành; có lẽ ngày đó là vui thú nhất. Đâu đấy, các lăng tẩm đền dài,
nhà cửa còn giữ nguyên lối cổ; đối lại, các khách sạn, các cửa hiệu to lớn
trong thành kiến thiết theo lối tân rất xa hoa lộng lẫy! Đứng đó, người ta có
thể ngờ mình đang ở Paris!
Cuộc dạo chơi những cánh đồng Rôma đã
để lại nơi lòng con một kỷ niệm dịu thơm cách riêng. Con không biết lấy lời gì
để tả lòng cảm xúc mạnh mẽ lúc đứng nhìn hí trường Colisée! Con đã được xem rõ
ràng sân đua vật rộng rãi mà biết bao Thánh tử đạo anh hùng đã vì đạo ngãi, vì mến
Chúa, chiến đấu cho đến thịt nát xương tan, cho đến giọt máu cuối cùng! Con đã
nhăm nhe chực quỳ xuống hôn kính đất thánh đã biên chép hàng bao trận thắng
oanh liệt của các thánh Tử đạo.
Nhưng nhầm!
Người ta đã thi nhau đào bới hết của
quý giá ấy rồi: chính sân đua vật đã lóm sâu hơn nền tám thước; lại bởi sự đào
bới đó nên giữa sân thành nhiều ụ nhiều hố coi rất ngổn ngang; người ta đã đặt
một hàng rào ngăn lối vào sân. Vả, cũng chẳng ai dám vào giữa nơi điêu tàn đổ
nát cheo leo ấy!
Đã có công đến Rôma, chẳng nhẽ lại
không xuống tới sân đua vật hí trường Colisée? Không, không thể thế được! Mặc
người hướng dẫn cắt nghĩa thế nào thì cắt nghĩa, con không nghe nữa; con chỉ
nhất thiết xuống cho tới sân đua vật!
Trong Phúc Âm kể rằng bà Madalena gan
lắm, không chịu về, cứ ở lỳ lại nơi mồ Đức Chúa Giêsu, cúi đầu vào, dòm đi dòm
lại phía trong mồ và kết quả: bà đã xem thấy hai Thiên Thần.
Con cũng bắt chước bà, cứ lân la cúi
xuống, bước vào và cũng kết quả, chẳng phải là được trông hai Thiên thần, mà là
gặp thấy chính sự con muốn tìm. Con mừng rỡ quá, gọi to chị Céline rằng:
- Chị Céline ôi! Lại đây đi với em,
em xem có thể vào được lắm.
Đoạn hai chúng con cứ bước sắn vào,
trèo cả lên những đống gạch vữa đổ dưới chân; cha ở đằng xa, thấy chúng con quá
táo bạo, cứ gọi dồn dập, nhưng hăm hở quá, chúng con chẳng nghe thấy gì.
Ví như những binh tướng ngoài mặt
trận, lúc vào chiến, càng thấy cheo leo thì lòng càng cảm khái, càng hăng hổ;
chúng con cũng vậy, càng thấy khó nhọc và cheo leo, thì lòng vui càng khoái trá
càng nhất thiết vượt cho đến đích kỳ vọng.
Chị Céline sáng suốt hơn con, khi
nghe người hướng dẫn nói, chị nhớ được câu này: ở chỗ có hòn đá khắc chữ thập
là chính nơi các Thánh tử đạo đã thắng trận xưa. Chị đã chú ý tìm hòn đá ấy.
Một lát liền tìm thấy ngay: hai chị em chúng con cùng quỳ xuống nơi đất tốt
lành ấy, hai linh hồn hoà hiệp sốt sắng trong một lời cầu nguyện thiết tha...
Khi con cúi xuống hôn đất đã thấm máu các thánh Tử đạo, lòng con hồi hộp quá!
Môi con được chạm và dính lấy những bụi hồng... Con đã nài xin Chúa ban cho con
được phúc chết vì mến Chúa, mà lòng cảm thấy như Chúa đã đắt lời cầu xin ấy.
Giây phút nghiêm trọng quý hoá này
cũng chẳng được lâu. Chúng con vội nhặt lấy mấy viên đá nhỏ, rồi quay lại phía
tường mà lần trở lại. Cuộc mạo hiểm đã thành công! Cha thấy chúng con mặt mày
hớn hở mừng rỡ, cũng chẳng nỡ quở trách; lại xem có phần hiên ngang vì hai con
can đảm.
***
Kính viếng hí trường Colisée xong,
chúng con lại đi thăm hang Catacombes. Trong hang, hai chị em lại cố chui vào
tận cùng mồ của Thánh Nữ Cêcilia mà nằm chung ở đấy với nhau một lúc, rồi bốc
một ít đất thánh nơi mộ làm kỷ niệm.
Trước đi Rôma, thật tình con không có
lòng kính riêng Thánh nữ Cêcilia chút nào, nhưng từ khi được vào viếng mộ và
nơi Thánh nữ chịu tử đạo lại nghe thấy thiên hạ tặng khen Thánh nữ là Nữ hoàng
ca nhạc vì có cung giọng rất du dương êm ái, thuở bình sinh đã hết lòng hát vãn
đồng trinh cho Bạn Thánh nghe, con thấy lòng mộ mến lắm, chí thiết quá tình chị
em. Từ đó, con quý mến Thánh nữ vào hàng nhất, hay tỏ bày tâm sự cùng Người.
Thánh nữ Cêcilia đã nổi về hai nhân đức mà con rất mộ mến: đức phó mình và đức
trông cậy phi thường.
Với hai nhân đức ấy, Thánh nữ đã có
thể “đồng trinh hoá” những linh hồn chỉ ước ao sự vui sướng thế gian, ưa đắm
mình trong khoái lạc hôi tanh nhơ nhớp. Người rất giống bạn tình trong Ca Đệ
Nhất. Ở nơi Người, con trông thấy hội nhạc như ở bãi chiến . Cuộc đời Người
chỉ là một ca khúc du dương, cả những lúc bị gian nan tân khổ rất mức; nhưng
điều đó chẳng làm con lạ, vì sách Phúc Âm hằng nằm trên trái tim
Người và bên trong trái tim, Bạn Thánh các kẻ đồng trinh cũng hằng
nằm an nghỉ.
Chúng con đã vào viếng đền thờ thánh
Agnès. Lòng cũng dịu dàng vui thú lắm. Trong thánh đường, con đã được hân hạnh
gặp bạn cố tri lúc nhỏ. Con đã cố lấy chút di vật đem về biếu chị Agnès de
Jésus, mà không có thể. Người ta nhất định không cho, nhưng Đức Chúa Trời bằng
lòng cho: Tự nhiên một mảnh đá hoa sắc hồng hào rất đẹp ghép ở tường từ đời
Thánh Nữ chịu tử đạo rơi ngay xuống chân con.
A, đẹp đẽ thay! Sướng thay! Chính tay
Thánh Nữ Agnès lấy quý vật nhà mình để đãi con.
Vào triều yết Cửu Trùng
Chúng con thăm viếng các nơi danh
thắng thành Rôma vừa hết sáu ngày, sang ngày thứ bảy, chúng con được vào triều
yếu Đức Giáo Hoàng Leo XIII.
Đây mới là nơi danh thắng nhất, nguy
nga nhất, đẹp đẽ rực rỡ nhất! Hôm nay là ngày vừa mừng vừa lo, rất quan trọng
đến ơn kêu gọi của con. Bởi con chưa được thư Đức Cha địa phận Bayeux trả lời,
nên chỉ còn hy vọng ở phép rộng Đức Thánh Cha ban thôi. Nhưng cho được phép
rộng ấy thời phải xin; mà xin thời phải có can đảm dám thân tâu Đức Thánh Cha
trước triều đình có đông đủ các quan văn võ, các Đứng Hồng Y Tể Tướng, các Đức
Tổng Giám Mục và Giám Mục! Ôi mới nghĩ mà đã thất kinh hồn, đã choáng váng cả
đầu óc!
Vậy sáng Chúa nhật 20 tháng 1, chúng
con vào xem lễ Đức Thánh Cha làm trong đền Vatican, ở nhà nguyện riêng Người.
Đúng 8 giờ, Đức Thánh Cha làm lễ. Trong khi tế lễ Chúa, Người sốt sắng nghiêm
trang lắm, thật rất xứng đáng Đấng thay mặt Chúa ở dưới đất, xứng đáng là Cha
rất thánh!
Bài Phúc Âm lễ ngày ấy nhắc lại lời
Đức Chúa Giêsu phán xưa rằng: “Hỡi đoàn chiên bé nhỏ kia, đừng lo sợ, Cha Ta đã
vui lòng ban nước Người cho bây” . Con nghe lời ấy, rất đỗi vui mừng mạnh
mẽ cậy trông ở Chúa. Con không còn sợ hãi gì, chỉ đinh ninh chầy kíp sẽ được
vào ở nước Carmel.
Phải khi ấy con suy thêm lời này nữa:
“Như Cha Ta đã dọn nước cho Ta thế nào, Ta cũng dọn nước cho các ngươi như
vậy” . Nghĩa là Ta để dành cho các ngươi nhiều thánh giá phải vác, nhiều
gian nan phải chịu, có thể các ngươi mới xứng đáng vào nhận lấy nước Ta trị. –
Chúa Giêsu cũng cần phải chịu đau khổ nhiều mới tới bước vinh quang của Người
. Nếu các ngươi muốn được ngồi hai bên tả hữu Người, các ngươi cũng phải uống
chén cay đắng Người đã uống” .
Đức Thánh Cha làm lễ và cám ơn xong,
Người ra ngự triều ngay.
Người ngự trên bệ ngọc, vận đơn sơ
chiếc áo trắng dài và áo khoác vai cũng trắng. Chung quanh bệ rồng có đông đủ
các chức vị sang trọng, các đấng bậc uy quyền trong phẩm trật Hội Thánh đứng
chầu oai nghi phép tắc.
Theo phép triều, mỗi người vào bái
yết Cửu Trùng, phải cứ lần lượt đến quỳ trước ngai vàng, kính cẩn hôn chân rồi
hôn tay Đức Giáo Hoàng, đoạn nhận phép lành Ngài ban; sau đó, hai viên lính thị
vệ lấy ngón tay sẽ chạm làm hiệu cho người ta chỗi dậy, sang phòng khách để
lượt người sau.
Khi ấy chẳng ai nói lời gì, im lặng
như tờ, nhưng con đã nhất định thể nào cũng tâu việc xin vào Dòng. Bỗng đâu, Cố
Chính Révérony đứng hầu bên hữu Đức Thánh Cha, bảo lên hiệu mọi người phải im
lặng, cấm ngặt không ai được tâu Đức Thánh Cha điều gì.
Con quay ngay chị Céline đưa mắt hỏi
chị làm thế nào; trái tim hồi hộp quá lẽ.
- Em cứ tâu! Chị con khẽ bảo thế.
Khi đến lượt con vào chầu Đức Thánh
Cha, con hết lòng cung kính quỳ trước tôn nhan Người. Con hôn giày xong. Người
giơ ngay tay cho con hôn. Khi ấy con ngẩng mặt đầy nước mắt nhìn Người con tha
thiết cầu xin rằng:
- Lạy Cha rất thánh! Con xin Đức Thánh
Cha khấng ban cho con mọn một ơn rất trọng!
Đức Thánh Cha liền cúi đầu bạc xuống
tôn nhan Người hầu áp mặc con mọn; trông hai con mắt đen nhánh và sầu như muốn
nhìn suốt linh hồn con.
Con tâu lại rằng:
- Lạy Cha rất thánh! Xin Cha chuẩn
cho con mọn được vào Dòng Kín 15 tuổi!
Cố Chính Révérony nghe vậy thì sửng
sốt không bằng lòng, liền tâu ngay rằng:
- Muôn tâu Đức Thánh Cha, trẻ này ước
ao vào Dòng Kín; nhưng các đấng Bề trên còn đang xét việc chưa xong.
Đức Thánh Cha phán rằng:
- Vậy hỡi con, con hãy cứ vâng lời
các Đấng Bề trên sẽ chỉ định.
Con liền chắp hai tay đặt lên đầu gối
Đức Thánh Cha, thảm thiết nài xin rằng:
- Thân lạy Cha rất thánh, nếu Cha
ưng, thì mọi người đều muốn hết.
Đức Thánh Cha liền nhìn con cách yêu
dấu lắm, và trịnh trọng phán rõ ràng từng tiếng một rằng:
- Ừ được... Ừ được... ví bằng Chúa
muốn con vào, con sẽ vào.
Con đang toan tâu thêm thì hai viên
lính hầu Đức Thánh Cha mời con chỗi. Các ngài thấy mời không xuôi liền lấy tay
lôi con dậy, cả Cố Chính cũng mó tay vào việc lôi kéo này, bởi vì bấy giờ hai
tay con vịn chặt lấy đầu gối Đức Thánh Cha. Trong lúc phải lôi như thế, Đức
Thánh Cha dịu dàng đặt tay lên môi con đoạn giơ lên làm phép lành, và cứ nhìn
theo con mãi tỏ tình Cha thương con chí thiết.
Cha được vào chầu Đức Thánh Cha
trước, nên không rõ công việc con, lúc thấy con ở phòng chầu bước ra còn sùi
sụt khóc, người khó chịu lắm. Về phần cha, Cố Chính đã ở hết tình yêu quý, đã
giới thiệu với Đức Thánh Cha có hai con ở nhà Kín. Nghe lời giới thiệu, Đức
Thánh Cha liền tỏ lòng yêu quý cha cách riêng. Người đặt bàn tay ngọc Người lên
đầu bạc cha, dường như lấy danh Chúa mà in dấu mầu nhiệm vào.
Ôi! Ngày nay cha đang ở trên trời cha
được bốn con vào Dòng Kín! Rầy chẳng phải tay Đấng Đại diện Chúa đặt lên trán
cha mà báo trước những của lễ còn phải tế lễ Chúa nữa; một là chính tay Bạn các
kẻ đồng trinh, chính tay vị Vua Cả trởi đất ôm ấp cha, và tay cực thánh ấy sẽ
chẳng khi nào rời trán hiển vinh sáng láng cha nữa.
Cơn sầu này thật là rầu rĩ cả thể;
nhưng bởi con chỉ muốn hoạt động theo sức con có thể để đáp lời Chúa gọi nên
con thú thật rằng đã bao phen nước mắt chan hoà mà lòng vẫn lặng lẽ bình an.
Song sự bình an này lắng chìm tận đáy lòng, còn sự cay đắng thì như nổi lều
phều ứa lên tới miệng... Đức Chúa Giêsu cứ thản nhiên như vô sự, như vắng
mặt... không tỏ dấu gì ở cùng con cả.
Ngày buồn bã ấy, mặt trời cũng không
dám ra mặt: bầu không trung đẹp đẽ, xanh biếc của nước Ý cũng nặng trĩu những
tầng mây u ám thảm sầu, và đã cùng con khóc để chia buồn! Ôi! Thế là hỏng việc
rồi. Cuộc hành trình từ đây chẳng còn chút gì vui thú nữa, sái đích rồi!
Nhưng đáng lẽ con nên vui mừng và an
ủi mình vì mấy lời sau hết Đức Thánh Cha đã phán và nên coi như lời tiên tri,
vì chưng dù trở ngại mấy, nhiêu khê mấy, Chúa đã muốn thì phải nên trọn: Chúa
không cho phép ta muốn làm gì thì làm, ta phải làm theo ý Chúa mà chớ.
Trước đây, con đã tự dâng mình làm đồ
chơi nhỏ của Chúa Hài Đồng Giêsu. Con đã xin Chúa đừng xem con như một đồ chơi
quý mà trẻ chỉ được nhìn thôi, chớ chẳng được mó đến; một coi con như quả bóng
nhỏ rẻ tiền, vất đâu cũng được, đấm hay đá cũng chẳng sao, có chọc thủng rồi
đem bỏ xó hay muốn ôm ghì vào lòng cũng tuỳ sở thích. Tắt một lời, con chỉ muốn
làm Chúa vui, và muốn Chúa nô đùa con cho thoả thích.
Lời cầu xin ấy vừa được Chúa nghe
xong! Ở Rôma Chúa đã chọc thủng quả bóng nhỏ của Người... chắc là Người muốn
xem bên trong nó thế nào... và khi xem đắc rồi, Người vất nó lăn lóc dưới đất
mà nằm ngủ.
Trong giấc ngủ êm ái ấy, Chúa có mơ
gì không, và quả bóng vất xó kia thế nào?
Chúa mơ vẫn còn chơi bóng, hết cầm
lên lại bỏ xuống, lại đá đi thật xa, lại chạy theo vồ lấy ôm chặt vào lòng rồi
không còn rời quả bóng khỏi tay lúc nào nữa.
Thưa Mẹ, chẳng nói Mẹ cũng rõ nỗi
buồn của quả bóng khi bị bỏ lăn dưới đất! Tuy thị thế, quả bóng vẫn giàu lòng
trông cậy.
Hồi hương
Sau ngày 20 tháng 1, cha đưa chúng
con đến thăm một thầy Dòng nhân đức lắm tên là Fèrè Siméon, đã sáng lập và hiện
đang làm giám đốc trường Thánh Giuse. Khi chúng con đến thì đã thấy Cố chính
Révérony đang ở đấy rồi. Cha có hơi trách yêu Cố Chính vài lời vì không nói đỡ
con trong công cuộc khó khăn của con; rồi người thuật lại chuyện cho Frère
Siméon nghe. Thầy Dòng tuổi tác tốt lành này nghe tỏ bộ thích chí lắm, thầy có
ghi lấy ít điều vào cặp nhỏ, rồi nói cách cảm động rằng:
- Ở Ialie, không thấy chuyện thế này
bao giờ!
Tỉnh Naples và Pompei
Hôm sau ngày chầu Đức Giáo Hoàng,
chúng con phải trẩy đi tỉnh Naples và Pompei. Như để chào mừng chúng con đã
đến, núi phun lửa Vésuve nổ nhiều tiếng to như tiếng súng đại bác, và miệng núi
khóc bốc lên đen sũi ngùn ngụt. Những hoả hoạn thành Pompei phải chịu vì núi
phun lửa còn ghi dất rất tang thương, rất điêu tàn! Trông phải giùng mình ghê
sợ. Thật là chứng tỏ quyền phép Chúa trông đất, đất chuyển động, đá đến núi,
núi hoá nên tro bụi .
Giá cõi lòng không ôm ấp một cảnh
tĩnh mạc khác; có lẽ con đã ước ao được một mình đi lại giữa nơi điêu tàn này
để chiêm nghiệm sự giòn mỏng thế gian.
Ở tỉnh Naples, chúng con được một
cuộc ngoạn cảnh rất thú, cuộc lên thăm nhà Dòng San Martino, xây trên ngọn đồi
cao nhất thành. Nhưng đến khi xuống xe về, ngựa sinh chứng lồng dữ quá con
tưởng giá không có Thiên thần bản mệnh phù phộ, chắc rằng còn thân làn lặn mà
về tới khách sạn.
Khách sạn chúng con trú lần này sang
trọng lắm. Từ bắt đầu cuộc hành trình Rôma, con chưa thấy khách sạn nào chững
chạc bằng, tuy những khách sạn chúng con đã ở đều lo lớn lịch sự. Cũng là dịp
để nói: phú quý chẳng làm nên hạnh phúc. Với hy vọng được vào Dòng Kín, dầu
phải ở nhà tranh vách đất, con sung sướng hơn ngàn lần ở nhà cao rộng, có thang
đá hoa, có màn lụa lĩnh, nằm đệm nhiễu, đắp chăn nhung mà phải sầu cay trong
cõi lòng son.
Ôi! Con nhận thấy rất thật rằng sự
vui không ở trong các vật chung quanh ta, một ở thẳm sâu trong tâm hồn. Người
buồn cảnh có vui đâu! Ngồi trong ngục tối, người ta có thể được vui bằng ngồi
trong điện vua chúa. Bởi vậy được vào Dòng Kín, dù con phải khổ trong khổ ngoài
chừng nào, con cũng lấy làm vui sướng hơn bội phần ở thế gian với mọi sung
sướng, với cả sự được nâng hứng chiều chuộng trong chốn vui gia đình.
Tuy lòng con phải đắm chìm trong buồn
bã; bề ngoài con vẫn thản nhiên như thường! Sở dĩ con muốn giấu không muốn để
ai biết việc đã tâu Đức Thánh Cha. Nhưng chẳng mấy chốc câu chuyện đã bị lộ.
Duyên cớ thế này: Một hôm, chỉ còn con với chị Céline ngồi lại xe, các hành
khách xuống hàng tất cả. Con thấy Đức Cha Legoux ra đứng ngoài cửa xe. Người
nhìn con kỹ càng lắm, rồi mỉm cười nói:
- Sao, bà Dòng Kín của chúng tôi thế
nào?
Bấy giờ con mới hiểu là cả đoàn du
lịch đã biết việc con rồi; lại có nhiều người nhìn con cách thương tình lắm,
chỉ được điều là không ai hỏi han gì con về công việc đó thôi.
Về đến thành Assise, lại xảy ra một
chuyện cũng hay hay. Khi đã thăm những nơi lừng tiếng nhân đức của thánh
Phanxicô và bà thánh Clara mà ra về, con sờ thấy đã rơi mất cái khoá dây lưng ở
nhà Dòng. Hối hả con lộn lại tìm và mắc vào dây xong thì bị nhỡ xe. Ra tới cổng
nhà Dòng, các xe đã chạy hết, chỉ còn xe Cố chính cũng ình ịch sắp sửa chạy!
Làm sao bây giờ? Chạy đuổi những xe đã đi khuất, liều mình phải nhỡ chuyến tàu
hoả, hay là lạy van Cố chính xin một chỗ ngồi? Phân vân...! Nhưng cho chắc
việc, con đã nhất định lạy van.
Bây giờ con làm ra bộ không cuống
quýt gì cả, mặc dầu lòng cuống quýt lắm con thưa sự thể với Cố Chính. Chính
ngài lại cuống quýt không biết phải liệu làm sao vì xe ngài cũng hết chỗ rồi.
Nhưng một ông ngồi trong xe vội vàng bước xuống nhường chỗ cho con và chạy lên
ngồi ghẹ bên cạnh người đánh xe.
Khi ấy con như con sóc giập phải lưới
không thể làm sao để chịu được. Chung quanh toàn những chư tôn liệt vị, nhất là
cái khổ phải ngồi đối diện người mình kinh khiếp nhất. Nhưng Cố chính lại tỏ
lòng yêu quý con lắm, thỉnh thoảng dừng chuyện để nói về Dòng Kín với con. Cố
đã hứa sẽ hết sức giúp việc con vào Dòng 15 tuổi.
Lần hội ngộ này con thấy vết thương
lòng được dìu dịu, nhưng vẫn còn đau. Con đã mất hết hy vọng ở người thế gian
con chỉ còn trông cậy một mình Chúa thôi.
Từ Florence về Lisieux
Dầu lòng phải âu sầu, buồn bã, song
con vẫn lấy sự được kính viếng những nơi Thánh làm ơn ích rất trọng.
Ở thành Florence, con được viếng xác
bà Thánh Madalena đệ Pazzi đặt ở giữa nhà nguyện Dòng Kín. Các người đi viếng
đất Thánh, ai ai cũng muốn đá tràng hạt vào mộ Đấng Thánh, nhưng tay to không
thò vào được; chỉ có tay con nhỏ lọt được phên giậu sắt chắn ở ngoài mà thôi.
Con đã được hân hạnh giúp mọi người công việc quý trọng ấy trong một giờ lâu và
rất được tự hào.
Cũng không phải lần đây mới là nhất
sơ, mà con được ơn hơn người. Ở Rôma, khi vào viếng đền thờ kính Thánh giá Đức
Chúa Giêsu, con đã được xem nhiều mảnh gỗ Thánh Giá với hai cái gai và một đanh
sắt. Con muốn xem kỹ hơn nên đã nhẩn nha vào xem sau. Khi thầy coi việc toan
đem những của châu báu ấy cất lên bàn thờ, con hỏi thầy rằng có được đá đến
không. Thầy trả lời được vì tưởng tay con chẳng thể với tới. Con liền đưa ngón
tay út vào khe hòm, chạm tới chiếc đanh đã dính máu Thánh Chúa. Thật con ở với
Chúa như một trẻ tưởng mình muốn làm gì cũng được, coi của châu báu Cha Cả như
của mình.
Chúng con còn qua hai tỉnh Pise và
Gênes mới về tới biên giới nước Pháp. Trên đường gặp nhiều phong cảnh rất thi
vị. Khi thì xe chạy men theo bờ biển, một hôm gặp phong ba nước biển dâng lên,
sóng biển ùa vào tới đường xe chạy, tung nước mặn lên như muốn té ướt chúng
con. Khi thì xe chạy trên những cánh đồng giồng cam giồng Oliva, cấy gồi trông
vui mắt lắm. Đến chập tối, dưới đất các cửa bể rực rỡ sáng, trên không vòm trời
xanh biếc lấp lánh sao vàng... Cảnh thần tiên này qua đi cũng chẳng tiếc, lòng
chỉ mơ ước và nơi bồng lai non nước khác.
Cha lại tỏ ý muốn cho con sang viếng
thành Giêrusalem: dĩ nhiên con thích sang kính viếng những nơi thánh địa đã in
lốt chân Chúa thuở xưa; song vì du lịch ở chốn khách đày bằng ấy cũng đủ nhọc
rồi, con chỉ ước ao ngắm cảnh đẹp trên trời; và để đưa các linh hồn lên nghỉ
ngơi thanh nhàn ấy, con muốn được mau chóng bỏ tù mình trong Dòng Kín.
Ôi! Con cảm thấy rằng cho đến ngày
được xem thấy cửa ngục hồng phúc ấy mở cho con vào, con còn phải chiến đấu, còn
phải đau khổ nữa; nhưng lòng cậy trông vẫn vững vàng, con vẫn hy vọng vào Dòng
ngày 25 tháng chạp, ngày lễ Sinh Nhật.
Vừa về đến Lisieux, chúng con vội vã
vào thăm nhà Kín trước hết. Cuộc gặp gỡ lần ấy thế nào, chắc Mẹ còn nhớ rõ.
Phần con, con đã hoạt động hết sức
rồi, con giao phó mặc Mẹ lo liệu. Mẹ liền bảo con viết thư ngay sang Đức Cha
trình lại lời Ngài hứa xem thế nào; con đã vâng viết ngay. Thư bỏ trạm rồi, con
tưởng chầy kiếp sẽ được tung cánh bay ngay. Nhưng mỗi ngày mỗi ngán! Cánh hồng
mong mà chẳng thấy! Lễ Sinh Nhật đến, Chúa Giêsu vẫn còn ngủ. Quả bóng nhỏ Chúa
vất xó vẫn còn ở xó, chẳng được một cái nhìn!
Nguồn sầu ứa lên, cơn thảm kéo đến,
thật là gớm ghê ghê gớm! Nhưng Đấng mà lòng chỉ biết thương, biết yêu đã dạy
con rằng: đối với một linh hồn có đức tin bằng hạt cải, Người cho làm phép lạ
để lòng tin nhỏ hẹp ấy được thêm mạnh mẽ; chí như đối với những bạn thân thiết
Chúa, đối với Đức Mẹ, Người lại thử thách lòng tin trước đã, rồi mới làm phép
lạ sau.
Nào xưa Chúa đã chẳng để Lazaro chết,
dù hai bà Martha và Maria đã cho đến báo tin ông ấy ốm? Nào, trong bữa tiệc
cưới thành Cana, Chúa đã chẳng trả lời Đức Mẹ xin giúp chủ nhà: chưa đến giờ?
Nhưng mà thử xong thì thưởng liền: nước trở nên rượu! Lazaro sống lại!... Nay
Chúa cũng xử đãi Têrêsa mọn của Chúa như thế: thử thách rất lâu rồi ban ơn rất
hậu.
Thư Đức Cha Hugonin
Ngày Tết năm 1888, Đức Chúa Giêsu lại
gởi mừng tuổi con một thánh giá. Mẹ Maria de Gonzague viết thư cho con báo tin
rằng đã nhận được thư Đức Cha ngày 28 tháng chạp, ngày lễ các Thánh Anh Hài. Cứ
như thư Đức Cha thì con nhận vào Dòng ngay, nhưng nhà Dòng đã định mùa Chay qua
mới mở cửa.
Nghĩ đến phải hoãn lâu dường ấy, con
không thể cầm nổi nước mắt! Càng nghĩ càng héo hắt: Đã qua luỹ ngoài, lại mắc
thành trong, đâu đó trắc trở đã yên, chính tổ lại đuổi chim non!
Ba tháng chờ đợi ấy, ơn Chúa cũng
lắm, đau khổ cũng nhiều đã qua đi thế nào?
Trước hết con nghĩ ngay rằng không
nên bó buộc mình quá, nên giảm bớt cách sống quá luật phép trước đi cho khuây
lòng; nhưng rồi Chúa đã cho con hiểu biết giá trị của thời hạn trì hoãn, nên
con lại quyết chí sống nhiệm nhặt và hãm mình nhiều.
Khi nói hãm mình, con không có ý nói
những cách hãm mình của các Thánh. Con chẳng dám sánh mình cùng những linh hồn
mạnh mẽ đẹp đẽ từ thuở thơ ấu đã phạt mình đánh tội đủ thế đủ cách; phận hèn
con chỉ biết hãm mình là bỏ ý riêng, không đôi chối, giúp đáp chị em những việc
lặt vặt mà chẳng kể công và ngàn việc nhỏ nhặt khác như vậy.
Bằng cách thi hành những việc không
đáng gì đó con sửa soạn để trở nên vị hôn thê Chúa Giêsu.
Thời gian phải chờ đợi mà mong đêm
ngày này đã giúp con tiến tới nhiều trên đàng nhân đức, nhất là đức phó mình và
đức khiêm nhượng: Có nói cũng chẳng thể nói cho cùng...
Thứ hai, ngày 9 tháng 4 năm 1888 là
ngày con được vào Dòng Kín. Hôm ấy nhà Dòng mới mừng lễ Truyền Tin mùa Chay
hoãn lại.
Tối trước ngày biệt ly, toàn thể gia
đình họ hàng bà con thân thuộc cùng ngồi quây quần một mâm cơm, con là người ăn
bữa sau hết! Trong bữa cơm giã này, đã nói biết bao lời chia biệt não nùng,
thương nhớ. Ai ai cũng cố ý gượng vui cho quên sầu, thì ai ai cũng cứ bật miệng
ra những lời từ giã thâm thiết quá, đau đớn quá, thành thử lòng càng thêm xót,
ruột càng thắt chặt, cảnh biệt ly càng thêm lai láng!...
Sáng ngày sau, lúc còn tinh sương,
con đưa mắt nhìn trại Buissonnets, nhìn tổ êm ấm đã nằm bấy lâu lần sau hết rồi
bước ra đi về phía Nhà Kín. Những thân tình cốt nhục đã đến hợp mặt lần sau hết
tối qua, sáng nay cũng đi xem lễ hết, và ngồi chung quanh con. Khi lên chịu lễ,
con nghe lòng sầu bi ai nấy đều nấc nở. Riêng con, con không rơi hạt nước mắt
nào; nhưng đến lúc phải đứng lên đi lại phía vào nhà trong, trái tim con rung
động mạnh mẽ quá, con đã hỏi mình là giờ chết chăng!
Chao ôi, giây phút quá nghiêm trọng!
Lòng đau dường bằng cơn hấp hối. Ai không trải qua, quyết không hiểu ra.
Từ giã bà con thân quyến đoạn, con
quỳ xuống trước mặt cha, xin người chúc lành cho con. Cha cũng quỳ xuống vừa
chúc lành vừa nức nở khóc, hạt châu lệ tầm tã như mưa. Thật là bức phông ai xem
cũng phải chạnh lòng, các Thiên thần nhòm xuống không thể nín cười. Ông già râu
tóc trắng xoá đem con gái đang xuân mơn mởn tế lễ Chúa!
Khi con vừa bước vào trong, cửa nhà
Dòng liền đóng sập lại! Đồng thời các chị yêu dấu chạy đến hôn con âu yếm lắm,
rồi cả chị em nhà Dòng cùng đến ôm con mừng rỡ chí thiết, ngoài thế gian khó có
mối tình thân ái chân thành và yêu thương dường ấy.
Thế là mong đợi đã qua, bao nhiêu
mong ước đã thành sự thật! Khi ấy linh hồn con cảm thấy bình an thư thái dịu
dàng man mác, toả trong khắp mình, không thể nói được. Đã ngót chín năm nay sự
bình an ấy hằng vẫn ở trong mình con, cả những lúc gian truân khổ sở rất mực,
lòng con vẫn thấy nhẹ nhàng bình tĩnh.
Vào nhà Dòng, con thấy mọi cái mọi
vui; con ngờ mình đã đi đến một cảnh rừng thanh vắng! Cái phòng nhỏ con ở, càng
làm con vui thích.
Nhưng thưa Mẹ, con nhắc lại, hạnh
phúc của con đây rất phẳng lặng yên hàn, dường như ngọn gió nam nhẹ đưa chiếc
thuyền con lướt trôi trên mặt nước lặng như tờ mà không làm gợn sóng lăn tăn.
Vòm trời xanh của con cũng chẳng thấy mảnh mây nào vẩn vơ trôi. A! Gian nan
sinh hạnh phúc! Nay con thấy mình được thưởng trọng hậu lắm. Con rất vui mừng
khoan khoái mà nhắc lại lời này: “Rày tôi được ở đây cho đến chết!”.
Những gian nan đầu tiên
Hạnh phúc của con chẳng như mây toả
khói tan, có đấy rồi lại mất đấy, cũng chẳng bày xoá như những sự háo hức buổi
đầu. Háo hức! A, Chúa đã thương chẳng để con phải tính háo hức. Trước con đã
tưởng tượng nhà Dòng làm sao, rầy con cũng nhận thấy như vậy, không một hãm
mình phạt xác nào phép Dòng dạy làm mà con bỡ ngỡ và thưa Mẹ, Mẹ đã biết đấy,
khi con mới vào Dòng, con đã giẫm bước phải nhiều chông gai hơn là gặp hoa đẹp.
Trước hết, linh hồn con phải khô khan
cay cực như của nuôi mình hằng ngày. Đoạn Chúa để Mẹ Bề trên xử với con rất
thẳng nhặt mà chính Người cũng không ngờ. Chẳng lần nào con gặp Người mà không
bị một vài lời quở trách. Con nhớ một lần quét nhà để sót màng nhện trong hiên.
Người đã trách con trước mặt chị em rằng: “Ai chẳng biết trẻ 15 tuổi đã quét
nhà! Thật là tội nghiệp! Thôi, con đi nhặt màng nhện ấy đi, và từ rày phải làm
kỹ lưỡng hơn”.
Thoảng hoặc khi có việc phải lên
Người từng giờ, con cũng bị mắng hầu cả giờ, nhưng cái khổ ấy chưa bằng cái khổ
con không biết cách phải sửa mình làm sao, thí dụ: sửa tính chậm chạp, sửa thói
ít nhiệt thành trong các việc phải làm.
Một ngày kia, con đã nghĩ có khi
Người muốn con dùng những giờ thong dong mà con thường đọc kinh để làm việc
chăng nên con cứ cắm đầu ngồi khâu vá, chẳng ngẩng mặt lên chút nào, cũng chẳng
để ai biết, con chỉ cốt ở sao cho trung thành như tôi ngay con thảo, con chỉ
muốn làm việc để một mình Chúa biết.
Trong kỳ thử, chiều nào cũng tư rưỡi,
Mẹ coi nhà tập sai con ra vườn làm cỏ, làm cỏ thì khó gì, nhưng cái khó cho con
là ra được tới vườn, hầu như lần nào cũng gặp Mẹ Maria de Gonzague ở lối đi.
Một lần Người trách con rằng:
- Thế thì trẻ này không làm gì à? Tập
tành chi mà ngày nào cũng phải cho đi chơi thế này!
Ấy trong bất cứ việc gì, Người cũng
xử với con như thế.
Ôi! Mẹ yêu dấu, con phải đội ơn Chúa
dường nào! Người đã thương cho con được giáo huấn một cách rất nghiêm khắc, rất
quý hoá! Đó là ơn vô giá! Giả như con được chiều chuộng như quý vật trong nhà
Dòng theo như người đời nghĩ, thì làm sao? Có lẽ con không còn biết nhìn nhận
các Bề trên là kẻ thay mặt Chúa, một trông như người thường, và chút công phu
giữ lòng son sẻ bấy lâu ở thế gian, khéo đã phải vương vấn trong chốn viện tu
cũng chửa biết chừng! Phúc cho con! Tai nạn ấy, con đã được đề phòng rất chu
đáo.
Con có thể nói đừng kể những ưu tư
trầm phiền vừa kể, còn nhiều nỗi gian nan cay cực hơn nữa, sự đau khổ đã bắt
tay con ngay từ lúc bước chân vào Dòng, nhưng càng gian nan, lòng con càng ham
chịu khó, càng phải uống chén đắng, lòng mến Chúa càng thấy ngon ngọt. Lập
trường mà con quyết thi hành trong Dòng Kín, con đã cung khai trong bản dự án
đại thể thảo sẵn trước ngày lễ Khấn rằng:
“Tôi vào Dòng để lo cho kẻ tội lỗi ăn
năn trở lại, nhất là cầu nguyện nhiều cho hàng Giáo sĩ nên trọn lành thánh
thiện!”.
Khi ai muốn đạt tới đích kỳ vọng, dĩ
nhiên người ấy phải dùng phương thế. Đức Chúa Giêsu đã cho con biết phương thế
cứu vãn các linh hồn là Thánh giá, cho nên càng gặp nhiều Thánh giá, lòng ái mộ
chịu đau khổ của con càng thêm nồng nàn hăng hái. Trong 5 năm vừa qua, con đã
bước đi đường ấy, con đi thì con biết, chớ chẳng ai biết con đi. Ấy chính là
một hoa mọn mọc nơi xó xỉnh chẳng ai thèm để ý mà con muốn dâng tiến Chúa đấy.
Hoa mọn này có chút hương thơm nào, chỉ bốc theo đường thẳng lên trời thôi.
Con vào Dòng mới được hai tháng, Cha
Pichon Dòng Tên đã phải ngạc nhiên về cách Chúa hoạt động trong linh hồn con.
Cha tin tưởng vào lòng sốt sắng ngây thơ của con, và đường lối rất êm dịu con
đi. Giả như khi ấy con biết cởi mở tâm hồn cùng người cách dễ dàng, hẳn là lòng
con đã được an ủi biết chừng nào! Tuy nhiên con đã được xưng tội chung với cha
một lần, lần ấy cha bảo con rằng:
- Cha xin nói trước mặt Chúa, trước
mặt Đức Mẹ Đồng Trinh, các Thiên thần và các Thánh Nam Nữ rằng: Con chưa phạm
tội trọng nào bao giờ, con hãy đội ơn Chúa vì ơn rất trọng ấy, thật chẳng phải
bởi công lênh con”.
Ôi! Con vẫn tin tưởng thế, con chẳng
có công lênh gì, lại còn hèn sức yếu đuối là khác, lòng con duy chỉ có đầy sự
nặng nghĩa tri âm mà thôi. Xưa nay con những lo sợ hoặc đã làm hoen ố áo trắng
sạch phép Rửa tội, rày thấy chính miệng Đấng chỉ dẫn linh hồn vừa thông thái,
vừa nhân đức như Mẹ Thánh Têrêsa ước ao, phân phô cho thế, con nghe như chính
Chúa phán. Cha lại bảo con rằng:
- Hỡi con, con hãy lấy Chúa làm Bề
Trên, làm Thầy dạy, coi sóc con hằng ngày.
Chính thế. Đức Chúa Giêsu chẳng những
là Bề Trên là Thầy lại là Cha linh hồn con nữa. Nhưng không vì đó mà con nói
như mình chẳng muốn tỏ linh hồn cho các Bề Trên biết đâu. Trái lại, con chẳng
giấu giếm gì sự thể linh hồn con, con vẫn mở lòng con như cuốn sách mở để các
Bề Trên xem xét.
Mẹ coi sóc chúng con hồi ấy, đáng là
vị đấng Thánh, là kiểu mẫu cụ thể về chị em Dòng Kín đời xưa. Con không lìa
Người lúc nào, vì hằng được tập việc với Người. Lòng tốt Người đối với con thật
không thể nói hết, con yêu mến Người lắm, kính phục lắm, nhưng linh hồn con
không cởi mở được. Khi ấy con chẳng biết bày tỏ linh hồn làm sao, muốn nói mà
nói không ra, nên việc chỉ dẫn linh hồn con đã thành một hình khổ, một ách
nặng.
Có một mẹ như hiểu thấu nỗi lòng con,
ngày kia đang buổi chơi, bảo con rằng:
- Con ơi! Xem ý ra con chẳng có gì
đáng tỏ cùng các Bề Trên.
- Thưa Mẹ, sao Mẹ lại nghĩ thế?
- Mẹ thấy linh hồn con đơn sơ lắm mà
sau này nên trọn lành, con cũng sẽ đơn sơ hơn nữa! Người ta càng gần Chúa, càng
hoá đơn sơ.
Lời Mẹ nói rất phải. Tuy sự khó cởi
mở tâm hồn là bởi tính nết đơn sơ con thật, nhưng bấy giờ con rất lấy làm khó
chịu. Ngày nay, sự đơn sơ vẫn còn, mà sự tỏ bày tâm tình tư tưởng, con cảm thấy
dễ dàng hơn nhiều.
Con đã nói Chúa Giêsu là Cha linh hồn
con. Khi cha Pichon vừa mới nhận việc coi sóc linh hồn con, thì Bề Trên lại sai
người sang Canada, thành thử mỗi năm con chỉ còn được một lá thư người gởi cho
con. Hoa mọn giồng trên núi Carmel, nay lại hướng về Cha Cả các linh hồn, chớm
nở dưới bóng rợp cây Thánh giá, lấy nước mắt và máu cứu chuộc làm sương sa mát
mẻ, lấy Thánh nhan Chúa làm mặt trời giãi ánh chiếu.
Thưa Mẹ, trong hồi đó, nhờ Mẹ chỉ
giáo, con mới biết những kho tàng châu báu tích chưa nơi Thánh nhan Chúa. Mẹ đã
vào Dòng trước ba em, Mẹ cũng hiểu trước ba em những mầu nhiệm về tình yêu thắm
thiết ẩn hiện trên Thánh nhan Bạn Cực Thánh. Mẹ đem phân phát những lĩnh hội ấy
cho các em, làm Têrêsa hiểu được thấm thía, hiểu hơn bao giờ, cái vinh hiển nào
là vinh hiển thật.
Đấng mà nước Người trị không phải là
thế gian , đã cho con hiểu biết chỉ có một vinh hiển đáng thèm, đáng
tranh đua cho kỳ được sự ái mộ được ẩn tích mai danh được khinh thường coi
rẻ , lấy sự tự hạ làm vui thích. Ôi! Cũng như Nhan Thánh Chúa, con ước ao
được che mặt cho kín, thế gian đừng ai nhận biết con . Con khao khát được
quên mình cho hẳn.
Ôi! Đường Chúa dắt con đi hằng ngày
lân ái dường nào! Người chẳng mở lòng ao ước gì mà chẳng ban, bởi đó chén cay
đắng Người trao cho uống, con vẫn cảm thấy dịu ngọt ngon lành.
Cuối tháng 5 năm 1888, sau lễ khấn
của chị Marie, chị cả, mà Têrêsa, em út được hân hoan đội mũ hoa ngày chị kết
ngãi trao duyên với Chúa, thì ở nhà lại phải sự khó nặng. Từ khi cha ngã bệnh
bại thân lần thứ nhất, chúng con đã nghiệm thấy cha dễ nhọc lắm. Trong cuộc
hành trình Rôma, nhiều lần trong sắc mặt cha, chúng con cũng biết cha mệt mã và
đau đớn trong mình. Nhưng còn điều này làm con cảm động nhất, là thấy cha tấn
bộ lạ lùng trên đường nhân đức, tính tự nhiên cha rất nóng mà cha đã cầm hãm
như thường, cha rất thản nhiên nhìn sự thế vật lộn, cuộc đời đổi thay!
Thưa Mẹ, tiện đây con kể một nhân đức
của cha:
Trong cuộc hành trình Rôma, đối với
hành khách những ngày đêm nằm ngồi trên xe xem ra lâu dài lắm, dĩ nhiên hành
khách sốt ruột, rồi thở dài ra đánh, rồi cãi lẫy nhau. Một hôm, họ mời chúng
con chơi: chúng con đã kiến nói rằng không quen chơi mấy. Với chúng con, ngày
đêm vẫn như thường, dài gì đâu, đứng mà ngắm cảnh trời đất phong quang đẹp đẽ
hằng bày xoá trước mặt, có khi còn cho vắn là khác. Khách mời chơi không được,
tỏ bộ bất bình, cha phải can thiệp ngay, người bình tĩnh nói năng ôn tồn bênh
đỡ chúng con, lại nói như để họ nghe thấy rằng đi viếng Thánh địa mà để giờ đọc
kinh chẳng thừa bao giờ.
Trong đám chơi, một kẻ đã quên sự
kính trọng người bạc đầu không suy nghĩ, nói mỉa mai ngay rằng:
- May, đời này không sẵn Phariseo
mấy!.
Cha không đối lại một lời, cứ điềm
đạm vui vẻ, rồi sau tìm dịp bắt tay người ấy chuyện trò tử tế, dường như không
nghe thấy lời nói khích bác khi nãy, hay có nghe mà đã quên.
Vả lại, thưa Mẹ, tấm lòng độ lượng
hay tha thứ của cha, chẳng phải là trường hợp này mới thấy. Theo lời Mẹ và các
người quen biết cha nói, chẳng khi nào cha nói lời gì phạm đến đức yêu thương.
Nhân đức tin và lòng đại lượng của
cha hằng ngát mùi thơm trong mọi trường hợp bất trắc. Đây con nhớ mấy lời cha
than thở cùng một bạn thân khi nói chuyện việc con vào Dòng:
“Têrêsa công chúa nhỏ của tôi đã vào
Dòng sáng hôm qua! Chỉ có Chúa mới có thể đòi tôi dâng của lễ ấy. Nhưng Chúa
cũng thương tôi lắm, trong lúc ruột đau rơi lệ, lòng vẫn tràn đầy vui vẻ!”.
Với một tôi trung con thảo thể ấy,
phải có một phần thưởng cân xứng lòng nhân đức, chính cha đã xin Chúa ban cho
cha phần thưởng trọng đó. Mẹ ôi! Chắc Mẹ còn nhớ, hôm cha đến thăm lần ấy, cha
đã nói gì!
“Các con cha hỡi, cha vừa ở Alençon
về. Trong đền thờ Đức Mẹ ở Alençon, cha đã được nhiều ơn cả thể, an ủi lòng lắm,
cha đã than thở cùng Chúa rằng: ‘Lạy Chúa, quá đủ rồi! Lòng tôi vui sướng quá,
tôi không thể lên thiên đàng thế này được, tôi muốn chịu khó vì Chúa một chút.
Rồi tôi dâng mình tôi làm...’”.
Tiếng của lễ cha không dám nói ra lời
trước mặt các con, cha chỉ hơi nhích môi, nhưng các con yêu dấu cha cũng thừa
hiểu!
Thưa Mẹ, xin Mẹ hồi tưởng nỗi lòng
trầm uất, cay đắng, đau đớn lúc ấy! Những kỷ niệm xé ruột ấy, con xin miễn kể
ra đây...
Lễ hỏi thiêng liêng
Kỳ này con sắp được mặc áo Dòng rồi.
Đức Cha đã định vào ngày 10 tháng 1. Thật không ai ngờ kỳ đó cha lại được khỏi
bệnh lần thứ hai. Phỉ lòng mong đợi, và đẹp đẽ thay ngày lễ Mặc áo! Ngày vui
mừng ấy chẳng thiếu sót gì, tuyết trời cũng rơi mừng!
Thưa Mẹ, con có tính thích tuyết. Khi
còn nhỏ, thấy tuyết trắng, con rất thích. Lý do lòng vui thích đó, có lẽ là vì
thân hoa mọn này đã nở vào tiết đông: Vừa mở mắt chào đời, đã thấy đời mặc áo
tuyết trắng. Nhân đó, con mới ước ao trong ngày mặc áo Dòng được xem cảnh thiên
nhiên cũng tô điểm màu trắng như con.
Nhưng chiều ngày áp lễ, bỗng dưng khí
trời dịu lại, ấm áp như mùa xuân, làm con không còn hy vọng sáng mai có tuyết
nữa. Sáng mai tức là 10 tháng 1, trời vẫn ấm, không thay đổi gì! Thấy vậy, con
đã bỏ ngay lòng ao ước ngây thơ không thể thực hiện kia và bước ra nhà ngoài.
Cha đã đứng đợi ngoài cửa, thấy con
ra, liền tới lại bên con, rơm rớm nước mắt, ôm con vào lòng kêu lên:
“A! Công chúa nhỏ tôi đây rồi!”.
Đoạn cha để tay cho con bám, hai cha
con trịnh trọng bước vào nhà nguyện.
A, ngày ấy là lễ khải hoàn sau hết
của cha ở dưới đất! Được bao nhiêu con, cha đã tế lễ Chúa tất cả, cả gia đình
đã thuộc về Chúa. Chị Céline cũng đã trình cha ý kiến mai ngày sẽ xin vào Dòng
Kín. Cha đã hết sức vui mừng trả lời:
“Hỡi con, hãy theo cha! Cha con cùng
đến nhà thờ trước Mình Thánh Chúa, lạy tạ ơn Chúa đã thương nhà ta lắm, đã ban
cho cha vinh dự là kén chọn tất cả chúng con làm bạn trăm năm. Người thương cha
thế, thật là cho cha một vinh dự rất lớn. Nếu cha còn gì quý hơn quyết là cha
dâng tiến Chúa”.
Cái gì quý hơn đó, chỉ có thể là
chính thân già của cha nữa thôi. Chúa đã nhận cha như một lễ vật toàn thiện.
Người đã lọc luyện cha như lửa luyện vàng, đã công nhận cha là của lễ xứng
đáng .
Khi các lễ phép bên ngoài cử hành đã
xong, con liền tiến vào nhà trong, đồng thời Đức Cha xướng hát kinh Te Deum.
Một cha vội vàng nhắc Đức Cha kinh Te Deum chỉ hát khi làm lễ Khấn; nhưng vì
đang sốt sắng Đức Cha cứ hát cho rồi.
Bước vào nhà trong, trước hết mắt con
nhìn lên tượng Chúa Hài Đồng mỉm cười đứng giữa muôn hoa và nến sáng. Rồi nhìn
ra sân, con thấy sân đầy tuyết. Chao ôi! Chúa Giêsu chiều con quá! Vị hôn thê
Chúa muốn gì cũng cho, muốn tuyết được tuyết! Trong nhân loại, một người quyền
phép mấy mặc lòng, hỏi có thể khiến trời rơi tuyết dù một nắm cỏn con thôi để
đẹp lòng người yêu của mình được chăng?
Sáng ấy, ai thấy tuyết sa cũng ngẩn
lạ, coi như một điều gì đó, và rồi những người biết được lòng ước ao của con,
thường hay nói hôm con mặc áo có phép lạ nhỏ, lại cho cái tính thích tuyết của
con là một tính tình ngộ nghĩnh... Càng hay! Có ngộ nghĩnh thế mới càng tỏ rõ
cái lòng yêu chiều quá đỗi của Bạn các kẻ đồng trinh, của Đấng ưa thích những
bông huệ trắng như tuyết.
Xong lễ, Đức Cha vào nhà trong tỏ
tình yêu quý con như người cha trước mặt nhiều thầy cả theo hầu; Đức Cha đã
nhắc lại việc con đến thăm người ở tỉnh Bayeux, việc con đi Rôma xin phép Toà
Thánh, cả câu chuyện uốn tóc! Người đặt hai tay lên con mơn trớn yêu đương một
lúc. Trong phút được yêu ấy, con liên tưởng tới ngày sẽ được chính tay Chúa mơn
trớn, yêu quý trước mặt thần thánh trên trời, thì lòng càng dịu dàng êm ái quá,
không lẽ nói được. Sự an ủi ngọt ngào này, với con đã dịu dàng như được nếm
trước phúc thiên đàng.
Nỗi lòng cực
Con vừa nói ngày 10 tháng 1 là lễ
khải hoàn của cha: con so sánh với ngày Chúa nhật lễ Lá, quân Giudêu rước mừng
Chúa vào thành Giêrusalem cách trọng thể. Cũng như tình cảnh Chúa, cha qua được
một ngày vinh hiển liền tiếp đến ngày thương khó; và như cuộc Tử nạn Chúa
Giêsu, đã đâm gan xé ruột Đức Mẹ thể nào, lòng chúng con cũng phải tan nát thể
ấy vì những thương tích những cơ cực người yêu quý nhất đời của chúng con phải
chịu.
Con nhớ hồi tháng 6 năm 1888, - đang
khi lo cha mắc chứng bệnh đau óc – con có nói lời này làm Mẹ nhà Tập phải bỡ
ngỡ:
- Thưa Mẹ, con đau đớn lắm, nhưng con
cảm thấy mình còn thể chịu đau đớn hơn!
Lúc ấy con đã nghĩ đâu đến cơn gian
nan đang chờ đợi. Con không biết rằng sau ngày con mặc áo một tháng, ngày 12
tháng 2 – cha yêu dấu phải uống một chén quá đắng... phải đến điều trị ở nhà
dưỡng bệnh! Ôi, lúc này chẳng còn nói được mình còn thể, chịu đau đớn hơn nữa!
Lời lẽ không thể diễn tả nỗi lòng cực này! Con cũng chẳng muốn thử viết làm
gì...
Sau này ở trên trời, chị em ta cùng
nhau ôn lại những ngày u uất trầm phiền ấy của khách địa.
Thật, ba năm đau khổ cha đã chịu, cao
quý lắm, đã làm ích cho con cha rất nhiều. Nếu phải đổi ba năm đau khổ ấy lấy
những giờ nguyện gẫm cao siêu ngất trí, con nhất định không đổi. Đứng trước kho
tàng vô giá ấy, lòng tri ân của con chỉ biết kêu lên:
“Lạy Chúa, chúng con ngợi khen Chúa
vì những năm ân nghĩa mà chúng con đã được trải qua trong đau khổ” .
Ôi Mẹ yêu dấu, Thánh giá cay đắng,
nặng nề mà chúng ta vác đây quý trọng dường nào! Êm dịu biết bao! Được vác,
trái tim chúng ta chỉ biết rung lên và vang ra những tiếng lòng tri ân tri
nghĩa. Trên nẻo trọn lành, chúng ta không còn rón rén từng bước, chúng ta đã
vùng chạy, đã tung cánh bay...
***
Trong giai đoạn này, hai chị Léonie
và Céline, tuy còn phải sống giữa thế gian, nhưng chẳng còn là người thế gian
nữa. Những lá thư hai chị viết cho con, nhuộm đẫm mùi Dòng, mùi muốn đi tu mặc
dầu còn đang nhẫn nại chờ đợi.
Với chị Céline yêu dấu mà con phải xa
cách, không được gặp gỡ, tưởng chị một nơi em một ngã là hết trò hết chuyện, mà
không, bức phên sắt nghiêm nghị của nhà Dòng càng thu hút mạnh mẽ hai chị em
chúng con lại làm một: Một tư tưởng, một nguyện vọng, một tình yêu thắm thiết
Chúa Giêsu, yêu thắm thiết các linh hồn. Không khi nào có một lời chuyện đời
pha vào chuyện hai chị em chúng con. Cũng như xưa còn chung sống ở trại
Suissonnets hai chị em chẳng còn lấy mắt mà nhìn, một lấy lòng mà suy, hai tâm
hồn chắp cánh đua bay tít trên không gian, bay vượt thời gian, và để bay cho
tới cõi phúc trường sinh, hai chúng con đã ý hiệp tâm đồng chọn đau khổ, khinh
chê ở thế gian làm phương pháp, làm đôi cánh.
Lòng ước ao chịu đau khổ, thật đã
được phỉ nguyện. Nhưng con vẫn còn ước ao chịu đau khổ thêm, không giảm bớt
phân ly. Hễ lòng càng đầy muôn sự trầm phiền, tâm hồn lại càng thông phần tân
khổ. Sự khô khan tâm hồn con mỗi ngày một thêm: Trên trời dưới đất chẳng còn
thấy chi an ủi, ủi an, sự gian nan như nước vỡ bờ, tràn vào lai láng tâm hồn,
quả nhiên cầu được ước thấy mà cũng quả nhiên con cảm thấy được thoả thuê sung
sướng hơn mọi loài.
Ấy là tình cảm tâm hồn con trong thời
hạn làm vị hôn thê của Chúa. Ôi! Lâu chi lắm cho mỏi lòng mong đợi! Hết năm
Tập, Mẹ Bề Trên lại bảo con đừng nghĩ đến việc khấn nữa: Cha Bề Trên nhất định
chưa cho khấn, phải đợi thêm 8 tháng!
Mới đầu, con lấy làm khó chịu quá;
nhưng rồi ơn Chúa trấn tĩnh tâm hồn ngay.
Trong kỳ hoãn này, con đã dùng sách
Nền tảng đời sống thiêng liêng của Cha Surin soạn làm sách gẫm. Một ngày đang
suy gẫm, con nhận ra rằng lòng quá mong ước được khấn đó có pha mùi tự ái
nhiều; con đã giao hẹn mình là đồ chơi nhỏ để an ủi và mua vui cho Chúa, lẽ ra
chẳng nên ép Chúa theo ý con. Đàng khác con lại nghĩ trong ngày lễ cưới, vị hôn
thê nếu không tô điểm xinh đẹp, không ăn vận lịch sự tử tế, không thể vừa lòng
đẹp ý chồng đâu. Mà con đối với Bạn Thánh, con chưa có lo sắm gì hết, cho nên
con đã trần tình cùng Chúa rằng:
“Lạy Chúa! Con không vội xin khấn
nữa; con vui lòng đợi đến ngày Chúa muốn. Con chỉ không thể chịu được vì tại
lỗi con mà ngày hợp hôn cùng Chúa phải hoãn. Từ nay con quyết cố gắng lo liệu
may sắm một áo rất đẹp, rất sang, đính nhiều hạt kim cương, nhiều ngọc trai quý
giá; con tin chắc một khi áo cưới đã đẹp đẽ vừa ý Chúa, sẽ chẳng còn gì ngăn
trở được cuộc thành hôn nữa”.
Con đã hăng hái bắt tay vào việc
ngay. Sau khi mặc áo, Chúa đã soi cho con hiểu thấu nhiều lẽ cao sâu trên đường
trọn lành theo đấng bậc tu, nhất là về lời khấn đức khó khăn. Hồi con ở nhà Tập
con có tính ưa dùng những đồ gọn gàng sạch sẽ, và cần dùng gì thì muốn có ngay,
Chúa cũng làm thinh cho vậy, vì Người chẳng muốn tỏ thánh ý Người cho các linh
hồn biết hết trong một lúc, Người thường soi sáng dần dà mỗi khi một ít.
Từ khi bắt đầu tập sống thiêng liêng,
vào quãng 13, 14 tuổi, con đã tự vấn không biết sau này nên cơ đồ gì, vì đàng
trọn lành con thấy mình không thể hiểu hơn được nữa. Nhưng chẳng mấy chốc, con
đã nhận ra đàng trọn lành càng tiến càng thấy xa. Bởi vậy chẳng những con bình
tâm trông mình kém cỏi, con còn vui mừng là khác.
Thắng lợi đầu tiên
Con trở lại câu chuyện những bài học
Chúa dạy con.
Bữa tối kia lúc đọc kinh đoạn, con
tìm cái đèn con vẫn để trên bệ mà chẳng thấy; là giờ im lặng, không thể hỏi han
ai được. Con nghĩ thầm hẳn có chị nào lấy lẫn đèn của con về dùng. Nhầm mà để
người ta phải chịu tối cả giờ làm sao? Lại là tối định làm nhiều việc!
Phải mà khi ấy, Chúa chẳng ban ơn soi
sáng bề trong, có lẽ con đã phàn nàn lắm; nhưng vì có ơn Chúa, chẳng những con
đã không buồn bực, lại coi mình là có phúc ở chỗ đó. Con suy rằng để giữ đức
khó khăn cho trọn, chẳng những phải vui lòng chịu thiếu thốn những cái viễn
dụng mà thôi đâu, lại cả những vật thiết dụng cũng phải vui lòng chịu thiếu
thốn nữa. Tối ấy, bề ngoài tối tăm u ám thật, nhưng linh hồn được ơn Chúa chiếu
soi rạng rỡ lắm.
Từ đó về sau, con mới được thật lòng
yêu dùng những vật dụng thô kệch sứt mẻ, xấu xí, bởi vậy lần kia con thấy chẳng
còn được dùng cái bình thanh cảnh con vẫn dùng trước, một phải dùng cái bình
thô kệch mẻ sứt, con đã cảm thấy vui thích trong mình. Con cũng đã cố gắng giữ
đừng bao giờ chữa mình điều gì, thật hồi ấy con lấy điều này làm khó khăn lắm,
nhất là đối với Mẹ nhà Tập mà xưa nay con chẳng giấu giếm gì hết.
Cuộc thắng lợi đầu tiên của con tuy
không to tát, nhưng con đã phải rất khó nhọc.
Một hôm, chẳng biết chị nào đem để
cái bình đằng sau cửa sổ bình thấy đã vỡ, Mẹ nhà Tập ngờ là con để vương đấy mà
vỡ, đã mắng con rầy đi phải biết làm cho ý tứ hơn, chẳng ngăn nắp gì hết. Rồi
Mẹ khó chịu. Con chẳng thưa lại lời nào, một cúi xuống hôn đất và hứa về sau sẽ
giữ ngăn nắp hơn.
Cũng tại con ít nhân đức, cho nên mới
làm chút việc nhỏ mọn ấy về nhân đức, đã lấy làm vất vả khó nhọc và phải nghĩ
đến điều: ngày phán xét mọi sự sẽ được bày tỏ minh bạch.
Con đã chú ý điều này nhất: tập làm
những việc nhân đức kín đáo; chẳng hạn, khăn áo chị em bỏ tung, con gấp lại gọn
gàng hộ. Con hằng kiếm dịp giúp đỡ chị em phương này ngã khác. Con cũng ưa
thích sự hãm mình đánh tội, song chẳng được phép làm gì cho thoả. Bề trên chi
cho phép con một điều: giết chết lòng tự ái trong mình. Việc hãm mình này đã
tấn ích cho linh hồn con nhiều lắm, hơn cả những việc hãm mình đánh phạt tội
phạt xác.
Tuy nhiên, Đức Mẹ cũng trợ cấp con
nhiều trong việc may sắm áo cưới cho linh hồn. Khi áo tân hôn vừa may xong, bao
nhiêu trúc trắc ngăn trở liền biến hết, và ngày lễ Khấn của con đã nhất định
vào ngày 8 tháng 9 năm 1890.
Tất cả những tâm sự con vừa tóm tắt
kể ra, đáng lẽ phải có bao nhiêu trang viết nữa mới vừa, song những trang viết
ấy sẽ chẳng được đọc ở thế gian.
Thưa Mẹ, con kể đây việc cấm phòng
dọn mình khấn?
Thật tâm hồn con không được một chút
an ủi, lòng phải lạnh lẽo khô khan như đất ruộng khô khan nẻ nứt, đã hơi nản
lòng thối chí. Chúa Giêsu cứ làm thinh như ngủ trong thuyền nhỏ này. Ôi, con
thấy ít tâm hồn để Chúa nghỉ yên nơi mình! Thấy cực trọng đã phải mệt nhọc lắm
vì hoạt động tấn ích cho các tâm hồn, hay lợi dụng con để nghỉ ngơi. Có lẽ mãi
đến ngày con về cấm phòng đời đời trên quê thật, Chúa mới thức dậy, dầu vậy
cũng chẳng khó chịu, con lại vui khoái là khác.
Sự thật, con chưa thánh thiện gì hết,
tâm trạng trên đây là một chứng cớ. Chẳng nhẽ con mừng vì thấy mình khô khan,
một phải lo buồn vì mình kém lòng sốt sắng làm tôi Chúa cho phải đạo tôi trung
con thảo. Nhưng không, con vẫn không buồn vì khô khan, không buồn vì hay ngủ
gật trong giờ nguyện gẫm và cám ơn. Con suy rằng cha mẹ yêu con thì khi con
thức cũng yêu, khi con ngủ cũng quý. Thầy thuốc muốn mổ xẻ, lại cần làm bệnh
nhân ngủ đi đã là khác. Hơn nữa, Chúa biết sự giòn mỏng yếu đuối của ta. Người
hằng nhớ ta chỉ là bùn bụi .
Tuần phòng dọn mình khấn cũng như các
tuần phòng về sau, con khô khan quá. Chỉ được điều này là những cách thức làm
đẹp lòng Chúa và thi hành nhân đức, tự nhiên con am hiểu được rõ ràng. Nhiều
lần con nghiệm thấy Chúa không muốn con tích trữ của ăn, Người nuôi con bằng
của ăn mới luôn, một khi cần, con thấy có ngay trong tâm hồn, có mà không hiểu
được từ đâu đem lại. Con chỉ tin là Chúa ngự kín trong lòng con, ở đó, Người
hoạt động cách bí mật, Người muốn gì thì giục giã con làm ngay cái ấy.
Mấy giờ trước lễ khấn, con đã nhận
được từ Rôma, phép lành Đức Thánh Cha ban, do thầy Frère Siméon chuyển tới.
Phép lành quý báu này hẳn đã phấn chấn lòng con rất nhiều, đã trợ giúp con trải
qua những giông tố dữ dội của kiếp phù sinh.
Trong đêm trước ngày Khấn, thường
tình ai ai cũng thấy lòng mình rạo rực êm dịu ngọt ngào, thế mà sáng ấy, bỗng
dưng ơn kêu gọi của con đã biến thành giấc mộng hão huyền, một chiêm bao dông
dài! Thằng quỷ, chắc chắn là nó, cám dỗ con rằng tu gì được mà tu, chỉ lừa dối
các đấng Bề Trên để bước đi con đường Chúa không gọi!
Giờ phút ấy, tâm hồn con u mù tăm tối
quá, chẳng còn biết hiểu làm sao, chỉ nghĩ quẩn quanh rằng không có ơn kêu gọi
vào Dòng, hẳn là phải trở về thế gian!
Tả sao hết nỗi lòng đau đớn! Cơn bối
rối ấy biết xoay xở thế nào! Con liền quyết chỉ đi bày tỏ cơn cám dỗ cho Mẹ coi
sóc biết, con trình Người ra nhà nguyện, và lo lắng bối rối, con kể lể tình
cảnh tâm hồn cho Người nghe. May quá! Người trông thấy rõ sự thể tâm hồn con
hơn con, Người tủm tỉm cười khuyên con cứ giữ vững ơn Chúa gọi.
Thằng quỷ ngốc kia, thấy con đã hạ
mình đi tố giác mưu gian sâu độc của nó, nó cút thẳng cẳng. Chủ ý nó là muốn
ngăn trở con đừng tỏ nỗi lòng, lòng băn khoăn nghi ngờ ấy để dần dà lôi con vào
dò lưới nó. Nhưng cun cút lại vụt vào lưng: Chính nó lại bị con phản tấn công
và để giữ lòng khiêm nhượng cho trọn, con cũng đã kể việc tâm hồn đó cho Mẹ Bề
Trên biết. Người đã an ủi con và chấm hết mọi nghi ngờ.
***
Từ sáng mồng 8 tháng 9, sự bình an
như nước sông tràn vào tâm hồn con, làm con thư sướng mát mẻ quá trí khôn
lường. Trong khi an sướng ấy, con đã tuyên thệ những lời khấn. Ôi! Còn ơn nào
mà con đã chẳng cầu xin trong giờ phút ấy! Con thấy mình như bà Hoàng, và nhân
danh bà Hoàng con đã tâu xin Vua Cả mọi ơn lành cho cả dân Người trị, xin đại
xá cho những phần tử vô nhân bạc nghĩa. Con không quên sóc ai. Con đã ước ao
chớ gì ngày đó, bao nhiêu người tội lỗi trở lại hết, chớ gì trong luyện ngục
không còn một linh hồn nào phải cầm tù.
Còn những ơn riêng con muốn xin cho
con, con đã viết vào giấy đặt trên ngực nơi trái tim như sau:
- Lạy Đức Chúa Giêsu là Bạn Thánh
lòng con yêu mến, xin Chúa đừng để áo trắng sạch đã ban cho con khi chịu phép
rửa tội phải hoen ố! Thà Chúa cất con về chẳng thà để con sống ở thế gian mà
linh hồn phải nhọ chỉ vì cả lòng phạm một lỗi mọn. Xin Chúa cho con chỉ tìm và
gặp một mình Chúa! xin cho muôn vật trở nên không trước mắt con và con là không
trước mắt muôn vật! Xin Chúa đừng để một nhân vật nào dưới đất làm mất sự bình
an trong lòng con bao giờ.
Lạy Đức Chúa Giêsu, con tha thiết xin
Chúa ban cho con được sự bình an!... Sự bình an và nhất là lòng kính mến Chúa
vô cùng vô tận. Ớ Giêsu cực thánh! Chớ chi con được chết vì lòng kính mến Chúa!
Xin Chúa ban cho lòng con chịu mọi nỗi tân toan cơ cực, hay là cho xác con được
chịu mọi giống khổ hình độc dữ vì lòng mến Chúa. Hay phải hơn, xin Chúa ban cho
cả xác lẫn hồn con được chịu khổ cực vì Chúa đến nỗi chết!
Nguyện xin Chúa ban ơn cho con giữ
vuông tròn mọi điều đã dốc lòng, xin cho hết thảy bỏ quên con, giày đạp con
dưới chân như giống hèn, như hạt cát.
Hỡi Chúa là bạn chí thiết tâm hồn
con, con phó dâng mình con cho Chúa, để Chúa làm hoàn tất ý Chúa nơi mình con,
hầu chẳng còn gì có thể làm ngăn trở được.
Chiều ngày lễ Khấn, con đã hạ mũ hoa
hường đội đầu xuống và đặt dưới chân Đức Mẹ Đồng Trinh theo lệ Dòng, lòng vẫn
hoan hỉ, con nhận thấy thời gian qua mà hạnh phúc chẳng mất...
Lễ Sinh Nhật Đức Mẹ. Đẹp đẽ quá, ngày
đó lại là chính ngày con đã kết ngãi trao duyên cùng Chúa! Chẳng khác gì Đức Mẹ
Đồng Trinh dâng con là hoa mọn cho Chúa Hài Đồng Giêsu. Trong ngày ấy, mọi sự
mọi nhỏ mọn, trừ những ơn Chúa ban và sự bình an; sự vui mừng lúc tối đứng
ngoài sân, ngẩng mặt ngắm nền trời muôn sao nhấp nhánh, đẹp đẽ và tư lự rồi đây
mình sẽ được bay lên đó, lên hợp hoan với Bạn Thánh giữa biển phúc lạc vô cùng.
Lễ đội lúp
Lễ đội Lúp vào ngày 14. Lễ này buồn,
nước mắt chảy nhiều! Phần thì cha ốm nặng không thể đến chúc lành cho công chúa
người, phần thì Đức Cha Hugonin chủ toạ lễ ấy, khi lễ sắp cử hành lại báo tin
ngăn trở không sang được! Và còn bao bất trắc khác thành thử lễ tẻ ngắt, cái gì
cũng nhuốm màu buồn rời rợi...
Nhưng vậy, lòng con vẫn bình an, sự
bình an như chìm ở đáy chén cay đắng, con cố uống vào bao giờ cũng thấy.
Hôm ấy con không giữ nổi nước mắt...
và cũng không hiểu lý do những hạt nước mắt ấy!... Trước đây nhiều lần phải cực
gấp bội con cũng chẳng khóc! Những lần ấy mà cầm mình được hẳn là vì có ơn mạnh
mẽ Chúa xuống cho, nhưng lần này Chúa để mặc sức riêng con, với sức mong manh
yếu ớt, chịu chẳng nổi, con đã phải khóc.
Sau lễ đội Lúp 8 ngày, cô Jeanne là
chị họ cưới ông bác sĩ Néele, đã đến thăm nhà Dòng, cô nói chuyện cách thức
mình đã chiều đãi chồng mới cưới. Con nghe câu chuyện, lòng khấp khởi quá. Con
đã định tâm: “Quyết không chịu thua người đàn bà thế gian cách chiều đãi chồng
nay còn mai mất, hơn mình chiều đãi Chúa Giêsu là Bạn chí thiết!”.
Khi ấy trái tim con nóng lên vì cảm
hứng mới, con quyết chí cố gắng hơn trước trong mọi việc để đẹp lòng Bạn Thánh,
để thoả lòng Vua Cả đã thương chọn con làm bạn trăm năm.
Khi con đọc giấy mời đi ăn cưới của cô,
con cũng bắt chước làm chơi một giấy mời và đọc cho các chị nhà Tập nghe để tỏ
cảm tưởng con đối với một đám cưới thế gian, nếu đem so sánh với những chức
tước vẻ vang của bạn trăm năm Chúa, chẳng vần vẽo gì.
Vậy thiếp mời dự lễ cưới của con thế
này:
“Đức Chúa Trời toàn năng, tạo thiên
lập địa, an bài vũ trụ và Rất Thánh Đồng Maria, Nữ Vương thiên đàng, trân trọng
đưa tin mừng để quý ngài thêm vui rằng:
Hoàng Tử Giêsu là trưởng nam của
chúng tôi, làm Vua các vua. Chúa các chúa, đã thành hôn với cô Têrêsa ái nữ cụ
cố Martin, nay đã là Hoàng Hậu, là Bà chúa uy quyền cai trị tất cả những đất
nước Đức Vua Giêsu ban làm “tư sản” như “Hài Đồng Giêsu, Cuộc Tử nạn Cứu thế”.
Bởi đấy Hoàng hậu được tôn lên hai
danh hiệu cao trọng này: Têrêsa Hài Đông Giêsu và Nhan Thánh.
Chúng tôi chẳng được hân hạnh mời quý
ngài đến dự lễ cưới đã cử hành long trọng trên núi Carmel ngày 8 tháng 9 năm
1890 – hôm ấy chỉ có triều đình thiên quốc xuống dự - thì ít là chúng tôi kính
mời quý ngài đến dự cuộc rước dâu về, sẽ cử hành ngày mai – ngày bế mạc thế
gian – Vua Giêsu bởi trời ngự xuống uy nghi sáng láng trên đám mây, phán xét kẻ
sống và kẻ chết.
Chúng tôi chưa muốn nói nhất định
ngày giờ nào, yêu cầu quý ngài cứ chuẩn bị sẵn sàng và luôn luôn tỉnh thức...
Ơn tuần phòng
Con khấn năm trước thì tuần phòng
cuối năm sau, Chúa ban nhiều ơn cả thể lắm. Tính con rất ngại những tuần phòng
giảng nhiều, nhưng lần đây đã khác hẳn. Khi con thấy sắp phải chịu khó con đã
làm một tuần cửu nhật sốt sắng để dọn mình sẵn! Con nghe thấy nói cha giảng phòng
năm nay khéo giảng cho kẻ tội lỗi ăn năn trở lại hơn cho những người nhà Dòng
được tấn tới trên đàng nhân đức trọn lành. Vậy thì chính con là kẻ tội lỗi, nên
Chúa đã đưa Cha đến an ủi dạy dỗ con.
Đang hồi ấy, con phải lo âu trầm
phiền lắm, đến nỗi không còn biết bày tỏ làm sao. Nhờ cha đã khéo hiểu và luận
đoán rất đúng tâm tình con, nên linh hồn con đã cởi mở được hết. Người đã dun
con như đẩy mạnh chiếc thuyền cánh buồm căng thẳng đang thi gió lướt trên những
dòng nước cậy trông và yêu mến – hai dòng nước vẫn đã lôi cuốn con rất mạnh –
nhưng con đã phân vân không dám tiến nữa. Người bảo con rằng:
“Các lỗi con phạm không mất lòng Chúa
đâu! Nay thay Chúa Cha đến cùng con, vậy cha nhân danh Chúa nói quyết cùng con
rằng Đức Chúa Trời rất bằng lòng tâm hồn con”.
Ôi! Được nghe những lời an ủi êm ái
dịu dàng ấy, lòng con ngây ngất sướng! Chưa khi nào con được nghe nói có những
lỗi không mất lòng Chúa! Lời quả quyết này làm con chan chứa vui mừng, đã giúp
con chịu đựng nhẫn nại cuộc khổ hãi thế gian. Vả lại, lời cha quyết đó, cũng là
tiếng vang những tư tưởng thầm kín thâm thiết mà từ lâu con vẫn tư lự trong cõi
lòng.
Thật xưa nay con vốn tin lòng Chúa
yêu tha thiết và mềm mại hơn lòng người mẹ, mà lòng người mẹ con lại đã hiểu
rất thấu! Con biết người mẹ hằng sẵn sàng tha thứ những sơ suất vô tình con
mình phạm. Chính con đã được hưởng cái tình độ lượng ấy nhiều lần. Đối với con,
chẳng lời quở trách nào xúc động tâm tình bằng một cái mơn trớn của mẹ, Chúa đã
phú cho con bổn tính này: với lo sợ, chỉ muốn lùi, với yêu mến, chẳng những con
tiến, còn muốn bay là khác.
Giọt lệ cuối đời
Hai tháng sau tuần phòng cuối năm, Mẹ
Đáng Kính Geneviève de Sainte Thérèse đã lập Dòng Kín Lisieux qua đời. Mẹ bỏ
nhà Kín nhỏ hẹp dưới đất để lên ở nhà Kín rộng rãi trên trời.
Trước khi nói mối tình cảm xúc thương
nhớ Mẹ Đáng Kính mất, thưa Mẹ, con hẵng xin nói phúc con được sống lâu năm bên
vị thánh, tuy không vô địch, song có nhiều nhân đức kín đáo bề trong, và thông
thường bề ngoài. Nhiều lần con đã được nghe Mẹ an ủi ngọt ngào lắm.
Ngày Chúa nhật kia, khi vào nhà liệt
thăm Mẹ, con thấy hai chị già đang ở đó rồi, con liền rón chân bước ra ngay,
nhưng Mẹ gọi lại và nói, như có ơn soi sáng rằng:
“Hỡi con, khoan khoan, Mẹ nói cùng
con một điều: con thường hay xin Mẹ hoa thiêng liêng, hôm nay Mẹ cho con hoa
này: Con cứ vui vẻ bình tĩnh làm tôi Chúa: hỡi con hãy nhớ Đức Chúa Trời là
Chúa sự bình an”.
Cám ơn Mẹ con bước ra, lòng cảm động
không cầm nổi nước mắt! Con nhận thấy Chúa soi sáng cho người biết rõ sự thể
linh hồn con. Chính ngày ấy, con phải một cơn gian nan quá cực hầu buồn bã suốt
đêm, con đã lo không biết có còn được Chúa yêu dấu chăng! Nhưng sự vui mừng an
ủi đã đến làm khuây cơn buồn. Sự buồn bã ấy, thưa Mẹ, Mẹ cũng đoán ra được...
Chúa nhật sau, con đã muốn biết Chúa
tỏ cách nào mà Mẹ Đáng Kính Geneviève hiểu được linh hồn con như thế. Người nói
Chúa chẳng tỏ cách nào hết. Nghe thế con càng lạ lùng vì thấy Chúa ở rất chí
thiết với linh hồn Mẹ, Chúa ngự đó hằng ngày để điều khiển mọi công việc. A!
Thế mới là nhân đức thật, thánh thiện thật! Con ước ao sự nhân đức thánh thiện
ấy lắm, vì chẳng còn phải là mơ hồn lầm lạc gì.
Ngày Mẹ Đáng Kính từ giã khách đày về
quê thật, con đã được một ơn riêng: Lần thứ nhất ở bên người hấp hối. Thật là
một cảnh xán lạn! Hai tiếng đồng hồ, con ngồi ở chân giường Mẹ hấp hối, người
con như súc gỗ vô tri vô giác, đến khi con cảm thấy khó chịu thì giây phút ấy
Mẹ về thiên đàng liền đến, thái độ trong người con bỗng dưng đổi hẳn; qua nháy
mắt, con cảm thấy lòng vui tràn ngập, lòng sốt sắng phi thường, dường như linh
hồn tốt lành sáng láng Mẹ chuyển sang con một hạnh phúc Mẹ đã được hưởng, vì
con tin chắc Mẹ được lên thiên đàng ngay.
Khi Mẹ còn sống, đã có lần con trình
Mẹ rằng:
- Thưa Mẹ, con trông chắc Mẹ không
phải vào luyện ngục!
- Mẹ cũng hy vọng thế! Người trả lời
cách rất dịu dàng.
Chắc Chúa tốt lành vô cùng, không nhẽ
đánh lừa một tấm lòng cậy trông rất khiêm nhượng đó. Tất cả những ơn ta được
xưa nay là tang chứng rõ rệt về lòng Chúa thương yêu.
***
Bấy giờ chị nào cũng đòi cho kỳ được
một di tích của Mẹ để làm kỷ niệm.
Thưa Mẹ, phần con đã được gì, Mẹ cũng
biết rồi. Trong khi Mẹ Đáng Kính hấp hối, con thấy một hạt nước mắt lóng lánh
như kim cương dính ở mí mắt. Hạt châu này là giọt lệ cuối đời người, không rơi
đâu sốt, lúc đưa xác vào nhà nguyện, con còn thấy nhấp nhánh nơi mí. Đến tối
chẳng ai để ý, con cầm chiếc khăn gai mỏng lại gần thấm lấy, giữ gìn và tới
ngày nay con vẫn còn cái phúc giữ giọt lệ cuối đời của đấng thánh.
Con không quan tâm đến những chuyện
mơ, và cũng ít lần mơ mà có nghĩa mầu nhiệm. Con thường hỏi mình sau suốt ngày
chỉ những tư lự về Chúa, mà đêm ngủ lại không mơ gì về Chúa? Thường nhật, con
mơ rừng muôn cây xanh, hoa muôn sắc đẹp, suối muôn dòng sáng, biển lúc lặng như
tờ, lúc sóng nổi trùng trùng điệp điệp!... Hầu ngày nào con cũng mơ thấy lũ trẻ
xinh xinh nô giỡn, mơ đuổi bướm bắt chim, những chim bướm chưa từng thấy bao
giờ.
Theo Mẹ, Mẹ xem, những mộng con mơ mà
có vẻ thơ đó, đều chẳng có ý nhiệm nào hết.
Khi Mẹ Đáng Kính Geneviève qua đời
rồi, con đã mơ một điều rất an ủi. Mẹ đi phân phát cho mỗi chị em một chút đồ
vật Mẹ đã dùng. Đến lượt con, con không trông được gì nữa, vì tay Mẹ đã hết cả
rồi. Bây giờ Mẹ nhìn con cách rất yêu, nói đi nói lại cùng con ba lần rằng:
“Phần con, Mẹ giối lại tấm lòng Mẹ!”.
Bệnh dịch
Cuối năm 1891, cũng là tháng sau ngày
Mẹ Đáng Kính Geneviève qua đời, nhà Dòng phải chứng dịch ho sốt rất nặng, cả
nhà chỉ còn con với hai chị nữa là bị qua loa, còn thể đi lại được. Chẳng ai có
thể tưởng tượng được tình cảm thê thảm thảm thê và rất chật vật của nhà Dòng
trong những ngày tang thương héo hắt ấy!
Người bệnh vừa, còn cố dậy được, phải
coi sóc và thuốc thang cơm cháo cho người bệnh nặng, chị này chưa lành hẳn, chị
kia đã chực hấp hối, ai ai cũng nằm chờ chết và cám cảnh thay! Hễ chị nào đã
tắt hơi, phải bỏ ngay để đi giúp chị khác!
Ngày con vừa chẵn 19 tuổi là ngày bi
đát quá! Mẹ Nhì trong nhà mất! chỉ có con và chị nhà liệt giúp Mẹ giờ hấp hối.
Mẹ vừa sinh thì, hai chị khác cũng chết theo ngay! Các việc nhà nguyện chỉ còn
mình con làm, chẳng biết xoay xở làm sao cho kịp.
Một sáng, vừa lên hiệu thức, con như
có linh cảm rằng chị Madeleine chết rồi! Bấy giờ lối đi trong hè còn tối như
bưng, chưa chị nào ra khỏi phòng. Mặc lòng, con đã nhất định lần đến phòng chị
Madeleine xem, quả nhiên con thấy chị vận áo nằm chết đã lạnh! Chẳng sợ hãi gì,
con chạy lại buồng áo lấy nến sáp đốt, lấy vòng hoa hường đặt trên đầu chị.
Trong lúc hiu quạnh lạnh lùng ấy, con mới hiểu lòng lành Chúa đoái thương xem
sóc gìn giữ ta lắm. Người cho chị em Dòng nằm chết êm ái dễ dàng như nằm ngủ,
gương mặt tươi như đượm vẻ vui thiên đàng.
Trong những tuần tang tóc quá chua
xót, quá đau đớn này, con được điều rất an ủi lòng sầu là được chịu lễ hàng
ngày. Ôi! Dịu dàng dường nào! Chúa Giêsu chiều con mãi, chiều hơn tất cả những
bạn tình trung tín thân thiết khác của Chúa. Khi bệnh dịch đã qua, Chúa còn
muốn ngự vào linh hồn con hàng ngày thêm mấy tháng nữa, mà cả nhà chẳng ai được
phúc trọng đó. Con không dám xin Chúa biệt đãi thể ấy, nhưng được Chúa thương
cách ấy, lòng con vui mừng sung sướng quá đỗi!
Con lại được hân hạnh đá đến những
bình Thánh, dọn khăn Thánh trên bàn thờ để Chúa Giêsu ngự. Nhận biết đó là phúc
trọng lắm nên con đã hết lòng sốt sắng và năng nhắc mình lời tiên tri Isaia nói
về thầy Sáu:
“Ngươi hãy là Thánh vì ngươi đá đến
những đồ Thánh của Chúa!” .
Thưa Mẹ, còn việc cám ơn chịu lễ, hồi
này cũng như mãi mãi về sau, chẳng lần nào tâm hồn con được an ủi một chút!
Điều đó cũng dĩ nhiên, vì con chẳng chịu lễ cho thoả lòng con, một chịu lễ cho
đẹp lòng Chúa mà thôi.
Con ví tâm hồn con như miếng đất
hoang, con nài xin Đức Mẹ thu quén các ngổn ngang là tất cả những tính hư nết
xấu trong mình con, lại cậy Đức Mẹ hoá tâm hồn con như nhà tạm, có trang hoàng
những đồ quý báu riêng của Người, để xứng đáng cung nghinh Vua Cả trời đất ngự.
Con cũng kính mời Thiên thần và các thánh chiếu cố đến, để đàn hát những bài ca
rất tình trong khi thừa tiếp Chúa. Xem ra Chúa hài lòng vì những nghinh tiếp
trọng thể linh đình đó, và con, con cũng được vui cùng Chúa.
Con đã suy vẽ đến thế mà lòng vẫn lo
ra, mắt vẫn ngủ gật! Cho nên thường là con nhất định cám ơn cả ngày, và khi ở
nhà nguyện con đã chẳng làm cho đủ và cho nên.
Thưa Mẹ, Mẹ đã biết, con không thích
đi đàng sợ hãi, con hàng xoay sở tìm cách để vui vẻ, để lợi dụng những điều
khuyết điểm nhầm nhỡ. Chính Chúa cũng phấn khởi con mạnh dạn bước đi đường lối
đó.
Một sáng khác hẳn với thói quen mọi
ngày, khi lên chịu lễ, con thấy lòng bối rối quá! Đã mấy sáng trước thiếu Mình
Thánh, con chỉ được chịu một phần nhỏ, sáng hôm ấy, tự nhiên con nghĩ một điều
nông nổi này:
“Nếu sáng nay tôi cũng chỉ được chịu
nửa hình bánh, có lẽ mà tin Chúa không hài lòng ngự vào linh hồn tôi!”.
Đến khi chịu lễ... Ôi! Mừng rỡ quá!
Thầy cả dừng lại cho con chịu 2 Mình Thánh. Đó, chẳng phải là cách Chúa trả lời
quá ngọt ngào sao?
Thưa Mẹ yêu dấu, con còn nhiều lẽ
phải đội ơn Chúa! Con kể thêm đây một tâm sự ngây thơ này nữa; Chúa đã thương
con như thương vua Salômôn, con mơ ước gì Chúa cũng cho, nào phải chi những mơ
ước nên trọn lành mà thôi, cả những mơ ước mà con biết là hư huyễn, nhưng con
chưa từng, Chúa cũng thương ban cho thoả lòng ước.
Bởi con đã nhìn Mẹ như một lý tưởng,
nên con ước ao được giống Mẹ trong mọi cách. Con thấy Mẹ vẽ nhiều tranh ảnh rất
đẹp, hoạ những bài thơ văn rất hay, làm thi phú rất khéo, con nghĩ bụng mình mà
giỏi được như Mẹ thì sung sướng biết chừng nào! Biết vẽ khéo, biết làm thi phú,
biết làm ích cho những người sống chung quanh. Mặc dầu rất ước ao có những tài
ấy, nhưng không dám xin Chúa ban, chỉ ước muốn thầm trong cõi lòng kín.
Song bởi lòng con là nơi Chúa hằng
ngự trị, nên một lần nữa, Chúa đã tỏ cho con biết mọi sự thế gian thảy đều vô
ích. Vậy chẳng bao lâu con cũng vẽ được nhiều tranh ảnh đẹp, làm được nhiều bài
thơ văn khéo, đến nỗi cả nhà phải bỡ ngỡ cái tài thi hoạ của con, con lại biết
giúp ích cho một vài linh hồn.
Nhưng như vua Salômôn khi ngắm lại
những công trình mình đã làm với bao công của, con nói là vô ích
hết thì con cũng nghiệm thấy rằng hạnh phúc đời này chỉ có thể là
cuộc đời mai danh ẩn tích, sống đừng biết gì đến thế gian nữa. Bao nhiêu công
cuộc to tát lừng lẫy, nếu không đi đôi với lòng kính mến Chúa cũng hư vô hão
huyền hết. Bởi vậy Chúa cho con tài cán gì, tài cán ấy chẳng lẽ làm con phải
thiệt xác hay hại hồn, một chỉ nâng rước lòng con lên tới Chúa. Chỉ có Chúa mới
không hề thay đổi, chỉ có Chúa mới làm thoả mãn lòng khát vọng sâu xa man mác
của con thôi.
Nhân nói đến lòng ước ao, con lại nhớ
lần kia Chúa đã thương con lắm, Người làm theo ý con mọi đàng, câu chuyện cũng
ngây thơ giống câu chuyện tuyết sa ngày lễ mặc áo Dòng.
Thưa Mẹ, Mẹ đã biết con thích hoa
lắm, 15 tuổi vào Dòng, con đã mất hẳn cái thú chạy tung tăng trong những cánh
đồng hoa tươi đẹp. Vậy mà không khi nào con lại được lắm hoa bằng từ khi vào
nhà Kín!
Ngoài đời người ta có cách chơi thanh
lịch này: bạn giai tặng vị hôn thê của mình nhiều bó hoa xinh đẹp. Chúa Giêsu
không quên điều ấy... Con đã nhận thấy được nhiều hoa rất đẹp như cẩm chướng,
mào gà, tam thể và nhiều thứ khác mà con ưa thích, để trưng bày bàn thờ Chúa,
chỉ thiếu thứ hoa nhỏ kia là hoa cỏ miến. Con ước ao lại được thấy hoa ấy lắm,
thì quả nhiên con đã xem thấy thật. Sự đó minh chứng rằng trong bất cứ việc to
nhỏ, kẻ đã từ bỏ mọi sự vì lòng mến Chúa, từ đời này Chúa đã trả gấp trăm.
***
Sau hết, còn một điều ước mơ tha
thiết nhất và cũng khó thành nhất: con mong ước chị Céline được vào nhà Kín
Lisieux ở với chúng con. Tuy nhiên, con bằng lòng hy sinh mọi nhẽ, phó dâng
tương lai chị mặc ý Chúa se định. Như Chúa muốn chị phải tu ở chốn sơn cùng
thuỷ tận, ở góc bể chân trời, con cũng vui lòng miễn là chị nên bạn trăm năm
Chúa như con thì thôi. Ôi! Biết bao đau đớn cho lòng con khi thấy chị còn phải
chìm nổi giữa cheo leo thế gian, qua những nguy hiểm mà con chưa từng có biết!
Với chị, con có thể nói con có tình yêu thắm thiết như của người mẹ, con tận
tâm ân cần lo lắng tới linh hồn chị.
Một lần kia, chị phải theo mợ và mấy
em đi dự buổi dạ hội theo lối đời. Không hiểu sao khi ấy lòng con buồn bã hơn
mọi lần, nước mắt ứa ra chan hoà, con van nài Chúa can thiệp đừng để chị nhảy
đầm... Đã xảy ra rất đúng! Chiều ấy, Người chẳng để vị hôn thê nhỏ Người nhảy
được, tuy mọi khi chị nhảy rất nhã nhặn có duyên. Cả anh chàng vào đôi cùng chị
cũng chỉ đờ ra đấy, anh ta chỉ biết đi theo một cách rất đạo hạnh nết na, làm tất
cả cử toạ phải ngạc nhiên bỡ ngỡ! Sau đó, ông công tử đỏ mặt lủi mất, cho đến
lúc tan cuộc, không thấy ra mặt nữa!
Câu chuyện có một này càng làm mạnh
mẽ lòng con cậy trông Chúa, càng chứng tỏ Chúa cũng yêu đương chị lắm. Người đã
in dấu Người trên trán chị.
Cha trinh nữ qua đời
Ngày 29 tháng 7 năm sau, là ngày thử
thách đã đủ, nhân đức đã trọn, Chúa gọi cha về thiên đàng!
Hai năm trước qua đời, cậu đã giữ cha
ở nhà cậu, ân cần coi sóc tuổi già đau ốm của cha rất tận nghĩa tận tình. Vì
bệnh nạn đau yếu quá, trót kỳ bệnh, cha chỉ đến thăm các con cha được một lần.
Thương hơõi! Cái lần cha con gặp gỡ ấy đau đớn bi đát dường nào! Con chắc Mẹ
chưa quên được. Khi từ giã các con, các con lạy cha rằng: Tạm biệt cha già yêu
dấu! Cha liền ngước mắt lên trời, giơ ngón tay chỉ một lúc dường như chẳng biết
nói lại làm sao, chỉ ứa nước mắt ra mà rằng:
- Cha con có gặp nhau nữa, chỉ gặp ở
trên trời!!!
Nay cha đã về nhận phước thiên đàng
rồi, những việc chị Celine phải làm để báo hiếu cha yêu dấu cũng xong. Chị đã
là thiên thần an ủi cha; vậy thiên thần một khi đã làm tròn việc Chúa giao phó
ở thế gian, với đôi cánh sẵn có, liền bay ngay về cùng Chúa. Chị Céline cũng
chỉ ước ao mong mỏi bỏ thế gian bay về núi Carmel. Song, khỏi dây này lại vương
dây nọ, điều ngăn trở cứ thấy tứ bề ràng rịt, hầu chẳng còn đường để gỡ, hay gỡ
càng thêm rối!
Vậy một sáng kia, sau chịu lễ con đã
thở than cùng Chúa Giêsu rằng:
- “Lạy Chúa, Chúa biết lòng con ước
ao chớ gì vì những gian nan đau khổ cha con đã phải chịu trong hồi đau ốm mà
được khỏi giam phạt trong lửa giải tội. Ôi! Con ước ao được biết Chúa có khứng
nghe lời con cầu xin chăng! Con chẳng dám nài xin Chúa phán bảo sự ấy, một xin
Chúa ban dấu này làm chứng là lo cho chị Céline con được vào ở Nhà này cho
chóng. Chúa biết chỉ còn chị X... phản đối việc đó, vậy nếu rày đi chị ấy không
phải đối nữa, con tin là dấu Chúa đoái nghe lời con cầu xin và hiểu là cha con
đã được về thiên đàng ngay”.
Ôi, lòng Chúa thương xót vô lượng vô
biên! Chúa khứng nghe lời ta cầu xin lắm lắm! Người cầm trong tay lòng mọi
người, Người muốn uốn nắn ngã nào tuỳ ý. Người đã đổi hẳn thái độ chị cố làm
ngăn trở việc chị Céline vào Dòng.
Sau cám ơn chịu lễ, vừa bước ra khỏi
nhà nguyện, con gặp chị ấy trước hết, đôi mắt ngấn lệ, chị gọi con mà nói mình
hết lòng ước ao chị Céline vào ở trong Nhà này cho chóng! Và một ít ngày sau,
Đức Cha cũng giải quyết xong những ngăn trở khác, Người cho phép Mẹ mở cửa
Carmel đón chim câu lạc về tổ.
Hôm ấy là ngày 14 tháng 9 năm 1894.
Chị Céline vào Dòng đổi tên là Geneviève de la Sainte Face.
***
Giờ đây con chẳng còn mong mơ ước
muốn gì nữa, con chỉ ước mơ say sưa trong lửa mến yêu Chúa Giêsu cho phỉ lòng
phỉ chí. Thật thế, chỉ có lòng kính mến Chúa chiếm đoạt lòng con thôi. Con
chẳng ước ao đau khổ nữa, con chẳng ước ao chết nữa, tuy dù con vẫn yêu quý cả
hai! Từ lâu con đã quen gọi đau khổ và chết là sứ giả đem tin mừng... được gặp
gian lao tân khổ như thế, con cầm mình như đã tới áp cửa trời! Thuở còn nhỏ,
con đã tin rằng hoa mọn này sẽ phải hái giữa tuyết xuân; ngày nay con chỉ biết
lấy sự phó thác làm hướng đạo, chẳng còn la kinh nào khác. Con chẳng biết cầu
xin gì cho sốt sắng được nữa, trừ sự cầu xin được giữ vuông tròn thánh ý Chúa
nơi linh hồn con. Con đã có thể ngâm nga bài ca của cha thánh Gioan Thánh giá
rằng:
Trong phòng kín của Bạn tình chí
thiết
Đầy rượu ngon, ta uống... uống no say
Lúc bước chân ra tới cánh đồng này
Bày chiên chăn nẫy đâu rồi... không biết...
Đầy rượu ngon, ta uống... uống no say
Lúc bước chân ra tới cánh đồng này
Bày chiên chăn nẫy đâu rồi... không biết...
Hồn ta lưu luyến đứng bên cạnh Bạn
Bạn tình ta, ta tiếp đãi thiết tha
Đoàn chiên chăn với việc cửa nhà
Ta bỏ hết để say sưa tình ái!
Rút kinh nghiệm ta nhận thấy rõ
Bạn tình ta, ta tiếp đãi thiết tha
Đoàn chiên chăn với việc cửa nhà
Ta bỏ hết để say sưa tình ái!
Rút kinh nghiệm ta nhận thấy rõ
Trong muôn việc, tình có sức lạ thay!
Khéo lợi dụng cái dở lẫn cái hay
Khéo đổi cả hồn ta thành chất ái!...
Khéo lợi dụng cái dở lẫn cái hay
Khéo đổi cả hồn ta thành chất ái!...
Ôi, thưa Mẹ, biết đàng mà kính mến
Chúa, thì dịu dàng êm ái chừng nào! Đường tình ngon ngọt lắm lắm! Đành rằng
người ta còn thể lỗi lầm sa ngã, nhưng hễ có tình yêu, có lòng mến Chúa người
ta sẽ biết cách xoay sở: chẳng những biết lợi dụng lại biết làm phi tang tất cả
những lỗi phạm mất lòng Chúa, và để lắng lại lòng một bình an nhẹ nhàng, man
mác...
Ôi, những tác phẩm Cha thánh đã giãi
chiếu vào tâm hồn con biết bao quang tuyến! Khi con tới tuổi 17, 18 con chỉ
biết nuôi mình bằng những của ăn ngon lành tích chứa trong các sách ấy. Nhưng
đến sau, khi đọc tất cả những đấng dẫn đàng nhân đức, con chẳng còn biết cảm hứng
chút nào, lòng khô khan như đất ruộng cạn, tới nay vẫn còn nguyên cái tâm trạng
khô nhạt ấy. Như nay mà cầm đọc một sách dù rất hay, rất sốt sắng lòng con sẽ
se lại ngay và đọc chẳng hiểu, hay có hiểu thì trí khôn cũng chẳng thể suy gẫm
cho sâu xa thấm thía được.
Trong khi bất lực ấy, con chỉ còn
sách Kinh Thánh và Gương Phúc để an ủi lòng. Ở hai kho tàng châu báu này, con
tìm được của ăn ngon bổ và tinh sạch dường như Manna kín nhiệm vậy. Con lấy
sách Phúc Âm làm quý nhất để nguyện gẫm, trong đó tâm hồn đói khát này cần dùng
gì đều có hết. Càng ngày càng thấy sáng ra những nguồn sáng mới, những tình ý
sâu nhiệm và kín đáo.
Con hiểu và nghiệm thấy nước Đức Chúa
Trời ở giữa chúng ta . Chúa Giêsu không cần phải có sách hay có thầy mới
dạy dỗ các linh hồn được đâu, chính Người là Thầy trên hết các thầy, dạy mà
chẳng cần phải nói. Con chưa nghe thấy Chúa nói bao giờ, nhưng con biết thật
Chúa ngự trong mình con, Người hằng soi sáng và dẫn dắt con; nếu một khi phải
cần sự sáng mới lạ để nhận biết điều gì con liền thấy có ngay. Những ơn soi
sáng đó, con thường không được trong giờ nguyện gẫm cho bằng được khi làm việc
bổn phận hàng ngày.
A, thưa Mẹ, sau những ơn Chúa ban đó,
lẽ nào con chẳng đồng thanh hiệp giọng cùng vua thánh David mà chúc tụng ngợi
khen Chúa rằng: Chúa là Đấng cực khoan cực nhân, Chúa là Đấng chí lân chí
ái! . Con trộm nghĩ nếu loài người hết thảy đều được ơn Chúa xót thương
như thế, việc chi còn có kẻ khiếp sợ Chúa, chẳng say sưa yêu mến Chúa cho phỉ
tình phỉ dạ, cho đã lòng con thảo tôi ngay; quả là vì yêu mến chớ không phải vì
khiếp sợ mà linh hồn chẳng dám phạm tội dù rất mọn khi đã kịp suy.
Nhưng con lại hiểu các linh hồn không
lẽ giống nhau được; phải có kẻ thế này, người thế khác, có đẳng nọ cấp kia để
các linh hồn theo đẳng cấp mình mà tôn thờ ngợi khen những thể dụng về tính Đức
Chúa Trời. Phần con, Chúa đã ban tình yêu thương vô cùng, qua bức gương tình ái
hải hà ấy, con suy ngắm những thể dụng khác trong bản tính Thiên Chúa. Con thấy
thể dụng nào cũng ánh tình yêu rất dào dạt: Chính phép Công thẳng Chúa lại càng
thôi thúc ta tin cậy ở lòng Chúa thương yêu hơn các thể dụng khác.
Khi ta suy Chúa công thẳng vô cùng,
lòng ta hứng vui khoan khoái dịu dàng biết bao! Chúa có công bình, mới xét ta
là loài mong manh hèn sức yếu đuối, mới thấu tỏ tính loài người giòn mỏng suy
nhược! Như thế thì sợ chi mà sợ? Chúa công bình vô cùng đã khứng thứ tha các
tội lỗi người giai phung phá cách tận tình thương xót, há chẳng công bình mà
thứ tha cho con hèn mọn này ngày đêm hằng ngồi kề bên Chúa sao? .
Của lễ tình yêu
Năm 1895, Chúa cho con càng hiểu thấu
hơn khi nào hết, lòng Chúa khát khao mong được người ta kính mến. Ngày kia, khi
con suy về những linh hồn hiến thân làm của lễ tế sống để đền bồi phạt tạ phép
Công thẳng Đức Chúa Trời; và ngăn cơn nghĩa nộ Chúa công phạt người tội lỗi;
những linh hồn siêu quần bạt chúng ấy, nguyền chịu hết các hình phạt kẻ tội lỗi
đáng chịu. Con lấy sự tế lễ mình như thế làm cả thể và quảng tâm độ lượng lắm
lắm; nhưng con thấy lòng con chưa có chút gì ước ao dâng mình như vậy.
Khi ấy, con lấy hết tính thật thà
than thở cùng Chúa rằng:
“Lạy Chúa tôi, phải chăng chỉ có phép
Công thẳng Chúa mới được nhận của tế lễ đền bồi phạt tạ? Còn lòng yêu dấu vô
cùng của Chúa chẳng cần phải tế lễ sao? Đâu đấy chẳng đoái hoài sá kể lòng Chúa
thương yêu mình?... Ôi mỉa mai thay, nhưng tấm lòng Chúa muốn tỏ tình với, lại
để lòng trìu mến vật hèn hạ thế gian, cầu cạnh chút phù vân thế phước, chẳng
phó trọn mình vào tay nhân lành Chúa, để nhận lấy ngọn lửa kính mến thiêu đốt
cách rất dịu dàng êm ái!
“Lạy Chúa tôi, phần loài người chúng
tôi ngẩn ngơ vô tình bạc bẽo thể ấy, mà phần Chúa có đành hãm lửa yêu dấu ấy
lại nơi Trái tim Chúa chẳng? Tôi tin rằng phải mà Chúa gặp được linh hồn nào
dâng mình là của tế lễ cho thoả lòng Chúa thương yêu, hẳn là Chúa sẽ lấy ngay
lửa nồng nàn yêu mến Trái Tim Chúa mà thiêu đốt linh hồn ấy lập tức, lòng Chúa
sẽ thấy khoan khoái nhẹ nhàng vì chẳng còn phải nén lửa tình mạnh mẽ vô cùng
trong Trái tim hoài.
“Nếu phép tắc uy nghi công thẳng Chúa
chỉ để đối phó cùng loài vô nhân bất nghĩa trên mặt đất thôi, mà còn muốn tung
xở ra cho hả lòng nghiêm khắc, thì, huống nữa lòng yêu thương vô cùng Chúa lại
chẳng muốn mở tung ra cho bốc bầng bầng mà thiêu đốt các linh hồn yêu dấu làm
sao? Vì chưng lòng từ bi lân ái ấy rất cả thể, chẳng những tràn ra lênh láng cả
thế gian lại tràn ngập hết cõi thiên đàng cao cả . Lạy Đức Chúa Giêsu,
chớ chi thân mọn này được phúc dâng mình tế lễ Chúa như vậy! Xin Chúa lấy lửa
kính mến Chúa mà thiêu đốt nung nướng của lễ hèn này cho tiêu tan tận tuyệt”.
***
Thưa Mẹ yêu dấu, Mẹ đã dạy vẽ con cho
biết dâng mình tế lễ Chúa cách riêng thể ấy; Mẹ cũng biết những ngọn lửa yêu
mến, hay phải hơn, những nguồn ân rẫy lên như biển cả tràn trề vào tâm hồn con,
từ ngày 9 tháng 6 năm 1895 – ngày con đã dâng mình tế lễ Tình yêu dấu Chúa...
Ôi từ ngày ấy, lửa kính mến thấu nhập lòng con mạnh lắm, vây phủ tứ bề từng
giây phút, lửa tình ấy hằng luyện lọc con nên mới mẻ tinh sạch trắng tốt, chẳng
còn để sót lại lòng vết tích gì tội lỗi. Không, con chẳng sợ lửa luyện tội đâu,
con biết mình chẳng đáng vào Luyện ngục cùng các linh hồn thánh thiện; nhưng
con cũng biết lửa yêu mến có sức thánh hoá các linh hồn hơn lửa Luyện ngục
nhiều; lại Chúa chẳng để ta phải khổ vô ích và cũng chẳng mở lòng con mơ ước
những sự mà Chúa chẳng muốn ban cho như lòng sở nguyện...
***
Thưa Mẹ yêu dấu, đến đấy là tất cả
những sự mà con có thể nói về cuộc đời Têrêsa mọn của Mẹ. Cuộc đời ấy thế nào,
Chúa đã xử đối làm sao chắc Mẹ hiểu rõ hơn nó nhiều, hơn ai hết. Bởi vậy đọc
chuyện Têrêsa về quãng đời tu, mà thấy tóm tắt quá, xin Mẹ cũng chiếu tình tha
thứ.
Chuyện bông hoa trắng nhỏ này sẽ kết
liễu thế nào?... Có lẽ sẽ bị hái lúc còn đang xuân tươi, hay sẽ bị đánh đem
trồng nơi trời khác đất khác... Lẽ nào đó chẳng rõ; nhưng con biết chắc rằng hoa
ấy đem đi đâu thì tình yêu hải hà Chúa cũng theo đi đấy, hoa ấy chẳng khi nào
dám quên ơn kẻ đã tiến dâng mình cho Chúa.
Đời đời nó sẽ vui sướng vì được là
hoa trong muôn hoa kết tầng triều thiên của Mẹ; đời đời nó sẽ đồng thanh cùng
Mẹ yêu dấu mà hát réo rắt những bài ca Tình nghĩa...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét