Tự Thuật 6-9

 TỰ THUẬT

(Phần II: Quyển 6-9)
(LES CONFESSIONS)
Saint Augustin
Dịch giả: Giám mục Micae Nguyễn Khắc Ngữ (Mỹ Sơn = Michel)
AMDA
--------------------------------
QUYỂN SÁU: HẾT THIÊN KIẾN VỀ CÔNG GIÁO - BĂN KHOĂN VỀ DANH VỌNG
QUYỂN BẢY: NHỮNG VÔ THỨC VỀ SIÊU HÌNH  -  AUGUSTIN VÀ THUYẾT TÂN PLATON
QUYỂN TÁM: GƯƠNG LÀNH LÔI CUỐN - CƠN KHỦNG HOẢNG QUYẾT ĐỊNH
QUYỂN CHÍN: SAU CUỘC TRỞ LẠI  -  MONICA TỪ TRẦN

********

QUYỂN SÁU: HẾT THIÊN KIẾN VỀ CÔNG GIÁO

 

Bà Mônica gặp Augustin ở Milan


I-1              Ôi Chúa là hy vọng của con từ tuổi thanh xuân , đối với con lúc đó Chúa ở đâu và Chúa ẩn mình nơi nao?  Há chẳng phải Chúa đã dựng nên con, đã làm cho con khác loài thú bốn chân và khác hơn chim trời, hay sao? Nhưng lang thang trong tăm tối và trên con đường trơn , con tìm kiếm Chúa ở ngoài con, nên con không gặp được Chúa ở lòng con : Con đã chìm tận đáy biển  và đã mất hết tín nhiệm và hy vọng tìm được chân lý.

Được lòng đạo thêm sức mạnh, mẹ con đã đến với con, ngài vượt biển băng ngàn để theo con, và trong mọi cơn nguy biến, ngài được Chúa hộ phù. Vì trong những lúc gian nan của cuộc vượt biển, ngài đã khích lệ các thuỷ thủ, là những người thường phải phải khích lệ các khách chưa quen vượt biển, khi họ lo sợ. Ngài đã hứa với họ là sẽ được tới bến bình an, vì Chúa đã hứa cho ngài sự ấy trong một thị kiến.

Ngài đã gặp con trong tình trạng nguy khốn, là hết hy vọng tìm tòi chân lý. Nhưng khi con cho ngài biết là con không còn là đạo hữu Manès nữa, mà cũng không phải là tín hữu công giáo, thì ngài không có nhảy mừng như được nghe một tin tức bất ngờ. Vì ngài đã được chắc chắn về cái phần khốn nạn của con, đã làm cho ngài phải khóc với Chúa về con, như khóc một người chế, nhưng để được sống lại. Trên một đòn khiêng tưởng tượng, ngài dâng con lên Chúa, để được Chúa phán bảo như phán bảo con bà goá: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho mi hãy chỗi dậy!"  Nó đã sống lại, bắt đầu nói năng, và Chúa đã trao nó cho mẹ nó. Vậy tâm hồn ngài không vui mừng quá độ, khi nghe biết đã đạt được một phần lớn điều, mà hằng ngày ngài than van kêu cầu Chúa cho được: Con chưa đạt tới chân lý, nhưng đã thoát khỏi lầm lạc. Hơn thế nữa, vì ngài chắc chắn là phần còn lại, sẽ được Chúa ban cho, vì Chúa đã hứa ban cho tất cả, nên ngài đã trả lời con, một rất rất bình tĩnh và đầy lòng cậy trông, là ngài tin cậy vào Chúa Kitô rằng: Trước khi từ giã đời này, ngài sẽ thấy con là một tín hữu công giáo. Vâng, ngài đã nói với con như vậy. Nhưng trước mặt Chúa, ôi nguồn mạch tình thương, ngài gia tăng cầu nguyện và khóc lóc, để Chúa mau mắn cứu giúp và soi sáng những tối tăm của con . Ngài sốt sắng chạy đến nhà thờ, và chăm chú nghe thánh Ambrosiô giảng dạy, như đến nguồn mạch có nước chạy vọt tới sự sống muôn đời . Ngài quý mến thánh nhân như vị thiên thần của Chúa . Vì ngài biết thánh nhân đã đưa con tới tình trạng hoang mang do dự này, và ngài tin chắc là con phải qua cơn nguy hiểm ngặt nghèo đó, như một phát chứng, theo lời bác sĩ thường nói, để được khỏi bệnh và trở nên lành mạnh.

 

Monica vâng lời giám mục


II-2   Vậy ngày nọ, theo thói quen thường làm ở Phi châu, mẹ con đưa tới mồ các thánh, nước thịt bụng, bánh mì và rượu, thì bị người canh gác từ chối; nhưng khi biết được lệnh cấm của Đức giám mục, thì ngài sốt sắng vâng lời và chấp nhận, đến nỗi con phải ngạc nhiên thấy ngài tỏ ra dễ dàng lên án thói quen của mình hơn là chỉ trích lệnh cấm của giám mục! Vì sự say sưa không ám ảnh tâm trí ngài và sự thèm rượu không kích thích ngài ghen ghét chân lý, như nhiều đàn ông đàn bà khác, khi nghe bài thánh ca về sự ăn uống tiết độ, thì cảm thấy buồn nôn, như những người say rượu trước ly nước lã vậy. Nhưng khi bà mang cái mủng với các của ăn theo nghi thức tôn giáo, để ăn và chia sẻ, tiếp đãi kẻ khác, thì ngài cũng chỉ dùng một cái ly nhỏ, với thứ tượng đã pha nước, hợp với vị giác rất tiết độ của ngài. Khi có nhiều ngôi mộ phải tôn kính  như vậy, thì ngài cũng chỉ mang theo chiếc ly nhỏ đó, để dùng khắp nơi, với một thứ rượu chẳng những đã pha rất nhiều nước, mà còn rất lạnh nữa. ngài chia sẻ từng ngụm nhỏ với các tín hữu hiện diện: Vì ở đây ngài tìm kiếm lòng đạo đức, hơn là khoái lạc.

Vậy khi ngài đã biết là nhà diễn giảng trứ danh và thầy dạy đàng đạo đức đã cấm không cho làm các việc đó nữa, dù một cách tiết độ cũng vậy, để cất mọi dịp nhậu nhẹt cho những kẻ mê say; lại vì việc ấy giống như lễ giỗ tổ của lương dâm mê tín . Khi được biết lệnh cấm như vậy, ngài rất vui lòng chấm dứt và thay vào một cái mủng đầy hoa quả trái đất, ngài biết mang tới mồ các tử đạo một tấm lòng tràn đầy những của dâng trong sạch hơn: Ngài bố thí cho kẻ khó, theo khả năng của mình và như vậy, tại nơi đó, ngài muốn kính thờ sự phân phát Thánh Thể Chúa, vì muốn bắt chước cuộc khổ nạn của Chúa, mà các thánh tử đạo đã hy sinh và đã được đội triều thiên.

Nhưng con thiết tưởng, lạy Chúa Trời con - và trước mặt Chúa , lòng con quan niệm sự việc như vậy - con thiết tưởng có lẽ mẹ con không dễ gì dứt khoát với thói quen đó, nếu sự cấm đoán đó do một nhân vật nào khác không được ngài quý mến như thánh Ambrosiô đâu! Mẹ con rất quý mến phần rỗi của con; còn người yêu thương mẹ con vì có một đời sống đạo đức, nhiệt thành  trong công việc từ thiện, và năng đi nhà thờ. Thường khi gặp con là người thốt ra lời ca tụng mẹ con và khen con được một người mẹ như vậy; mà người không biết mẹ con được một người con như thế nào nơi con, là kẻ hoài nghi về hết mọi sự đó, và không còn tin rằng: Người ta có thể tìm thấy con đường sự sống .

III-3 Lúc đó, trong khi cầu nguyện, con chưa biết than van để Chúa đến cứu giúp con; nhưng tâm hồn con chăm chỉ sưu tầm và hăng say tranh luận. Con tưởng thánh Ambrosiô là một con người hạnh phúc, trước mặt thế gian, vì được bao nhiêu nhân vật cao cấp tôn kính. Chỉ có đời sống độc thân của người là con tưởng khó khăn thôi. Nhưng về hy vọng người ôm ấp, những cuộc chiến đấu người phải chấp nhận trước những thử thách gắn liền với địa vị cao trọng của người, những niềm yên ủi người nhận được trong nghịch cảnh, những vui mừng thú vị người được nếm khi nhai bánh thánh của Chúa với cái miệng bí ẩn trong lòng người: Về tất cả các sự ấy, con không có ý kiến gì, cũng chẳng có kinh nghiệm nào hết.

Người cũng không biết được những dao động của con và vực thẳm mà con đang liều mình sa xuống. Vì con không thể nào trình bày cho người những điều con muốn và như con muốn: Lũ dân đông đảo vó việc chạy đến xin người giúp đỡ  không cho phép con trình bày và nghe người dạy bảo. Khi người không bận bịu với họ, người dùng chút thời giờ rảnh để bồi dưỡng thân xác với những của ăn cần thiết, hoặc bồi dưỡng tinh thần bằng việc đọc sách.

Khi đọc sách, mắt người rảo qua các trang giấy và tâm trí người tìm ra tư tưởng; còn lưỡi và tiếng nói của người thì nghỉ ngơi. Nhiều lần, khi có mặt con ở đó - vì không cấm ai vào, cũng chẳng phải báo người khi đến - con cũng thấy người đọc sách một cách im lặng như vậy, không bao giờ khác, và con cũng ngồi im lặng một hồi lâu, vì ai dám quấy rầy một con người cầm trí như vậy; rồi con ra về và tưởng rằng: Người được giải thoát khỏi cảnh náo động của công việc tha nhân, chỉ trong giây lát, người sử dụng để bồi bổ tâm hồn, nên người không muốn bị chia trí về việc khác nữa. Có lẽ người tránh việc đọc lớn tiếng, kẻo có thính giả nào chăm chú nghe theo, mà gặp phải đoạn tối nghĩa, thì buộc người phải giải thích, phải tranh luận về những vấn đề khó hơn, và như vậy mất nhiều thời giờ cho việc ấy, mà còn ít thời giờ để đọc sách, như ngài muốn. Lại lý do gìn giữ tiếng nói của ngài, rất dễ bị khàn, cũng là điều chính đáng để đọc thầm. Tuy nhiên, người hành động như vậy với ý tứ nào đi nữa, thì một người như người chỉ hành động vì ý lành mà thôi.

 

Giáo huấn chung của Ambrosiô soi sáng Augustin


4.                Nhưng có điều chắc chắn là con không thể nào bàn hỏi được như con muốn với tâm hồn rất thánh đó, là sứ ngôn của Chúa, chỉ trừ những lúc người để ý đến con, nhưng lại rất vắn vỏi. Con chỉ mong tìm thấy lúc nào người rảnh rang để thổ lộ những dao động thầm kín của con cho người, nhưng không khi nào tìm được. Tuy nhiên, các Chúa nhật, con đến nghe người trung thực phân phát chân lý  cho dân chúng, và càng ngày con càng xác tín được rằng: Người ta có thể giải đáp được tất cả các khúc mắt của kẻ vu khống xảo quyệt, mà bọn lừa dối con đã bịa đặt ra để chống lại Thánh Kinh.

Khi con nhận thấy câu "Con người được tạo dựng giống hình ảnh Chúa"  không được con cái thiêng liêng của Chúa - tức là các kẻ mà Chúa nhờ mẹ Giáo Hội Công giáo tái sinh trong ơn sủng - giải thích như thể họ tin Chúa và quan niệm Chúa như bị giới hạn theo như hình dạng thân xác loài người; mặc dầu con không có quan niệm nào, dù sơ sài mờ mịt, về một bản thể thiêng liêng, nhưng con cũng lấy làm vui mừng và hổ thẹn vì, trong bao năm qua, con đã cắn sủa không phải là chống lại đức tin Công giáo, mà là chống lại những ảo tưởng của trí vẽ xác thịt mà thôi. Thật con đã cả gan và bất kính, vì đã buộc tội về những điều mà con phải học hỏi cho được biết. Còn Chúa, lạy Đấng tối cao và tối cận, rất bí nhiệm và rất hiện tại, Chúa không có chi thể, thứ lớn hơn, thứ bé hơn, nhưng Chúa trọn vẹn ở khắp nơi, mà không một nơi nào giữ trọn vẹn Chúa; hẳn thật, Chúa không phải là hình thể thân xác con người, nhưng Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, và từ đỉnh đầu cho đến bàn chân, con người ở trong một không gian.

IV-5 Vì con không biết con người là hình ảnh Chúa như thế nào, thì đáng lẽ con phải gõ cửa và hỏi han cho biết phải tin làm sao, thay vì táo bạo phản đối như thể người ta đã tin như con nghĩ tưởng. Tâm hồn con càng lo lắng cho biết phải nắm giữ điều gì là chân thật, thì lại càng xấu hổ, vì lâu năm đã để cho người ta lường gạt hứa hẹn chân lý, và đã vì quá ngây thơ trong lầm lạc và đam mê, con đã tuyên bố nhiều điều không thật mà con là thật. Những lời tố bố sai lầm đó, về sau con mới thấy rõ. Có điều chắc chắn là lúc đó con đã cho những điều không thật là thật, khi đưa ra những đối kháng mù quáng chống lại Giáo Hội Chúa. Con chưa được minh chứng là Giáo Hội dạy chân lý, nhưng con biết Giáo Hội không dạy điều mà con kịch liệt tố cáo. Cho nên con hổ thẹn và con hối hận trở lại và con vui mừng, lạy Chúa con, vì Giáo Hội duy nhất là thân thể của Con duy nhất Chúa  - trong đó lúc còn bé, con đã được ghi nhận tên Đức Kitô - Giáo Hội không ưa những chuyện nhảm nhí của trẻ con và trong giáo lý lành mạnh của Giáo Hội, không có điều nào giới hạn Chúa, là Đấng tạo dựng mọi sự, trong một khuyên, dù rất rộng lớn, nhưng bị giới hạn tư bề, theo hình dáng các chi thể của con người.

6.                Con cũng vui mừng vì được chỉ bảo phải đọc các sách Cựu Ước về Lề luật và các Tiên tri, không phải với cái nhìn xưa kia, đã cho con thấy bao nhiêu điều phi lý, đã làm cho con buộc tội các thánh của Chúa về những tư tưởng, mà thực ra các ngài không có. Nhiều lần, con cũng sung sướng được nghe thánh Ambrosiô, trong các bài giảng cho dân chúng, đã kỳ càng căn dặn điều này như một quy luật: "Văn tự giết chết, thần khí mới tác sinh" . Và khi cất bỏ chiếc màn thần bí, ngài cho thấy ý nghĩa thiêng liêng của những đoạn văn, - mà theo văn tự xem ra dạy sự sai lầm - thì các điều ngài dạy, con không thấy có gì là chướng tai cả, mặc dầu lúc đó con chưa biết các điều ngài nói là thật hay không? Con giữ tâm hồn con không cho nó chấp nhận gì hết, vì sợ bị sa chìm, nhưng chính tình trạng lửng lơ đó lại giết con. Vì về những sự con không trông thấy, con cũng muốn được biết chắc chắn như 3 với 3 là 10. Thực ra, con chưa điên đủ để nghĩ rằng: Sự hiểu biết không hoàn toàn đạt tới định lý số học như vậy . Nhưng con muốn biết chắc chắn như vậy về các chân lý khác, hoặc về những sự vật chất ở xa giác quan của con, hoặc về những sự thiêng liêng, mà con chỉ biết hình dung như những vật thể mà thôi.

Chớ gì con có thể được chữa lành nhờ đức tin, để trí khôn con được thanh tẩy hơn, mới có thể, một cách nào đó, hướng về chân lý đời đời và không hề suy giảm của Chúa. Những kẻ đã kinh nghiệm một bác sĩ dở, thường sợ tin cậy vào một bác sĩ lành nghề thế nào, thì linh hồn bệnh hoạn của con, - chỉ có đức tin chữa được - cũng từ chối chạy chữa như vậy, vì sợ lại tin phải sự sai lầm chăng? Nó từ chối Chúa, là Đấng đã chế biến liều thuốc đức tin, đã phân phát cho các bệnh nhân trong thế giới, với một công hiệu phi thường.

V-7   Có điều này làm cho con bắt đầu ưa giáo lý Công giáo hơn giáo thuyết Manès, là con thấy Công giáo có chừng mực và thành thực, khi truyền phải tin điều gì không có minh chứng - hoặc vì minh chứng được -; còn giáo thuyết Manès thì miệt thị đức tin, táo bạo hứa hẹn khoa học, nhưng sau lại bắt người ta phải tin nhiều điều rất giả dối và rất phi lý, vin lẽ là không thể minh chứng được.

Rồi dần dần, với bàn tay rất êm dịu và rất từ bi của Chúa, lạy Chúa, Chúa đã bắt mạch và chữa trị tâm hồn con, làm cho con nhận thấy rằng: Con tin bao nhiêu sự mà con không xem thấy, cũng chẳng được chứng kiến khi chúng xuất hiện, như những biến cố trong lịch sử các dân, những việc xảy ra ở miền này, ở thành thị nọ, mà con không trông thấy; những lời nói của bạn hữu, của bác sĩ, của bao nhiêu người này người nọ: Mà nếu không tin như vậy, thì chúng con không làm được sự gì trong đời sống hiện tại. Sau hết, con đã tin như đinh đóng cột về cha mẹ nào đã sinh ra con? Điều này con đâu có biết được, nếu không tin lời kẻ khác kể cho nghe? Như vậy, Chúa đã cho con nhận thấy là rất đáng khiển trách không phải những kẻ tin vào Thánh Kinh của Chúa - đã được Chúa ban cho một uy thế rất lớn trong hầu hết các dân tộc -  mà là những kẻ không tin; và con không được nghe những kẻ bảo con rằng: "Bởi đâu, ngươi biết các sách này đã được Thần linh của Thiên Chúa độc nhất và chân thật thông ban cho nhân loại?". Vì, chính đó là điều con phải tin. Vả không một cuộc tranh luận, công kích, vu khống nào giữa các triết gia - mà con đã đọc rất nhiều sách của họ - đã có thể thuyết phục được con, dù một ngày, thôi tin có Chúa hiện hữu, mặc dầu con chưa biết Chúa hiện hữu như thế nào; hoặc loại bỏ sự điều khiển công việc loài người khỏi sự quan phòng của Chúa .

8.                Nhưng lòng tin đó của con lúc thì mạnh hơn, lúc thì yếu hơn; tuy nhiên luôn luôn con đã tin Chúa hiện hữu và tin Chúa chăm sóc chúng con, mặc dầu con chưa biết quan niệm về bản thể Chúa làm sao và con đường nào đưa tới Chúa, hay dẫn trở lại với Chúa?

Vì chúng con không thể  tìm được sự thật do trí năng thuần lý, cho nên chúng con cần phải dựa vào uy thế của Thánh Kinh. Và con đã bắt đầu tin rằng: Chúa đã không khi nào ban cho Thánh Kinh một uy thế lớn lao như vậy trong cả thế giới, nếu Chúa không muốn cho người ta nhờ đó mà tin Chúa và nhờ đó mà tìm kiếm Chúa.

Còn những điều phi lý mà trước đây con thường lấy làm chướng trong Kinh Thánh, thì bây giờ, sau khi được nghe những giải thích khả quan về các điều đó, con quy chúng vào ý nghĩa sâu xa của các chân lý huyền diệu. Và con thấy rằng: Uy thế của Thánh Kinh càng đáng được tôn trọng và đáng kính tin hơn, khi nó vừa dễ hiểu cho mọi người muốn đọc, lại vừa dành vinh dự của mầu nhiệm cho những trí tuệ sâu sắc hơn. Với từ ngữ rất rõ ràng, và văn thể rất đơn sơ, Thánh Kinh tự hiến cho mọi người, nhưng lại khích lệ sự cố gắng của những kẻ không phải là "nhẹ dạ" . Cho nên Kinh Thánh đón nhận mọi người ở công trường, nhưng chỉ để cho một thiểu số qua cửa nhỏ hẹp  đi tới Chúa. Tuy nhiên, số ưu tuyển này sẽ còn nhiều hơn nữa, nếu uy thế của Thánh Kinh không trổi vượt đến thế, và nếu không thu hút lũ đông vào lòng khiêm tốn thánh thiện của mình như vậy.
Con suy nghĩ như thế và Chúa ở gần con, con than thở và Chúa nghe lời con, con trôi nổi và Chúa điều khiển con, con đi trên đường thênh thang  trần thế và Chúa không bỏ rơi con.

 

BĂN KHOĂN VỀ DANH VỌNG

 

Ham mê về danh vọng


VI-9 Con rất ham mê danh vọng, lợi lộc, hôn nhân, và Chúa cười con. Trong những ham mê đó, con đã phải chịu nhiều nỗi khó khăn rất cay đắng, và Chúa càng thương con nhiều, thì càng ít để cho con tìm thấy êm dịu nơi những sự gì không phải là Chúa.

Xin hãy nhìn xem tâm hồn con, lạy Chúa, là Đấng đã muốn cho con ôn lại kỷ niệm và xưng tụng Chúa. Chớ gì bây giờ linh hồn con hãy gắn bó với Chúa, vì Chúa đã dứt nó ra khỏi thứ keo sơn quá dai dẳng của sự chết!

 

Một biến cố cho thấy sự hư ảo của danh vọng


Hồn con khốn nạn dường nào! Và Chúa đã chích đúng vào vết thương của nó, để nó từ bỏ mọi sự và trở lại với Chúa - Đấng vượt trên mọi sự  và không có Chúa thì chẳng có sự gì hết - vâng, để nó trở lại và được chữa lành. Vậy lúc đó, con khốn nạn dường nào! Và Chúa đã làm thể nào để giúp con cảm thấy sự khốn nạn của con? Chính là ngày con đang sửa soạn đọc một bài tán tụng Hoàng đế. Bài đó chứa đựng rất nhiều điều giả dối, nhưng sẽ được các thức giả hoan nghênh. Tâm hồn con đang hồi hộp về các lo âu đó và đang sốt ruột về những tư tưởng sẽ tiêu huỷ nó, thì con đi qua một phố tại Milan; trông thấy một người nghèo ăn xin, con chắc anh ta say rượu, đang nhảy nhót và vui cười: Con thở dài và nói với các bạn cùng đi với con về bao nhiêu đau khổ do sự điên dại của chúng con mà ra? Vì với tất cả các cố gắng của chúng con, như con đang thực hiện đây, theo sự thúc đẩy của các đam mê, con kéo lê thê cái gánh bất hạnh của con, mà càng kéo lê nó càng thêm nặng; mà chúng con muốn gì, nếu không phải là để đạt tới một sự an toàn vui vẻ: Điều đó người ăn xin này đã đạt được, mà chúng con có khi chẳng bao giờ đạt tới. Điều người này đã đạt tới, nhờ mấy đồng tiền nhỏ ăn xin được, tức là sự vui vẻ thuộc hạnh phúc trần gian, mà con thì ước ao đạt tới qua những đường vòng quanh ngoắt ngoéo rất cực khổ. Đã hẳn anh ta không có sự vui thật; nhưng phần con, với bao nhiêu ham vọng đó, con tìm một sự vui giả dối hơn nhiều. Mà thật ra, anh ta vui sướng, mà con thì buồn bã; anh ta được an toàn, mà con thì lo sợ. Nếu có ai hỏi con: Thích vui hay thích buồn? Con sẽ thưa: Thích vui. Nếu họ hỏi nữa: Thích hoàn cảnh của người ăn xin hay hoàn cảnh hiện tại của con? Con sẽ chọn hoàn cảnh của con, dù vướng mắc lo âu sợ hãi. Đó là lý luận sai lầm, chứ đâu phải là chân thật? Con không được tưởng mình hơn anh ta, vì thông thái hơn, bởi vì sự thông thái của con không làm cho con vui mừng, mà con nhờ đó để làm đẹp lòng người ta; không phải để giáo dục họ, mà chỉ để làm đẹp lòng họ. Bởi thế, Chúa đã dùng cái gậy kỷ luật mà đánh gẫy xương con!

10.              Vậy hãy tranh xa tâm hồn con những kẻ bảo rằng: "Điều quan trọng là lý do sự vui mừng. Người ăn xin này vui vì sự say sưa, còn ngươi, ngươi hám vui vì danh vọng". Danh vọng nào, lạy Chúa, mà không ở trong Chúa? Vì sự vui ấy không phải là sự vui thật, thì danh vọng này cũng không thật, mà còn làm cho tâm hồn con bối rối. Chính đêm nay, người ăn xin sẽ hết say, còn con, con đã đi ngủ, đã thức dậy với cái say mê của con; rồi con sẽ đi ngủ và sẽ thức dậy với nó nữa, và trong nhiều ngày, Chúa biết rõ! Vâng con công nhận: Điều quan trọng là lý do của sự vui, và sự vui mừng của hy vọng dựa trên đức tin thì xa cách sự vui hư ảo đó, không thể sánh được. Nhưng như vậy, lại có sự khác biệt giữa chúng con: Hẳn thật, người ăn xin có hạnh phúc hơn, không những vì anh ta được tràn trề khoái lạc, đang khi con bị lo âu cắn rứt; mà còn vì anh ta được tiền mua rượu, khi chúc phúc cho tha nhân, còn con tìm kiếm hư danh bằng cách nói dối thiên hạ.

Con đã nói nhiều theo đề tài đó cho các bạn hữu của con, và nhiều lần, trong những dịp như vậy, con xét mình xem thế nào, và con đã thấy con quá tệ và con càng đau khổ, lại càng tệ thêm. Nếu có điều may mắn xảy đến cho con, con cũng chán nản không muốn giơ tay đón nhận, vì chưa kịp nắm lấy, nó đã bay đi rồi!
 
 

Alypius và Augustin


VII-11        Chúng con chỉ than thở giữa bạn hữu cùng chung sống với nhau thôi. Đặc biệt với Alypius và Nebridius, chúng con rất thân mật nói với nhau về các điều ấy. Alypius cùng sinh trong một thị trấn như con, thuộc một gia đình vị vọng : Anh ít tuổi hơn con, nên anh đã theo học con, khi con bắt đầu dạy học tại Tagaste, tỉnh nhà, rồi tại Cartage, và anh yêu con lắm, vì thấy con tốt và thông thái. và con cũng yêu anh, vì anh có một thiên tư rất hướng chiều về đàng nhân đức, vượt quá tuổi trẻ của anh. Tuy nhiên, trào lưu phong tục người Cartage, nhất là sự mê xem các trò chơi hư ảo, đã vùi dập anh trong đam mê về các cuộc cạnh kỹ (xiếc). Nhưng khi anh đang lăn lộn khốn nạn trong thói xấu đó, thì con dạy tu từ ở trường côn: Anh chưa học con, vì có một sự xích mích xảy ra giữa cha anh và con. Con đã biết anh có một đem mê nguy hiểm, là ưa xem xiếc và con rất khổ tâm, vì cho là anh sẽ làm hư mất hoặc đã làm hư mất bao hy vọng tốt đẹp của anh. Nhưng con không có cách nào khuyên bảo anh và dùng biện pháp mạnh kéo anh trở lại đàng chính, hoặc vì tình bạn hữu, hoặc với quyền thầy dạy. Vì lúc đó, con tưởng anh cũng chia sẻ tâm tư của cha anh đối với con. Thật ra anh không thể. Cho nên, anh coi thường ý muốn của cha anh, anh bắt đầu chào con, vào lớp con dạy nghe con ít lâu, rồi bỏ đi.

12.              Nhưng con đã quên ý định làm áp lực với anh, kẻo tính ham mê mù quáng và nguy hiểm về những trò chơi hư ảo sẽ huỷ hoại thiên tư tốt đẹp của anh. Nhưng thật ra, lạy Chúa, chính Chúa điều khiển mọi loài Chúa đã dựng nên, Chúa đã không quên kẻ sẽ làm thừa tác viên về mầu nhiệm của Chúa, giữa các con cái Chúa, và, để việc sửa trị anh được rõ ràng quy về Chúa, Chúa đã dùng con làm việc đó, mà con không hay biết.

Vậy một ngày kia, con đang ngồi giảng bài như thường lệ, có các môn sinh trước mặt con, thì Alypius vào lớp, chào con, ngồi xuống và chăm chỉ nghe những điều con đang giảng giải. Tình cờ hôm đó có một bản văn trong tay, khi giải thích bản văn đó, con thấy nên lấy tỉ dụ các cuộc cạnh kỹ mà giải thích những tư tưởng con muốn nêu ra để thêm ý vị và rõ ràng, với mấy lời châm biếm những kẻ làm nô lệ cho cái đam mê điên dại ấy. Có Chúa biết , lạy Chúa, lúc đó con không nghĩ đến việc chữa Alypius khỏi cái bệnh dịch đó. Nhưng Alypius đã tự nhận xét và tưởng rằng: Con đã nói lời đó cho anh. Một thanh niên khác nhân đó mà tức bực với con, nhưng thanh niên tốt lành này đã nhân đó mà tức bực với mình và đã tỏ ra yêu mến con tha thiết hơn nữa. xưa kia Chúa đã nói và đã ghi chép và sách của Chúa rằng: "Hãy quở mắng người khôn, nó sẽ mến chuộng ngươi" . Nhưng con đã không quở mắng anh, mà Chúa sử dụng mọi người, kẻ biết và người không hay biết, theo trật tự chân chính mà Chúa biết; từ lòng con và lưỡi con, Chúa đã làm nên những cục than hồng  để đốt phần hư hỏng của tâm hồn đầy hy vọng tốt đẹp đó, và để chữa lành. Hãy im ca tụng Chúa, kẻ không nhận biết lòng nhân từ Chúa, từ thâm tâm con xưng tụng Chúa .

Thật vậy, sau khi nghe lời con, anh đã vượt ra khỏi cái hố quá sâu, nơi anh đã tự ý sa chìm và đã lấy làm khoái trá để cho mình ra mù tối; với một sự tiết độ quyết liệt, anh đã tảo thanh tâm hồn, loại bỏ hết mọi nhơ nhớp của cuộc chơi cạnh kỹ và từ đó anh không lui tới nữa. Rồi anh thắng được sự chống đối của cha anh, để nhận con làm thầy dạy. Cha anh đã nhượng bộ và đã ưng thuận. Và anh đã lại bắt đầu theo học với con và cùng với con anh đã bị lôi cuốn vào sự mê tín của bè Manès; anh yêu nơi họ sự khổ hạnh bề ngoài, mà anh tưởng là có thật và đích thực. trái lại đó chỉ là điên cuồng và lừa bịp, mê hoặc các tâm hồn tốt lành, chưa kinh nghiệm sự sâu xa của nhân đức, và dễ bị lừa dối, bởi cái ngoài mặt, của một nhân đức nguỵ tạo và giả hình.

 

Alypius ưa xem giác đấu


VIII-13      Hẳn là vì không quên cái nghề trần tục mà cha mẹ đã nhắc đi nhắc lại cho anh, nên anh đã đi Roma trước con để học luật. Và tại đây anh đã để cho mình bị lôi cuốn cách lạ lùng vào ham mê quái gở là xem trò giác đấu (gladiateurs).

Vì ban đầu anh gớm ghét cái trò đó, thì ngày nọ, có những trò rất dã man và bi thảm, một số bạn hữu và đồng môn, tình cờ đi ăn trưa về gặp anh giữa đường; mặc dầu anh từ chối mãnh liệt và chống cự, họ lấy tình bạn nài ép lôi anh vào đấu trường. Anh bảo họ: "Các anh có thể lôi thân xác tôi vào nơi đó, và đặt nó ngồi chỗ, nhưng các anh có thể bắt tâm hồn và con mắt tôi chăm chú vào các trò chơi đó không? Tôi sẽ tới đó, mà không ở đó, và như vậy, tôi sẽ thắng các anh và thắng cả các trò chơi đó nữa!". Nghe vậy, nhưng chúng cứ đưa thốc anh đi với chúng, có lẽ chúng muốn thử xem anh làm gì được?

Chúng tới đấu trường và tìm chỗ ngồi ở các bậc, giữa lúc các đam mê man rợ nhất đang sôi nổi! Nhưng Alypius nhắm mắt lại, cấm tâm hồn không được tham dự vào các việc xấu xa đó. Chớ gì anh bịt được cả lỗ tai nữa có hay không? Một tên giác đấu bị té, dân chúng kêu la ầm ĩ, làm anh xúc động; tính tò mò thắng thế, và anh cho là mình đã sẵn sàng, mặc dầu xem thấy gì đi nữa, cũng sẽ khinh chê và thắng nó. Anh mở mắt ra và tâm hồn anh bị thương tích nặng nề hơn thân xác của kẻ mà anh muốn xem; và anh sa ngã khốn nạn hơn cái té nhào của kẻ đã làm cho dân chúng kêu la. Tiếng kêu đã đi vào tai anh, đã mở mắt anh, để dễ đánh quỵ tâm hồn anh, cho tới lúc đó, táo bạo hơn là can đảm; nó còn yếu đuối lắm, vì nó cậy vào mình, mà chính ra phải cậy vào Chúa mới phải . Khi anh nhìn máy chảy, thì đồng thời anh cũng uống lất tất cả sự dã man. Thay vì quay đi, anh còn chăm chú xem; anh đã hút lấy cường bạo mà không hay biết; anh khoái trá về cuộc chiến đấu hung tàn và say mê thú vui man rợ. Anh không còn là con người khi mới tới, mà đã trở thành một đơn vị của quần chúng mà anh đã gia nhập, một người bạn đích thực của các kẻ đã đưa anh tới đó. Tắt một lời: Anh đã xem, anh đã kêu, anh đã thích thú, và anh mang theo sự cuồng loạn, hằng kích thích anh, không những trở lại với những kẻ trước đây đã đưa anh tới, mà anh còn đi trước họ, và kéo nhiều người khác theo anh.

Nhưng bàn tay rất mạnh mẽ và rất từ bi của Chúa đã kéo anh ra khỏi vực sâu đó, và đã dạy cho anh biết trông cậy vào Chúa , chứ đừng cậy vào mình. Tuy nhiên, lâu sau việc đó mới xảy ra.

 

Biến cố khác về Alypius


IX-14         Kinh nghiệm đó đã được ghi vào trí nhớ của anh, như một phương dược cho tương lai. Một biến cố khác cũng nhằm mục đích đó. Khi anh còn là sinh viên và đang theo học với con ở Cartage, giữa buổi trưa nọ, anh đang ở trong quốc dân hội trường, để dọn bài tuyên đọc trước công chúng, theo thói nhà trường, để luyện tập sinh viên, thì Chúa đã tha phép cho những người canh hội trường bắt anh như một kẻ trộm. Con tưởng Chúa tha phép như vậy, lạy Chúa, chỉ vì lý do là để cho con người tương lai cao trọng như vậy bắt đầu học cho biết mình cũng là người, đừng dễ nhẹ tin và lên án người khác, trong một việc mà mình cần phải tra xét cẩn thận.

Vậy hôm đó, anh đang bách bộ một mình trước toà án, tay cầm giấy bút, thì có một thanh niên trong bọn sinh viên, một tên ăn trộm thật, mang một cái rìu lén đi vào, mà Alypius không để ý; y đi tới bao lơn bằng chì, bên trên phố hàng bạc; và bắt đầu chặt những chấn song chỉ. Những người hàng bạc ở dưới nghe tiếng động, thì xôn xao với nhau, và cho người lên, gặp ai thì bắt lấy. Tên ăn trộm nghe thấy người ta nói, thì bỏ rìu lại tẩu thoát, vì sợ bị bắt với tang vật. Alypius không thấy người thanh niên đó tới, mà thấy y ra đi rất vội vã, thì tò mò muốn biết lý do. Anh tới nơi đó và thấy cái rìu: Anh đang ngắm nghía nó, thì những người được sai lên đi tới, thấy một mình anh cầm cái rìu, mà tiếng động đã làm cho chúng tới; chúng bắt lấy anh, lôi anh xuống, và tự hào với những người cư ngụ ở xóm hội trường, đang tụ tập lại, là chúng đã bắt được quả tang tên ăn trộm; rồi chúng đem anh đi nộp cho quan án.

15.              Nhưng bài học phải chấm dứt nơi đây. Vì lập tức, lạy Chúa, Chúa đến cứu người vô tội, mà Chúa là nhân chứng duy nhất. Vậy đang khi họ giong anh đi hoặc vào đề lao, hoặc ra pháp trường thì họ gặp ngay ông kiến trúc sư, có trọng trách quản lý các cơ sở kiến trúc công cộng. Họ lấy làm may mắn được gặp ông - là người xưa nay, mỗi khi hội trường mất cái gì, là thường hồ nghi cho họ đánh cắp - để ông biết rõ ai là thủ phạm đích thực?

Nhưng ông này đã nhiều lần gặp Alypius tại nhà một nghị sĩ, mà ông thường tới thăm. Ông nhận ngay ra anh, ông cầm tay kéo anh ra khỏi đám đông và hỏi lý do về việc thảm hại đó. Khi nghe biết đầu đuôi công việc, ông truyền cho mọi người có mặt đó và đang ồn áo thốt ra những lời đe doạ, hãy đi theo ông, và tới nhà người thanh niên đã làm việc đó. Trước cửa nhà có một trẻ nô lệ; nó quả nhỏ bé, chưa biết sợ việc gì sẽ xảy ra cho chủ nó, nên nó có thể tiết lộ mọi sự. Vì nó cũng đã theo chủ nó tới hội trường. Alypius đã nhận ra nó và đã bảo cho kiến trúc sư biết. Ông giơ cái rìu ra cho nó xem và hỏi: Cái này là của ai? Nó liền thưa: "Của chúng tôi". Được hỏi tiếp, nó đã thú tất cả.

Như vậy, tội trạng đổ trên nhà đó, và dân chúng thì mắc cỡ vì đã tưởng thắng Alypius. Người phân phát lời Chúa trong tương lai và sẽ xét xử bao vụ kiện, đã thoát khỏi vụ này tới một kinh nghiệm dồi dào, một sự từng trải sâu rộng hơn.

 

Lòng vô tư của Alypius


X-16          Vậy con đã gặp anh ở Roma và anh gắn bó với con bằng mối tình rất mạnh mẽ. Anh còn theo con đi Milan, để khỏi phải lìa con và để lợi dụng luật khoa đã học, theo ước nguyện của cha mẹ anh hơn là của anh. Đã ba lần anh làm bồi thẩm, mà sự thanh liêm của anh đã làm cho các bạn đồng nghiệp bỡ ngỡ, không bằng anh bỡ ngỡ thấy họ quý vàng bạc hơn sự thanh liêm. Người ta đã thử thách tính nết anh, không những bằng sự quyến rũ của tham vọng, mà còn bằng sự kích thích của sợ hãi.

Trong lúc anh làm bồi thẩm cho quan tổng giám đốc tài chính nước Ý tại Roma, thì có một nghị sĩ rất thế lực; nhiều người đã bị ông mua chuộc bằng ơn huệ, hoặc bị khuất phục bằng đe doạ. Ông muốn tự ý làm, con không biết, điều gì bất hợp pháp, theo thói những người quyền thế như ông; Alypius đã phản đối. Người ta hứa thưởng anh, anh cười nhạt; người ta đưa lời đe doạ, anh khinh thường, làm cho mọi người đều cảm phục cái khí lực hiếm có như anh: Không ước ao tình nghĩa, cũng chẳng sợ thù hằn của con người quyền thế như vậy, đã nổi tiếng là có trăm ngàn phương tiện để giúp đỡ, hoặc để hại nhân. Chính quan án mà anh là cố vấn, cũng không muốn nhượng bộ nghị sĩ, nhưng không từ chối rõ ràng, nhưng quy trách nhiệm cho anh, vin cớ là anh không để cho ông làm, và, điều đó có thực, nếu ông làm, thì anh sẽ từ chức.

Chỉ còn một điều may ra quyến rũ được anh, là nại đến ham  mê văn học, để anh có thể dùng ngoại bổng của quan án mà lo sắm sách vở cho mình. Nhưng anh đã căn cứ vào sự công bình, mà đi tới một kết luận tốt đẹp nhất, là quyết định làm theo như công bình cấm đoán, hơn là như quyền hành cho phép. Đó là một việc nhỏ mọn, nhưng "kẻ nào trung thành trong như sự nhỏ mọn, cũng sẽ trung thành trong những sự lớn lao". Và điều bởi miệng chân lý của Chúa phán ra không phải là vô nghĩa: "Nếu về của ngoại lai, các ngươi đã thất tín, thì điều riêng của các ngươi, ai dám ban cho các ngươi" .

Đó là người bạn liên kết chặt chẽ với con, và cũng như con, anh đang băn khoăn tự hỏi: Phải theo cuộc sống nào?

 

Nebridius chia sẻ sự băn khoăn của Alypius và Augustin


17               Nebridius cũng bỏ quê quán gần Cartage và cả Cartage, là nơi anh năng lui tới. Anh đã bỏ gia sản giàu có của cha anh, đã bỏ nhà cửa và bà mẹ, không theo anh. Anh đến Milan không vì lý do nào khác là được sống với con trong việc say mê tìm kiếm chân lý và sự khôn ngoan. Hăng say tìm kiếm cuộc đời hạnh phúc và sắc sảo cứu xét những vấn đề rất nan giải, anh cũng than thở như con và cũng băn khoăn như con. Chúng con là ba cái miệng đói khát, thổ lộ cho nhau sự thiếu thốn của mình và chờ đợi nơi Chúa của ăn mà Chúa sẽ ban cho đúng lúc . Trong mọi nỗi đắng cay mà lòng nhân từ Chúa cho theo sát các công việc trần gian của chúng con, mỗi khi chúng con muốn biết tại sao phải khổ như vậy, thì chỉ thấy tối tăm! Chúng con phải làm thinh và than thở với nhau rằng: "Cho đến bao giờ mới hết khổ?". Chúng con năng nói điều ấy, nhưng dù nói vậy, chúng con không từ bỏ nếp sống của mình, vì chúng con chưa thấy gì là chắc chắn, để bỏ nó đi mà ôm lấy cái mới.

XI-18         Phần con, khi suy nghĩ và hồi tưởng, con hết sức bỡ ngỡ về thời gian đã quá dài, từ năm 19 tuổi, con đã bắt đầu khao khát sự khôn ngoan và đã nhất quyết: Khi tìm được nó, thì sẽ từ bỏ hết mọi sự đam mê hư ảo với các hy vọng hão huyền và các điên dại giả dối của chúng . Lúc này con đã 30 tuổi đầu, mà vốn chần chừ trong đám bùn nhơ, ham hưởng những sự hiện tại chóng qua và phân tán tâm hồn con, đang khi con bảo mình rằng: "Ngày mai ta sẽ tìm thấy, chân lý sẽ xuất hiện, ta sẽ nắm lấy; ông Faustus sẽ tới và sẽ giải thích mọi sự. Ôi, những vĩ nhân của Hàn lâm viện! Chúng ta không thể nắm được một cái gì chắc chắn, khả dĩ điều khiển cuộc đời hay sao? Không đâu! Chúng ta hãy tìm kỹ lưỡng hơn và đừng thất vọng. Có những điều trong sách của Giáo Hội, mà trước đây tôi cho là phi lý, thì bây giờ không còn là phi lý nữa, có thể được cắt nghĩa cách khác và rất chính đáng. Tôi muốn đứng vững trong nơi cha mẹ đã đặt tôi, khi tôi còn nhỏ, cho tới lúc chân lý xuất hiện rõ ràng cho tôi. Nhưng tìm chân lý ở đâu? Khi nào tìm nó? Ambrosiô không có thời giờ rảnh; tôi cũng không có thời giờ để đọc sách. Tôi tìm các sách đó ở đâu? Bởi đâu và khi nào tôi kiếm được các sách đó? Tôi mượn các sách đó của ai? Chúng ta hãy phân định thời gian, hãy dành giờ giấc để lo việc phần rỗi linh hồn mình. Một hy vọng lớn đã xuất hiện: Đức tin Công giáo không dạy như tôi đã nghĩ tưởng và tôi đã chỉ trích liều.

"Nhưng kẻ hiểu biết thì cho là một trọng tội dám tưởng rằng Thiên Chúa bị giới hạn theo hình dáng một thân thể con người. Và tôi đã ngần ngại không dám gõ cửa  để các chân lý khác được mở ra cho tôi. Các giờ ban sáng của tôi dành cho sinh viên; các giờ còn lại, tôi làm gì? Sao không dùng thời giờ đó mà nghiên cứu? Nhưng khi nào tôi đi thăm được các bạn hữu có địa vị, mà tôi cần đến thế giá của họ? Khi nào tôi dọn được món hàng để bán cho sinh viên? Khi nào tôi bồi bổ được sức khoẻ, bằng cách giải toả tinh thần khỏi mọi lo nghĩ?

19               "Nhưng không! Hãy tiêu diệt tất cả các sự đó, hãy xua đuổi các hư ảo giả trá đó đi! Hãy tập trung mọi nỗ lực vào việc tìm kiếm chân lý. Đời sống đau khổ, cái chết vô định, nó xảy đến bất ngờ: Tôi sẽ ra khỏi đời này trong tình trạng nào? Và sẽ học hỏi ở đâu điều mà tôi xao lãng ở đời này? Hay đúng hơn, há chẳng phải là tôi sẽ bị phạt dần về sự xao lãng đó hay sao? Nếu chính cái chết sẽ cắt đứt và chấm dứt mọi lo nghĩ, cùng với cảm thức, thì sao? Vậy phải nghiên cứu cả điều đó nữa.

"Nhưng không phải thế! Không phải là hư ảo và vô lý mà thế giá siêu việt của đức tin Kitô giáo được phổ biến khắp hoàn cầu. Thiên Chúa sẽ không hề ban cho chúng ta những sự cao đẹp như vậy, nếu cái chết thân xác kéo theo sự huỷ diệt của linh hồn. Tại sao ta còn chần chừ chưa từ bỏ các hy vọng trần gian, để tận hiến vào việc tìm kiếm Thiên Chúa vì cuộc đời hạnh phúc?

"Nhưng hãy ý tứ: Các của cải trần gian cũng thú vị lắm, chúng có sự êm dịu không nhỏ của chúng. Tôi không nên dễ dàng cắt đứt hướng chiều về chúng, kẻo sau này sẽ phải tủi hổ mà trở lại với chúng. Tôi sắp xin được một địa vị vinh dự. Tôi còn ao ước gì hơn nữa, trong việc này? Tôi có khá nhiều bạn hữu thế giá. Nếu tôi không quá vội vã về một địa vị nào khác, thì ít ra tôi cũng xin được một ghế chủ tịch . Tôi sẽ phải kết bạn, với người vợ có của một chút, để khỏi quá nặng cho ngân sách của chúng tôi. Ham vọng của tôi chỉ đến thế. Nhiều nhân vật vĩ đại rất đáng cho ta bắt chước, dù trong bậc vợ chồng, cũng vốn chuyên cần học hỏi sự khôn ngoan...".

20               Đang khi con nói với mình như vậy, thì tâm hồn con, tuỳ theo chiều gió thay đổi, bị đẩy đi bên này bên nọ, và con chậm trở lại với Chúa, và, từ ngày này qua ngày nọ, con khất lần sống trong Chúa , nhưng con không khất lần chết đi trong con hằng ngày: Con thích đời sống hạnh phúc, mà lại sợ nó ở chính nơi có nó; con tìm nó, đang khi trốn chạy nó. Con tưởng rằng: Con sẽ rất khốn khổ, nếu không được âu yếm một người phụ nữ. Mà con không nghĩ đến liều thuốc của lòng từ bi Chúa, để chữa khỏi sự yếu đuối của con, vì con chưa hề được kinh nghiệm. Con tưởng rằng: Sự trinh khiết tuỳ thuộc ở sức riêng con người, và con cảm thấy con không có sức đó. Vì con quá ngu, không biết rằng: Theo lời Kinh Thánh, thì chẳng ai có thể sống trinh khiết, nếu không được Chúa ban ơn ấy cho. Nhất định là Chúa sẽ ban ơn ấy cho con, nếu từ đáy lòng con than thở đến tai Chúa, và nếu với một đức tin vững mạnh, con phó thác mọi lo lắng của con cho Chúa.

 

Vấn đề hôn nhân


XII-21        Thật ra Alypius cản trở con kết bạn: Anh nhắc đi nhắc lại rằng: Nếu con kết bạn, thì chúng con không thể nào sống chung với nhau, như đã ao ước từ lâu, một cuộc đời an toàn yên tĩnh, trong tình yêu mến sự khôn ngoan. Chính anh ấy lúc ấy rất trinh khiết trong vấn đề này, đến nỗi con phải ngạc nhiên, vì những năm đầu tuổi xuân, anh đã có kinh nghiệm về ái tình. Nhưng anh đã không ham mê, mà còn phàn nàn và khinh chê nữa, và từ đó anh sống một cuộc đời hoàn toàn trinh khiết.

Nhưng để phán đối anh, con đã đưa ra những tấm gương của những người có đôi bạn, mà vốn chuyên cần sự khôn ngoan, lập công lành trước mặt Chúa, và trung thành mến yêu bạn hữu. Con cách xa những tâm hồn quảng đại đó, và vì nô lệ tính mê xác thịt, con kéo lê cái xiềng của con với một sự êm dịu giết người: Con chỉ sợ nó bị tháo gỡ và con xua đuổi những lời khuyên bảo tốt lành, cũng như bàn tay muốn tháo gỡ xiềng đó, như sợ đụng tới một vết thương.

Hơn nữa, nhờ con mà con rắn  cũng đã nói với chính anh Alypius, và đã trói buộc anh; lại nhờ miệng lưỡi con, nó đã gieo trên đường đi của anh những cái bẫy nhẹ nhàng, để bàn chân thanh nhã và tự do của anh mắc phải.

22               Alypius bỡ ngỡ thấy con là người anh quý chuộng không ít, mà lại vướng mặc vào cạm bẫy nhục dục, đến nỗi, trong khi chúng con tranh luận với nhau về vấn đề này, con đã quả quyết là con không thể nào sống độc thân! Vì khi thấy anh ngạc nhiên, con chữa mình rằng: Có sự khác biệt lớn giữa các khoái lạc mà anh thụ hưởng cách vội vã và trộm vụng - mà hầu như anh không còn nhớ nữa và vì không phiền rầy gì, anh dễ khinh chê chúng - và những khoái lạc theo thói quen của con, giả như được mang danh hiệu hôn nhân chân chính, thì hẳn là anh không còn bỡ ngỡ tại sao con không thể khinh chê nếp sống như vậy! Chính anh cũng bắt đầu ước ao cuộc hôn nhân, nhưng không phải vì áp lực của nhục dục như con mô tả, mà vì tính tò mò. Anh nói là anh muốn biết cái đó là gì, mà không có nó thì đời sống của con, mà anh ưa thích, lại không được coi là một đời sống, đối với con, mà là một hình khổ? Vậy khi còn ở ngoài xiềng xích, tâm hồn anh bỡ ngỡ về đời sống nô lệ của con; sự bỡ ngỡ làm cho anh muốn thí nghiệm, anh sẽ đi tới chính cuộc thí nghiệm và do đó có khi anh sẽ rơi vào cuộc nô lệ đã làm cho anh bỡ ngỡ, vì anh đã muốn giao ước với tử thần  và kẻ nào ưa nguy hiểm sẽ bị sa vào đó .

Nhưng cả hai chúng con đều coi nhẹ cái vinh dự của hôn nhân, là nhiệm vụ điều khiển đời sống lứa đôi và giáo dục con cái. Vì phần lớn, điều thúc bách con mạnh mẽ, là cái thói quen thoả mãn một dục vọng không thoả mãn được, nó nô lệ con và làm khổ con; còn anh ấy, thì sự bỡ ngỡ cũng sẽ đưa tới cuộc nô lệ đó.

Chúng con là thế đó, cho tới khi Chúa, lạy Đấng tối cao, Đấng không bỏ rơi nắm đất sét là chúng con, Chúa tỏ lòng thương xót cứu vớt những kẻ khốn cùng là chúng con, qua những đường lối lạ lùng và bí ẩn.

 

Mưu thuật của Monica


XIII-23      Người ta hằng thúc giục con kết bạn. Con đã cầu hôn và hai bên đã ước hôn. Trong việc này mẹ con hành động mạnh nhất, hầu sau khi kết bạn con được chịu phép thánh tẩy cứu độ. Ngài vui mừng thấy con mỗi ngày một xứng đáng với nhiệm tích đó, và trong đức tin của con, ngài nhìn nhận là ước nguyện của ngài và lời hứa của Chúa đã được thực hiện.

Thật vậy, theo lời con xin và theo ước nguyện của mẹ con, hằng ngày ngài khẩn khoản kêu xin Chúa dùng một thị kiến tỏ cho ngài biết một chút về cuộc hôn phối tương lai của con, nhưng Chúa đã không hề ưng thuận. Ngài đã nhìn thấy những hình ảnh hư ảo và kỳ quái, như khi tâm thần người ta yên trí quá về việc gì, thì thường phát xuất những hiện tượng như vậy. Người kể cho con nghe, nhưng ngài không tin tưởng như thường lệ, khi Chúa mạc khải cho ngài, ngài còn khinh thường các hình ảnh đó nữa. Ngài bảo là ngài nhận thấy - con không biết do một cảm thức nào, mà lời nói không thể tả được - một sự khác biệt giữa các mạc khải do Chúa mà đến, và các mơ mộng của tâm hồn ngài.

Tuy nhiên, người ta thúc giục kết hôn, và chị thanh nữ đã được cầu hôn; nhưng còn thiếu hai năm mới tới tuổi kết bạn. Vì chị vừa ý con, nên chỉ còn chờ đợi.

 

Kế hoạch sống chung


XIV-24      Chúng con là một số bạn hữu đã suy nghĩ nhiều, đã thảo luận với nhau, và, vì cùng chán ghét những xôn xao phiền  nhiễu của đời sống nhân loại, đã tạm đi tới quyết định là xa lánh quần chúng, để sống cuộc đời yên tĩnh. Cuộc đời đó được tổ chức như sau: Những của chúng con có sẽ đặt làm của chung, và gia sản của mọi người sẽ nhập thành một. Như vậy, nhờ tình bạn chân thành, không còn có của này thuộc về người này, của kia thuộc về người kia nữa, mà của cải mọi người chỉ là một và tất cả thuộc về từng người và thuộc về mọi người. Chúng con nghĩ có chừng 10 người có thể sống thành hội như vậy. Trong chúng con có nhiều người rất giàu, nhất là Romanius, là đồng hương của chúng con và là bạn chí thân của con từ nhỏ. Vì công việc làm ăn rất khó khăn đã đưa anh tới thủ đô. Anh rất hăng hái thúc giục thi hành kế hoạch đó, và các lời của anh rất có thế giá, vì anh có nhiều tài sản hơn các người khác.

Chúng con quyết định mỗi năm, có hai người đứng ra, như quan chức, lo liệu mọi sự cần thiết, còn các người khác được nghỉ ngơi. Nhưng sau cùng chúng con bàn hỏi với nhau cho biết: Các bà vợ có chấp nhận kế hoạch đó không? - Vì trong chúng con có người đã kết bạn, người khác cũng đang muốn lập gia đình - tức thì tất cả dự định đó, đã được chúng con xếp đặt tinh vi, thoát khỏi tầm tay của chúng con, rơi vỡ tan tành và bị vứt bỏ!

Chúng con lại quay về thở ngắn thở dài với nhau, rồi lại bước đi trên những con đường thênh thang nhẵn nhụi của thế gian . Vì trong đầu óc chúng con xoay xở trăm kế ngàn phương, còn mưu cơ của Chúa thì tồn tại muôn đời . Từ mưu cơ đó, Chúa cười chê dự tính của chúng con, và Chúa chuẩn bị dự tính của Chúa, chờ lúc thuận tiện, Chúa sẽ ban của ăn cho chúng con và Chúa sẽ mở tay ra, đổ tràn ơn phúc vào tâm hồn chúng con

 

Nô lệ cho nhục dục


XV-25       Trong lúc đó, con lại gia tăng tội lỗi . Người ta đã cất khỏi con người phụ nữ mà con đã quen chung sống, vì cho đó là một cản trở cho cuộc hôn nhân đã dự định, thì con tim của con, đã gắn bó với chị, bị một thương tích, máu me lâu dài. Chị đã để lại cho con đứa trẻ chị đã sinh ra, là concủa con, và chị đã trở về Phi châu, thề hứa với Chúa là chị sẽ không biết đến một người nam nào nữa.

Nhưng con là đứa khốn nạn, không bắt chước nổi một phụ nữ, con không thể chờ đợi được hai năm để đón nhận người nữ con đã cầu hôn, vì con không yêu chuộng hôn nhân, nhưng làm nô lệ cho nhục dục. Con lại kiếm một phụ nữ khác, nhưng không phải để làm vợ, và như để nuôi dưỡng và kéo dài cái bệnh của linh hồn con, hoặc trong tình tr5ng y nguyên, hoặc cho nó thêm nặng, dưới sự áp chế của thói quen, cho đến khi người vợ của con tới. Nhưng vết thương của con đã lở, do sự mất người phụ nữ trước, không được chữa lành, và sau những cơn đau đớn lên tới cực độ, nó đã mưng mủ; và thương tích tuy bớt nhức, nhưng lại thất vọng hơn.

 

Tìm kiếm hão huyền


XVI-26      Ngợi khen Chúa, vinh danh Chúa, là nguồn mạch từ bi! Lúc đó, con càng khốn nạn, thì Chúa lại càng gần con. Bàn tay Chúa ở bên con, và sắp kéo con ra khỏi bùn lầy , và thanh tẩy con, mà con không hay biết. Chỉ có điều này đã ngăn trở con không sa chìm sâu hơn nữa trong vực thẳm, là sợ sự chết và sự phán xét sau này của Chúa. Các tư tưởng của con thay đổi luôn, nhưng điều đó không hề bao giờ ra khỏi lòng con.

Cùng với các bạn hữu Alypius và Nebridius, con tranh luận về sự tối thiện và tối ác, và từ đáy lòng, con định tặng triều thiên cho Epicure, nếu con không tin linh hồn bất tử và sự thưởng phạt đời sau: Hai điều đó Epicure không muốn tin. Con đã đặt vấn đề như sau: Nếu chúng ta bất tử và sống trong nhục dục vĩnh viễn, không sợ mất chút nào, thì sao chúng ta lại không có hạnh phúc? Chúng ta còn phải tìm cái gì khác nữa? Con không biết điều chứng tỏ sự khốn nạn lớn lao của con chính là vì chìm đắm và mù quáng, con không còn có thể quan niệm được nhân đức, và sự mỹ hảo, phải được yêu quý một cách vô tư; sự mỹ hảo đó, không thể nhìn thấy được bằng con mắt xác thịt, mà chỉ thấy được từ đáy tâm hồn. Khốn cho con, không nhận biết từ nguồn mạch nào đưa đến cho con sự khoái lạc được chuyện trò với bạn hữu, dù về những sự xấu xa đi nữa. Và nếu không có bạn hữu, thì con không thể có hạnh phúc, mặc dầu về phương diện  nhục dục, lúc đó, con bị chìm ngập và đầy ý mọi thú vui xác thịt. Thật vậy, con yêu các bạn hữu một cách vô tư, và con cảm thấy cũng được họ yêu lại như vậy.

Ôi, đường lối khúc khuỷu thay! Khốn cho linh hồn táo bạo  lìa xa Chúa, mà lại hy vọng tìm được sự gì tốt lành hơn! Nó tha hồ trằn trọc: Nằm ngửa, nằm nghiêng, nằm sấp, đàng nào cũng chỉ là cứng rắn, có một mình Chúa là yên nghỉ cho nó mà thôi. Và, này Chúa đến, và Chúa cứu chúng con khỏi mọi lầm lạc tai hại và đặt chúng con trên đường lối Chúa , và yên ủi chúng con với những lời: "Hãy tiến lên, chính Ta nâng đỡ các ngươi, chính Ta đưa các ngươi tới cùng, và ở đó chính Ta nâng đỡ các người" .
 
****************

 

QUYỂN BẢY: NHỮNG VÔ THỨC VỀ SIÊU HÌNH

 

Khó bỏ được quan niệm sai lầm về Thiên Chúa


I-1              Cái tuổi thanh xuân xấu xa và gian ác của con đã chết và con đang sống trong tuổi trưởng thành, nhưng càng thêm tuổi, con càng tủi hổ về sự vô trí (siêu hình) của con, vì con không thể quan niệm được một bản thể nào ngoài bản thể mà con mắt thường xem thấy được. từ khi bắt đầu được nghe giáo huấn khôn ngoan, con không còn quan niệm Chúa, lạy Chúa, dưới hình dạng một thân xác loài người, con vốn tránh sự sai lầm đó và con lấy làm mừng là đã tìm được sự đó trong đức tin của mẹ thiêng liêng chúng con là Giáo Hội Công giáo. Nhưng quan niệm về Chúa một cách nào khác, thì con chưa biết. Là con người, và là một người thế nào, con cố quan niệm về Chúa như một Đấng tối cao, Đấng độc nhất, Chúa chân thật1; và con hết lòng tin Chúa là Đấng bất diệt, bất khả xúc phạm, bất biến. Dù con không biết tại sao, và thế nào, con cũng nhìn thấy rõ ràng và chắc chắn là vật gì có thể bị huỷ diệt, thì kém hơn vật bất diệt; và không chút nghi nan con đặt vật bất khả xâm phạm lên trước vật có thể bị xâm phạm; và vật bất biến thì tốt hơn vật có thể biến đổi.

Tâm hồn con cực lực phản đối mọi ảo tưởng của con, và con cố gắng dứt khoát xua đuổi khỏi trí khôn con tất cả bộ hình ảnh nhơ bẩn hằng quanh quẩn bên con. Nhưng vừa bị xua đuổi, chúng lại tụ tập trong nháy mắt2 và đâm nào vào mắt con làm cho nó ra mù quáng, đến nỗi, dù con đã loại bỏ quan niệm về Chúa dưới hình dáng thân thể loài người, nhưng con cũng bị bó buộc phải quan niệm Chúa như cái gì có hình thể, chiếm cứ một không gian, hoặc ở trong thế giới, hoặc tràn ra ngoài thế giới, trong vô tận; cũng như quan niệm Chúa là Đấng bất diệt, bất khả xâm phạm và bất biến, mà con coi là cao trọng hơn những gì có thể bị huỷ diệt, bị xúc phạm và biến đổi; vì đối với con, vật nào không có không gian là hư vô, - một hư vô tuyệt đối, chứ không phải chỉ là một chỗ trống, cũng ví như khi lấy một vật nào ra khỏi nơi chốn của nó, thì nơi chốn đó vốn còn, chỉ thiếu vật đó mà thôi, dù là địa vật, thuỷ vật, khí vật, hay thiên vật, nhưng đó là nơi chốn trống rỗng, là một hư vô có không gian.

2                 Vậy mà tâm hồn con đã ra u mê3 không còn biết nhìn thấy rõ chính mình nơi mình con nữa: Tất cả những gì không có một diện tích, hoặc dài, hoặc rộng, hoặc sâu, hoặc cao, hoặc không chấp nhận một chiều kích nào như vậy, thì con cho là hư vô tuyệt đối. Vì mắt con quen xem những mô thể nào, thì lòng trí con cũng tạo ra những hình ảnh tương đối, mà con không thấy rằng: Hoạt động của trí khôn trong việc làm nên các hình ảnh đó không thuộc cùng loại với chúng: Vì cho được làm nên chúng thì phải hơn chúng.

Chúa cũng vậy, lạy Chúa, là sự sống của sự sống con, con đã quan niệm Chúa lớn lao bao la khắp cả không gian vô tận, thâm nhập toàn khối vũ trụ, và ngoài khối đó, khắp cả không gian mênh mông vô tận, đến nỗi trái đất có Chúa, bầu trời có Chúa, mọi sự có Chúa, và tất cả được giới hạn trong Chúa, còn Chúa thì không có giới hạn nào. Nhưng như bầu khí ở trên trái đất này, không ngăn trở ánh sáng mặt trời chiếu qua nó, thâm nhập nó mà không cắt xé nó, nhưng tràn ngập nó hoàn toàn, thì con cũng tưởng Chúa xuyên qua khối bầu trời, không khí, biển cả và trái đất nữa, và Chúa thâm nhập vào từng phần của chúng, từ lớn nhất đến nhỏ nhất, để chúng có sự hiện diện của Chúa, do thần khí bí ẩn Chúa điều khiển bề trong bề ngoài mọi sự Chúa đã dựng nên. Lúc đó con tưởng như vậy, vì bất lực không tưởng nghĩ được cách nào khác. Nhưng đó là sai lầm! Vì như vậy, là phần lớn hơn của trái đất chứa đựng được Chúa nhiều hơn, và phần nhỏ hơn chứa đựng được Chúa ít hơn; và thế là hết mọi sự chứa đầy Chúa, đến nỗi xác con voi chứa nhiều Chúa hơn xác con chim sẻ, vì nó to hơn và chiếm chỗ lớn hơn. Và như vậy, Chúa chia vụn sự hiện diện của Chúa thành từng phần cho vũ trụ: Phần lớn cho phần lớn, phần nhỏ cho phần nhỏ. Nhưng đâu có phải vậy? Vì lúc đó Chúa chưa soi sáng cảnh tối tăm của con4.

II-3   Lạy Chúa, để chống lại những kẻ bị lừa và lừa bịp5, bị câm mà lại lẻo mép (vì Ngôi Lời của Chúa đâu có nói qua miệng chúng), con chỉ cần khắc lại bác luận mà từ lâu, khi con ở Cartage, Nebridius đã đưa ra cho chúng và đã làm cho chúng con, là thính giả, phải nao núng: Nó sẽ làm gì được Chúa, con không biết cái loài tối tăm nào mà bè Manès quen nêu ra như thù địch của Chúa, nếu Chúa từ chối giao chiến với nó? Nếu họ trả lời rằng: Nó sẽ làm hại được Chúa, cách nào đó, thì Chúa không còn là bất khả xâm phạm, bất diện nữa6. Nếu họ bảo là: Nó không thể làm hại Chúa, thì không còn lý do chiến đấu nữa, nhất là chiến đấu trong một điều kiện là một phần mình của Chúa, một chi thể của Chúa hay một mầm mống của bản thể Chúa, hoà mình vào các lực lượng thù địch và không do Chúa tạo dựng, và bị chủng hủ hoá và làm cho ra xấu hơn, đến nỗi từ hạnh phúc rơi xuống bất hạnh và cần sự giúp đỡ để có thể được giải thoát và thanh tẩy. Và đó là linh hồn, mà Ngôi Lời của Chúa đến cứu vớt, Người là Đấng tự do khỏi mọi nô lệ của nó, là Đấng thanh sạch khỏi mọi ô nhiễm của nó, là Đấng tinh tuyền khỏi mọi hủ bại của nó, nhưng chính Người vốn có thể bị hủ hoá, vì được hình thành bởi cùng một bản thể. Như vậy, nếu bè Manès thú nhận là tất cả cái gì là Chúa, nghĩa là bản thể làm cho Chúa là Chúa, là bất diệt, thì tất các điều họ nói trên đây là sai lầm và đáng ghét. Nếu họ bảo là Chúa có thể bị huỷ diệt, thì chính điều đó là sai lầm từ ban đầu và đáng gớm ghét!

Phải, bác luận đó đủ sức để chông lại những kẻ mà ta phải mửa ra khỏi lồng ngực, bị chúng đè nén, vì suy nghĩ và nói năng về Chúa như vậy, chúng chỉ có những tư tưởng và lời nói phạm thánh mà thôi.

 

Sự dữ bởi đâu mà ra? Con người có trách nhiệm không?


III-4 Nhưng phần con, lúc đó, mặc dầu con tuyên bố: Chúa là Đấng không thể bị ô nhiễm hay thay đổi, hay biến chuyển chút nào, và con tin chắc chắn rằng: Chúa là Chúa chúng con, là Thiên Chúa chân thật, đã tạo dựng không những các linh hồn chúng con, mà , những các hồn xác chúng con, mà hết mọi loài và mọi vật nữa. tuy nhiên, về nguyên nhân sự dữ thì con chưa được giải thích rõ ràng. Nhưng nguyên nhân đó là thế nào đi nữa, con thấy phải nghiên cứu làm sao, để con khỏi bị bó buộc tin Chúa là Đấng bất biến, lại hay biến đổi, kẻo con lại trở thành đề tài mà con đang nghiên cứu7. Cho nên con an tâm nghiên cứu vấn đề và con chắc chắn là sai lầm, giáo thuyết của những kẻ mà con phải hết lòng xa lánh. Vì trong khi chúng nghiên cứu về nguyên nhân sự dữ, con thấy chúng tràn trề sự dữ8 đến nỗi chúng thà tìm bản thể của Chúa là nạn nhân của sự dữ, hơn là bản thể của chúng có thể gây nên sự dữ!

5                 Con cố gắng tìm hiểu giáo huấn con đã được nghe về sự tự do lựa chọn của ý muốn là nguyên nhân sự dữ chúng con phạm, và lý đoán công thẳng của Chúa là nguyên nhân sự dữ chúng con phải chịu9. Nhưng con không thể hiểu được rõ ràng. Như vậy, con cố gắng đưa mắt trí khôn nhìn lên khỏi vực sâu, thì con lại bị chìm xuống và nhiều lần con đã cố gắng thì cũng nhiều lần bị chìm xuống như vậy.
Điều hướng con về ánh sáng của Chúa là vì con biết mình có ý muốn và có sự sống. Cho nên khi con muốn hay không muốn sự gì, thì con hoàn toàn biết chắc là chính con chứ không phải ai khác đã muốn hay đã không muốn; chính đó là điều mỗi ngày con nhìn thấy rõ là nguyên nhân tội lỗi của con. Còn việc con bị ép buộc phải làm, thì con cảm thấy là con bị thụ động hơn là tác động, và con không coi đó là tội lỗi mà là hình phạt, và liên tưởng ngay đến đức công thẳng của Chúa, con thú nhận là Chúa đã không phạt con cách bất công.

Nhưng con lại tự bảo mình: "Ai đã dựng nên tôi? Há không phải là Thiên Chúa của tôi, Đấng không những tốt lành, mà còn là chính sự tốt lành, hay sao? Vậy bởi đâu mà tôi lại muốn sự dữ và không muốn sự lành? Có phải để nên cớ mà chịu phạt cách công thẳng hay sao? Ai đã đặt sự đó, ai đã gieo trong tôi mầm cay đắng đó10, vì toàn thể con người tôi đã được tạo dựng bởi Thiên Chúa rất dịu hiền của tôi, kia mà? Hay là ma quỷ đã dựng nên tôi? Thì chính nó bởi đâu mà có? Nếu chính nó, do ý muốn xấu đã từ thần lành trở nên thần dữ, thì bởi đâu mà có ý muốn xấu xa như vậy trong nó, để nó hoá thành ma quỷ, khi mà toàn bản thể thiên thần được Đấng tạo hoá tốt lành tạo dựng kia mà?". Những tư tưởng đó lại làm cho con ra bối rối và nghẹn ngào, nhưng không đến nỗi sa chìm xuống vực thẳm sai lầm, nơi không còn ai ngợi khen Chúa nữa11, một khi mà người ta coi Chúa là nạn nhân sự dữ, hơn là nhìn nhận con người là kẻ gây nên sự dữ.

IV-6 Như vậy con đã cố tìm ra các chân lý khác, như con đã tìm thấy là vật bất biến tốt hơn vật có thể bị tiêu diệt, và như vậy dù Chúa là thế nào đi nữa, thì con cũng phải tuyên xưng Chúa là Đấng bất khuyển huỷ diệt. Thật vậy, không bao giờ linh hồn nào đã có thể hay sẽ có thể tưởng tượng được một nào tốt hơn Chúa, là sự thiện hảo tối hậu, tốt nhất. Vì, một cách rất chân thật và rất xác đáng, người ta cho vật bất diệt hơn vật khả diệt, như con đã nhìn nhận, nên, nếu Chúa không phải là bất diệt, thì con có thể, dùng tưởng tượng, tìm ra được một vật tốt hơn Chúa của con. Cho nên, ở đâu con thấy rằng phải đặt vật bất diệt trước vật khả diệt, thì ở đó con phải tìm kiếm Chúa, và nhận ra đâu là nguyên nhân sự dữ, tức là nguyên nhân chính sự hư hoại; nó không thể xúc phạm đến bản thể của Chúa. Thật vậy, sự hư hoại không có cách nào phạm đến Chúa chúng con, không phải do ý muốn, không phải do nhu cầu, không phải do may rủi bất ngờ nào, vì chính Người là Thiên Chúa và vì điều gì Người muốn là tốt lành, và chính Người là sự tốt lành: Mà bị hư hoại không phải là một sự tốt lành. Chúa cũng không bị ép buộc làm việc gì, vì ý muốn của Chúa không hơn quyền năng của Chúa. Nó sẽ hơn, nếu chính Chúa lại hơn Chúa: Vì ý muốn và quyền năng của Chúa là chính Chúa. Và có gì là bất ngờ đối với Chúa, là Đấng biết mọi sự? Có vật nào hiện hữu là vì Chúa biết nó. Mà cần chi nhiều lời cho được biết lý do sự bất hoại của bản thể Thiên Chúa? Vì nếu nó có thể hư hoại, thì nó không phải là Thiên Chúa.

V-7   Con tìm hiểu nguyên nhân sự xấu, và con đã xấu tìm, nên không thấy sự xấu trong cuộc tìm kiếm của con12. Vậy con đặt ra trước mắt trí khôn con và toàn thể tạo vật: Tất cả những gì con nhìn thấy được trong đó, như trái đất, biển cả, khí trời, tinh tú, cây cối, loài vậy hay chết; và tất cả những gì trong đó mà con không nhìn thấy được, như bầu trời cao thẳm, các thiên thần, thế giới thần linh, nhưng trí vẽ của con xếp đặt các bản thể thiêng liêng đó vào nơi này, chốn nọ, như thể chúng là các vật thể vậy; con biến tạo vật của Chúa thành một khối lớn lao duy nhất, trong đó con phân biệt các loại vật thể khác nhau, hoặc chúng thực sự là vật thể, hoặc chúng là linh thể, nhưng chính trí vẽ con đã biến chúng ra vật thể hết. Con cho khối tạo vật đó là lớn lao - không phải nó là thế, vì con không biết được, mà con tự ý cho nó là thế - nhưng bị giới hạn tư bề. Còn Chúa, lạy Chúa, Chúa bao bọc nó và thâm nhập nó khắp nơi, nhưng Chúa vốn vô giới hạn về mọi mặt. Con ví Chúa như một biển cả, khắp nơi và tư bề chỉ là một biển duy nhất, tràn lan trong mênh mông vô tận, cầm giữ một tấm bông biển ở giữa. Tấm bông này dù lớn lao đến đâu đi nữa, cũng bị giới hạn tư bề và bị nước biển mênh mông thấm nhiễm khắp mọi thành phần13.

Con quan niệm tạo vật hữu hạn của Chúa được tràn ngập Chúa vô hạn như vậy và con nói: "Đó là Thiên Chúa và đó là tạo vật của Người; và Thiên Chúa tốt lành và trổi vượt chúng rất nhiều và rất xa; tuy nhiên, vì là Đấng tốt lành, Người tạo dựng những sự tốt lành, và này Người bao bọc và tràn ngập chúng như thế nào? Vậy sự dữ ở đâu và bởi đâu và qua đâu mà len lỏi tới đây? Gốc rễ và mầm mống của nó là gì? Hay là không có sự dữ chút nào? Thì tại sao phải sợ và tránh cái gì không có? Hay là ta sợ một cách vô lý, thì hẳn là chính sự sợ hãi đó là một sự dữ, nó quấy nhiễu và làm khổ tâm hồn ta một cách vô ích; nó lại là một sự dữ lớn lao vì không có lý do đáng sợ, mà ta lại sợ. Như vậy, hoặc là có một sự dữ mà ta sợ, hoặc là chính vì ta sợ mà có sự dữ. Vậy nguyên nhân sự dữ bởi đâu? Vì Thiên Chúa tốt lành đã tạo dựng các vật tốt lành này? Đã hẳn, Đấng tốt lành tối hậu và tuyệt đối đã dựng nên những sự tốt lành không bằng Người, tuy nhiên Đấng tạo hoá và các tạo vật đều tốt lành cả. Sự dữ bởi đâu mà đến? Hay là vật chất, mà Chúa dùng để tạo nên chúng, là chất xấu, và khi hình thành nó và sắp xếp nó, Chúa còn để lại trong nó một cái gì mà Chúa chưa biến đổi ra tốt chăng? Mà tại sao vậy? Vì là Đấng toàn năng, há Chúa không thể biến đổi toàn thể vật liệu đó, để không còn có cái gì xấu nữa hay sao? Sau hết, sao Chúa lại dùng vật liệu ấy để làm nên sự vật, mà không dùng quyền toàn năng của mình mà huỷ diệt nó đi hoàn toàn, có hơn không? Hay là nó có thể hiện hữu trái ý muốn của Chúa? Hay là nếu vật chất đã hiện hữu từ trước vô cùng, thì sao Chúa lại để cho nó hiện hữu trong quá khứ hằng hà sa số như vậy, rồi bao lâu sau mới quyết định dùng nó để làm nên mọi sự? Hay là đột nhiên Chúa mới muốn hành động như vậy, thì, vì là Đấng toàn năng, sao Chúa không làm cho vật chất đó biến mất, để chỉ còn lại một mình Chúa, là Thiện hảo hoàn toàn chân thật, tuyệt đối và vô cùng tận, có hơn không? Hay là vì Đấng tốt lành thì chỉ nên tạo lập những sự tốt lành, thì sao Chúa không bãi bỏ và huỷ diệt vật chất là vật xấu xa, và chính Chúa thiết lập vật chất tốt lành, để dùng nó mà tạo dựng mọi sự? Vì Chúa sẽ không là toàn năng, nếu không có thể thiết lập được sự gì tốt mà không nhờ vào vật chất, mà chính Người không tạo dựng".

Đó là những tư tưởng quanh quẩn trong tâm hồn khốn nạn, nặng trĩu những lo âu cực khổ, vì sợ chết và vì không tìm được chân lý; tuy nhiên đức tin vào Đức Kitô, Chúa chúng con và Đấng cứu chuộc chúng con14, theo như Giáo Hội tuyên xưng, đã đâm rễ chắc chắn trong tâm hồn con; một đức tin tuy còn yếu kém về nhiều điểm và phiêu lưu ngoài đường lối giáo điều15 nhưng tâm hồn con không rời bỏ đức tin đó, mà trái lại mỗi ngày một được thấm thía hơn.

 

Được giải thoát khỏi thuật chiêm tinh


VI-8 Con cũng đã bác bỏ mọi lời tiên báo giả dối và mọi chuyện tầm phào của các nhà chiêm tinh16. Về việc này, từ đáy tâm hồn, con muốn xưng tụng lòng nhân từ của Chúa, lạy Chúa! Vì Chúa, chỉ một mình Chúa - vì nào có ai khác đã cứu chúng con khỏi cái chết lầm lạc, nếu không phải là sự sống không thể chết, và sự khôn ngoan, hằng soi sáng các tâm hồn cần được soi sáng, mà tại không cần một ánh sáng nào, và hằng điều khiển thế giới, cho đến cả những lá cây lung lay trước gió? - Vâng, Chúa đã chữa sự cứng lòng của con, đã làm cho con chống lại ông già tinh anh Vindicianus và Nebridius, người thanh niên có tâm hồn kỳ diệu. Cả hai cùng quả quyết, người thứ nhất một cách mạnh mẽ, người thứ hai với chút nghi ngờ, nhưng cũng nhấn mạnh, rằng: Không có kỹ thuật tiên báo tương lai, những dự đoán của người ta thường được sự may rủi giúp vào, và vì nói nhiều, người ta nói được nhiều cái trúng, mà kẻ nói không hay biết, một là gặp may khi nói. Vậy Chúa đã cung cấp cho con một người bạn, anh năng hỏi han các nhà chiêm tinh, tuy anh không thông thạo khoa học của họ, nhưng như con đã nói, anh hay hỏi họ vì tò mò, và anh cũng biết được một câu chuyện mà cha anh đã kể cho anh nghe, câu chuyện đó có khả năng huỷ diệt tất cả uy tín của nghề chiêm tinh, mà anh không hay biết.

Vậy người ấy tên là Firminus, anh có một nền giáo dục tự do và được huấn luyện về khoa hùng biện. Anh quý mến con lắm và ngày nọ anh đến hỏi ý kiến con về những công việc sẽ thoả mãn hy vọng trần gian của anh: Nghĩa là con nghĩ thế nào về tướng tinh của anh?17 Phần con, về việc này, con đã bắt đầu nghiêng theo ý kiến của Nebridius, nhưng con cũng không từ chối dự đoán và nói cho anh điều con nghĩ, tuy còn rất mơ hồ; nhưng con thêm rằng: Con hầu như xác tín là các việc như vậy thật là kỳ cục và hão huyền. Lúc đó anh kể cho con nghe là cho anh rất ham mê các sách về chiêm tinh, ông lại có một người bạn cũng tìm tòi các sách đó như ông và đồng thời với ông. Tâm hồn sốt sắng, cả hai cùng ao ước và say mê các việc nhảm nhí đó, đến nỗi nếu có những con vật câm sinh nở trong gia đình, các ông cũng ghi chép thời giờ chúng sinh  nở và ghi chép các vị tinh tú lúc đó, như để thu lượm kinh nghiệm cho nghệ thuật của mình.

Vậy anh nới đã được nghe cha kể, là khi mẹ anh cưu mang anh, thì người nữ tỳ của ông bạn của cha anh cũng bắt đầu có thai. Điều đó không giấu được ông chủ, là người rất chăm chú tìm hiểu rõ ràng từng lứa đẻ của các con chó nhà ông. Vậy công việc xảy ra là khi hai người đang ghi chép rất cẩn thận về ngày, về giờ, về từng giây phút trong giờ, người này về bạn mình, người kia về nữ tỳ của mình, thì cả hai bà cùng lâm bồn một lúc. Cho nên các ngài bị bó buộc phải thiết lập một tướng tinh giống hệt cho cả hai con trẻ, người này cho con mình, người kia cho tôi tớ mình. Vì khi hai phụ nữ bắt đầu sinh nở, thì hai ông thông báo cho nhau những gì xảy ra ở nhà mình; các ông đã chuẩn bị sẵn những người để sai đến cho  nhau và cho nhau biết ngay khi con trẻ chào đời. Việc thông tin tức khắc như vậy là điều dễ đối với các ông, vì các ông làm chủ trong gia đình mình.

Firminus còn thêm rằng: Sự gặp gỡ giữa các phái viên của bên này bên nọ được thực hiện ở độ đường cách hai nhà bằng nhau, đến nỗi không bên nào có thể ghi nhận một sự khác biệt nào về vị trí các tinh tú hay về giây phút thời giờ. Thế mà Firminus, nhờ địa vị cao sang của gia đình, anh tiến bước trên những con đường sáng sủa, thêm giàu sang, thêm vinh dự! Còn người tôi tớ kia, vốn khòm lưng dưới ách của thân phận nô lệ, tiếp tục hầu hạ chủ mình, theo chính lời nói của người đã biết rõ y.

9                 Vậy sau khi đã nghe chuyện đó và đã tin - vì tư cách của người kể chuyện - thì tất cả sự chống đối của con xưa kia bị lung lay và nhượng bộ. Và trước hết con đã cố làm cho Firminus từ bỏ cái tính tò mò đó, khi bảo anh rằng: "Khi nghiên cứu tinh tướng của anh, để nói sự thật, thì con cũng phải nhìn thấy trong đó địa vị cao sang của cha mẹ anh giữa dân chúng, gia đình quý phái của những trong đô thị, sự sinh trưởng của anh trong tự do, nền giáo dục ưu tuyển và nền học vấn chu đáo của những nữa. Trái lại, nếu người tôi tớ cùng sinh dưới một tinh tướng - vì cũng dưới những chòm sao như anh - có đến hỏi con, thì, cho được nói sự thật, con cũng phải nhìn thấy trong tinh tướng của y một gia đình hèn hạ, một địa vị nô lệ và tất cả những hoàn cảnh khác rất xa cách với hoàn cảnh của anh. Bởi đó cho nên, nhìn vào cùng một dấu hiệu, mà phải nói những lời khác nhau, nếu muốn nói cho trúng. Và nếu trả lời nhau là nói sai. Do đó phải kết luận một cách rất xác đáng rằng: Các tiên báo đúng, do chiêm tinh mà ra, không tuỳ thuộc ở kỹ thuật, mà tuỳ thuộc ở may rủi. Còn những tiên báo sai không tuỳ thuộc ở kỹ thuật vụng về, mà ở may rủi giả trá.

10               Con đường tự do đã mở ra cho con từ nay. Con đang suy tính chuyện đó xem lỡ có ai trong bọn điên rồ chuyên sống nghề đó - mà con đang muốn tấn công, chế giễu và bác bẻ - đề kháng với con rằng: Có lẽ Firminus đã kể cho con hoặc cha anh đã kể cho anh câu chuyện không có? Nên con để ý đến nố những trẻ sinh đôi; phần nhiều chúng lọt lòng mẹ kế tiếp nhau mau chóng, đến nỗi cái khoảng cách vắn vở đó - dù họ chủ trương là có một tầm quan trọng trong thực tế đi nữa - thoát khỏi sự quan sát của loài người và cũng không thể nào được ghi nhận bằng những tín hiệu, để nhà chiêm tinh cứu xét mà tuyên bố kết quả xác thực. Mà làm gì có xác thực? Vì chính ra khi quan sát những tín hiệu như nhau, thì nhà chiêm tinh phải tuyên bố một số phận hệt nhau cho Esau và Jacob; nhưng hai ông này đã có số phận khác hẳn nhau. Cho nên: Hoặc nhà chiêm tinh sẽ nói sai; hoặc, có nói đúng, thì sẽ không nói như nhau, khi dựa vào một quan sát như nhau. Như vậy, ông có nói đúng thì không do kỹ thuật, nhưng do may rủi mà thôi.

Vì chính Chúa, lạy Chúa, là chủ tể rất chính xác của vũ trụ, do một sự linh ứng bí nhiệm đến nỗi kẻ hỏi18 và người được hỏi cũng không hay biết, xin Chúa hành động làm sao cho kẻ hỏi được nghe điều họ cần được nghe, nhờ công nghiệp bí ẩn của các linh hồn, từ vực thẳm công minh của Chúa19. Và đừng có ai nói với Chúa rằng: "Cái gì vậy?", "Cái này để làm gì?"20 Họ đừng nói thế, họ đừng nói thế, vì họ chỉ là người.

 

Augustin còn bị ám ảnh về nguyên nhân sự dữ


VII-11        Như vậy, lạy Chúa, là Đấng che chở con21, Chúa đã giải thoát con khỏi các xiềng xích đó. Nhưng con còn tìm cho biết nguyên nhân sự dữ và con chưa có lối thoát. Tuy nhiên, Chúa không để cho các sóng cồn của tư tưởng đẩy con ra khỏi đức tin, đã làm cho con tin có Chúa, tin bản thể Chúa bất dịch, Chúa chăm sóc và phán xét nhân loại và, trong Đức Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con, và trong Kinh Thánh được Giáo Hội bảo đảm, Chúa đã thiết lập con đường cứu rỗi nhân loại, đưa họ tới sự sống, sẽ có sau cái chết đời này.

Các chân lý đó được duy trì và được củng cố chắc chắn trong tâm hồn con rồi, con còn nóng lòng tìm hiểu sự dữ bởi đâu mà có? Tâm hồn con như đau đẻ, khổ cực dường nào, than thở làm sao, lạy Chúa! Tai Chúa nghe thấy cả, mà con không hay biết. Và khi, trong im lặng, con hăng hái tìm tòi, thì cũng có những tiếng kêu gào đến lòng nhân từ Chúa, đó là những khổ não âm thầm của tâm trí con. Con khổ sở như thế nào, Chúa biết, mà không một người nào biết được. Thật vậy, con nói được gì vào tai các bạn chí thiết của con? Họ có cảm thông được tất cả những nỗi huyên náo của linh hồn con không? Con cũng chẳng có thời giờ và lời nói để bộc lộ cho họ22. Nhưng tất cả những tiếng rống lên rên rỉ từ con tim của con đều thấu tai Chúa, và ước vọng của con ở trước mặt Chúa, và mắt con cũng hết sáng cho con23. Ánh sáng ở trong con, mà con thì ở ngoài con. Ánh sáng không có nơi chốn, mà con thì chăm chú vào những sự vật được chứa đựng trong nơi chốn, và con không tìm được ở đó nơi nào để nghỉ ngơi; mà chúng cũng chẳng đón nhận con, để con có thể nói được rằng: "Đủ rồi, tốt lắm!". Chúng cũng chẳng để cho con trở lại nơi mà con cho là khá tốt. Vì con vượt trên các sự vật ấy, nhưng con ở dưới Chúa và Chúa là sự vui thật của con, khi con quy phục Chúa; và Chúa, bắt quy phục con các sự vật Chúa đã dựng nên hèn hạ hơn con. Đó là luật thăng bằng, là con đường trung dung cho phần rỗi của con, để con vốn là hình ảnh Chúa; và đang khi phục vụ Chúa, con cai trị thân xác con. Nhưng khi, vì kiêu ngạo, con chống lại Chúa và xông tới Chúa đàng sau một chiến thuẫn dày đặc24, nên các sự vật hèn hạ hơn con vượt lên trên con và hành hạ con, và con không tìm đâu được yên nghỉ để xả hơi. Khi con nhìn xem, thì từ khắp nơi, chúng đổ xô đến con, lộn xộn và lũ lượt; khi con suy nghĩ, thì những hình ảnh các vật thể đó chặn đường con đi và như bảo con rằng: "Đi đâu, đồ hèn hạ và nhơ bẩn?". Tất cả các sự đó đều từ vết thương của con mà phát xuất, vì Chúa hạ đứa kiêu ngạo như một kẻ bị thương25; sự khoe khoang của con, đã làm con xa Chúa, và cái mặt sưng phù của con che lấp mắt con.

VIII-12      Nhưng lạy Chúa muôn đời bền vững26 và Chúa không giận chúng con hoài27, vì Chúa đã thương nắm đất sét và tro bụi của con, và Chúa đã vui lòng sửa lại hình dạng xấu xa của con trước nhan thánh Chúa28. Do những kích thích bề trong, Chúa đã thúc bách con, để con không được yên nghỉ, cho đến khi, do một cái nhìn nội tại, con được biết chắc chắn về Chúa. Nhờ bàn tay cứu chữa bí mật của Chúa, mụn sưng phù của con đã dẹp bớt; nhờ thứ nhãn dược là những đau khổ cứu độ, con mắt vẩn đục và lờ mờ của tâm hồn con được khỏi dần.

 

AUGUSTIN VÀ THUYẾT TÂN PLATON

 

Đọc sách về Tân Platon dịch sang La ngữ


IX-13         Vì muốn bắt đầu tỏ cho con biết Chúa chống cự kẻ kiêu ngạo và ban ơn cho kẻ khiêm nhường29 và do lòng nhân từ lớn lao dường nào, Chúa đã tỏ cho nhân loại thấy con đường khiêm nhượng, vì Ngôi Lời của Chúa đã nhập thể và đã ở giữa con người30, cho nên Chúa đã dùng một người đầy lòng kiêu ngạo quá cỡ, cung cấp cho con một ít sách của phái Platon, đã được dịch sang La ngữ.

 

Điều có và điều không có trong các sách đó


Trong các sách đó con đã đọc, không phải là nguyên văn, mà ý nghĩa giống nhau, dựa trên nhiều lý do xác nhận, con đã đọc là "Từ khởi nguyên đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Ngài đã có ngay từ lúc khởi nguyên nơi Thiên Chúa. Mọi vật đều nhờ Ngài mà thành sự, và không Ngài thì không gì thành sự được. Điều đã thành sự nơi Ngài là sự sáng, và sự sáng là sự sống cho nhân loại; và sự sáng soi trong tối tăm và tối tăm không huỷ diệt được sự sáng"31. (Con đọc thấy) linh hồn nhân loại dù làm chứng được về sự sáng, nhưng nó không phải là sự sáng, mà Ngôi Lời, là Thiên Chúa thật, mới là sự sáng thật, soi cho mọi người đến trong thế gian này. Ngài đã đến trong thế gian này, thế gian do Ngài tác tạo, mà thế gian không nhận biết Ngài. Còn điều này: Ngài đã đến nhà mình, mà gia nhân đã không đón nhận Ngài. Nhưng hết mọi kẻ đã đón nhận Ngài, thì Ngài đã ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa, ấy là cho những kẻ tin vào danh Ngài: Điều này con đã không đọc thấy trong các sách đó32.

14               Con cũng đọc ở đó rằng: Ngôi Lời Thiên Chúa không sinh ra bởi xác thịt, hay bởi máu me, hay bởi ý muốn người nam, hay bởi nhục dục, mà bởi Thiên Chúa. Còn câu "Ngôi Lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta"33 thì con không đọc thấy.

Thực ra, con đã tìm thấy trong các sách đó, dưới những hình thức khác nhau, và với những kiểu nói riêng biệt, là Chúa Con, dù là thân phận Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa, vì chính Ngài là thế theo bản tính. Còn những điều: "Ngài đã tự huỷ diệt, chấp nhận thân phận tôi đòi, trở nên giống người ta, có dung mạo như một người. Ngài đã tự hạ, trở thành vâng phục cho đến chết, và là cái chết thập giá. Bởi vậy, Thiên Chúa đã siêu thăng Ngài từ trong kẻ chết và đã ban cho Ngài một danh hiệu, hầu trước danh hiệu Giêsu, mọi gối ở trên trời, ở dưới đất và ở trong âm phủ, đều phải quỳ lại, và mọi miệng lưỡi đều phải tuyên xưng Giêsu là Chúa trong vinh quang Thiên Chúa Cha"34. Điều đó các sách này không nói.

Thật ra, trước mọi thời gian và bên kia mọi thời gian, Con duy nhất của Chúa vốn hiện hữu một cách bất dịch, cũng vĩnh cửu như Chúa và các linh hồn nhận lãnh từ sự sung mãn của Ngài, để được hạnh phúc. Và phải được canh tân nhờ sự tham dự vào sự khôn ngoan hằng cửu của Ngài, để được khôn: Điều này con đọc được ở các sách đó. Còn điều: "Theo đúng kỳ hẹn, Ngài đã chịu chết vì kẻ tội lỗi; và Chúa đã không miễn xá Con duy nhất của mình, nhưng đã phó nộp Ngài cho hết thảy chúng con". Các điều này con không đọc thấy ở đó. Vì Chúa đã giấu các sự ấy không cho những người thông thái biết, nhưng đã mạc khải cho những kẻ bé nhỏ, để những kẻ khó nọc và gánh nặng đến với Ngài và Ngài bổ dưỡng cho. Vì Ngài có lòng hiền từ và khiêm nhượng, Ngài dẫn kẻ hiền từ trên đường công chính, và dạy các kẻ nhân hậu đường lối của Ngài. Ngài nhìn thấy sự khiêm nhường của chúng con và sự đau khổ của chúng con. Còn những kẻ ngạo nghễ trên đôi ủng35 của một giáo thuyết siêu thăng, thì không nghe được Ngài phán dạy: "Hãy học cùng Ta vì Ta có lòng hiền từ và khiêm nhượng". Mặc dầu họ biết Thiên Chúa, họ lại không tôn vinh Người như Thiên Chúa, hay không cảm tạ Người. Nhưng họ đã ra hư luống trong các suy tưởng của họ, và lòng ngu muội của họ đã ra tối tăm; trong khi họ khoe mình khôn ngoan, thì họ đã ra điên dại36.

15               Vì thế, con cũng còn đọc thấy trong các sách đó, là vinh quang bất dịch của bản thể bất diệt của Chúa "bị cải trang" trong mọi thứ ngẫu tượng và tà thần, giống hình tượng loài người hư nát và bao cầm thú cùng rắn rết37. Hẳn đó là món ăn Ai Cập38 đã làm cho Esau mất quyền trưởng nam, vì dân đầu lòng của Chúa đã thờ đầu một súc vật thay vì Chúa, lòng hướng về Ai Cập, phủ phục linh hồn mình, là hình ảnh Chúa, trước hình tượng một con bò đang gặm cỏ39.

Con đã tìm thấy điều này trong các sách đó, nhưng con đã không thèm ăn. Vì lạy Chúa, Chúa đã vui lòng cất cái tủi nhục đàn em khỏi Giacob để cho anh trưởng phục tùng em thứ40. Chúa đã kêu gọi lương dân vào gia nghiệp Chúa. Con cũng từ lương dân trở về với Chúa và con để ý đến vàng mà Chúa đã muốn cho dân Chúa cất lấy khỏi Ai Cập41 vì bất cứ vàng đó ở đâu, nó đều thuộc về Chúa. Lại Chúa đã dùng tông đồ Chúa mà nói cho người Atênê rằng: Chính trong Chúa mà chúng con sống, chúng con động, chúng con hiện hữu42, theo như một thi sĩ của họ đã nói. Dĩ nhiên, từ đó mà có các sách này43. Nhưng con không để ý đến các ngẫu tượng của người Ai Cập: Họ sử dụng vàng của Chúa mà thờ lạy các ngẫu tượng đó; họ là những kẻ trao đổi sự thật của Chúa với sự dối trá; họ khâm sùng thờ lạy tạo vật thay vì Đấng tạo hoá44.
 
 

Các sách đó đã soi sáng Auguin


X-16          Như vậy là con được khuyến cáo phải hồi tâm nghĩ lại, và con đã đi vào đáy lòng mình, nhờ có Chúa chỉ dẫn, và con đã có thể làm được việc đó, vì có Chúa giúp đỡ con45. Con đã đi vào lòng con và với con mắt vẩn đục của linh hồn con, con đã nhìn thấy bên trên mắt của linh hồn con, bên trên trí khôn con, một ánh sáng bất biến. Không phải thứ ánh sáng thường mà con mắt xác thịt trông thấy được, cũng không phải thứ ánh sáng cùng loại đó mà mạnh hơn, với một quang tuyến chói lọi hơn, bao phủ mọi sự trong ánh sáng của mình. Ánh sáng đó không phải thế, khác hẳn, khác hẳn mọi thứ đó. Ánh sáng đó cũng không phải ở trên trí khôn con, như dầu ở trên mặt nước, như bầu trời ở trên trái đất, nhưng ánh sáng đó ở bên trên con, vì đã dựng nên con; con ở dưới ánh sáng đó, vì ánh sáng đó đã làm nên con. Kẻ nào biết chân lý là biết ánh sáng đó, và kẻ nào biết ánh sáng đó là biết sự vĩnh cửu. Bác ái nhận chân được ánh sáng đó.

Ôi, chân lý vĩnh cửu! Ôi, bác ái chân thật! Ôi, vĩnh cửu mến yêu! Chúa là Chúa Trời con, ngày đêm46 con khao khát Chúa. Khi con thoạt biến Chúa, Chúa đã nâng con lên với Chúa, để xem thấy cái gì phải xem, nhưng con chưa thể xem thấy được. Chúa chiếu soi quá mạnh vào con, làm chói mắt hèn kém của con và làm cho con rùng mình vì yêu mến và kinh sợ: vì con thấy mình xa cách Chúa, trong một miền khác lạ, ở đó như con nghe thấy tiếng Chúa từ trên cao phán bảo: "Ta là của ăn cho người lớn, hãy lớn lên và ngươi sẽ ăn Ta. Nhưng ngươi sẽ không đồng hoá Ta với ngươi, như của ăn xác thịt nguyên; mà ngươi sẽ đồng hoá với Ta".

Con đã biết rằng: Chúa sửa trị con người vì tội lỗi của nó, và Chúa đã làm khô héo linh hồn con, như một cái màng nhện, và con đã nói: "Chân lý là hư vô hay sao, vì nó không chiếm chỗ trong không gian hữu hạn hay vô hạn?". Và từ xa, Chúa la lên: "Chính Ta đây là Đấng Tự hữu"47.con đã nghe thấy tiếng đó như người ta nghe trong lòng mình, và con không còn lý do để nghi ngờ gì nữa; trái lại con dễ nghi ngờ về đời sống của con, hơn là về sự hiện hữu của một chân lý, đã được trí khôn nhận thấy qua các tạo vật48.

XI-17         Con đã nhìn kỹ vào các sự khác ở dưới Chúa, và con đã nhận thấy là chúng không phải là hữu thể thuần tuý, cũng chẳng phải là phi hữu thuần tuý: Chúng là hữu thể vì chúng bởi Chúa mà ra, chúng là phi hữu vì chúng không hiện hữu như Chúa. Vì Chúa mới là hữu thể thật, vì tồn tại một cách bất biến. Phần con, hạnh phúc là được ở gần Chúa49, vì nếu con không ở với Chúa, thì con cũng chẳng có thể ở với con. Nhưng Chúa ở trong con, thì Chúa sẽ canh tân mọi sự; và Chúa là Chúa con, vì Chúa không cần gì của cải con50.

XII-18        Con thấy rõ là những của tốt lành thì hay hư hoại; nếu chúng tốt lành tuyệt đối, thì không thể hư hoại được, và nếu chúng không tốt chút nào, thì cũng không hư hoại được; vì nếu tốt lành tuyệt đối, thì là bất hoại; nếu không tốt chút nào, thì không có gì để mà bị hư hoại. Thật vậy, hư hoại là điều có hại, nếu nó không làm cho sự vật ra kém tốt lành, thì nó không hại. Cho nên, hoặc hư hoại không làm hại - đó là điều không thể có -; hoặc - và đây là điều rất thật - hết mọi sự vật bị hư hoại là mất sự tốt lành của mình. Nếu nó mất hết mọi sự tốt lành của mình, thì nó hoàn toàn không hiện hữu nữa. nhưng nếu nó còn hiện hữu và không bị hư hoại được nữa, thì nó trở nên tốt lành hơn trước, và nó sẽ tồn tại một cách bát hoại. Nhưng còn gì kỳ quái hơn là chủ trương rằng: Sự vật đã mất hết mọi sự tốt lành của mình, mà lại trở nên tốt hơn trước? Cho nên nếu sự vật đã mất hết sự tốt lành, thì cũng hoàn toàn phi hữu (là hư vô); và bao lâu nó còn hiện hữu, thì còn tốt lành. Vậy tất cả những gì hiện hữu là tốt lành; còn sự dữ, mà con đang tìm hiểu nguyên nhân, thì không phải là một thực thể, vì nếu là một thực thể, thì là tốt lành. Thật vậy, hoặc là một thực thể bất hoại thì đó là một sự tốt lành lớn lao, hoặc là một thực thể hư hoại được, thì nó là tốt lành, vì có tốt lành mới có thể hư hoại được.

Như vậy, con nhìn thấy rõ ràng rằng: Chúa đã tạo dựng mọi sự tốt lành; hơn nữa, không có thực thể nào mà Chúa không dựng nên. Và vì Chúa không dựng nên hết mọi sự vật bằng nhau, cho nên mọi sự vật, tốt lành trong riêng rẽ, và tốt lành trong toàn thể. Vì Thiên Chúa chúng con đã làm mọi sự tốt lành quá đỗi51.

XIII-19      Đối với Chúa, sự dữ hoàn toàn không có, chẳng những đối với Chúa, mà đối với toàn thể tạo vật của Chúa nữa. Vì ngoài tạo vật không còn có cái gì có thể len lỏi vào và quấy phá trật tự Chúa đã thiết lập cho nó. Tuy nhiên giữa các thành phần riêng rẽ của tạo vật, có những yếu tố này không thích hợp với những yếu tố nọ, làm cho người ta tưởng chúng xấu. Nhưng chính các yếu tố đó thích hợp với các yếu tố khác, thì lại thấy là tốt lành, và tự chúng đã là tốt lành. Và những yếu tố này không thích hợp với nhau, thì lại thích hợp với phần hạ của vũ trụ, mà chúng con gọi là trái đất, trái đất có mây và gió, đó là điều thích hợp với nó. Con phải kiêng không được nói rằng: "Chớ gì không có những sự vật đó", vì dù khi nhìn thấy chúng, con ước ao chúng tốt lành hơn, nhưng chỉ nguyên về chúng, con cũng phải tán tụng Chúa rồi, vì mọi sự vật đều tỏ cho biết phải tán tụng Chúa: từ trái đất, thuồng luồng và hết các vực thẳm; lửa và mưa đá, tuyết với sương mù, cuồng phong bão táp răm rắp vâng lời Chúa; núi non và gò nổi hết thảy, cây ăn trái và bá hương các loại; mãnh thú và súc vật hết thảy, côn trùng và chim loài có cánh; vu chúa trần gian và hết thảy muôn dân, tướng lãnh hết thảy, các ngự sử gian trần; trai tráng và cả nữ trinh, bô lão và các nhi đồng, hãy táng tụng Danh Chúa"52. Vì từ trên trời mọi sự vật cũng tán tụng Chúa; vâng, tán tụng Chúa là Thiên Chúa chúng con,, "từ chốn cao xanh các thiên thần của Chúa hết thảy và các cơ binh của Người; mặt trời, mặt trăng, hết thảy các vì sao sáng; trời cao trùng điệp cùng với nước trên đỉnh vòm trời, hãy tán tụng Danh Chúa"53. con không còn ước ao chúng tốt lành hơn, vì khi nhìn bao quát mọi yếu tố, con thấy các yếu tố thượng đẳng tốt lành hơn các yếu tố hạ đẳng; nhưng với một sự phán đoán lành mạnh hơn, con thiết tưởng toàn thể tạo vật tốt lành hơn là các yếu tố thượng đẳng đứng riêng rẽ54.

XIV-20      Những kẻ không ưa một tạo vật nào của Chúa là không có tinh thần lành mạnh55, cũng như con ngày xưa không ưa nhiều tạo vật của Chúa. Và vì linh hồn con không dám đi đến chỗ không ưa Chúa con, cho nên, tạo vật nào nó không ưa, thì nó không muốn nhìn nhận là của Chúa. Và do đó, nó rơi vào thuyết nhị nguyên, nhưng nó không được bằng an và nói năng những sự không đâu vào đâu. Khi được thoát khỏi những lầm lạc đó, thì nó lại tự tạo cho mình một Thiên Chúa tràn lan khắp mọi nơi trong không gian vô tận và nó tưởng đó là Chúa, và nó đặt Người trong lòng nó và nó trở thành đền thờ cho thần tượng của nó, là điều Chúa gớm ghét. Nhưng sau khi Chúa đã ôm lấy đầu con, mà con không biết, và đã bịt mắt con, để khỏi trông thấy những sự hão huyền56, thì con như bất tỉnh nhân sự và sự điên dại của con cũng xẹp xuống; và con được thức tỉnh trong tay Chúa, và con đã trông thấy Chúa vô cùng tận, nhưng kiểu khác: Thị kiến đó không bởi xác thịt mà ra.

XV-21       Con đã nhìn đến các sự vật khác, và con đã nhận thấy: Chúng nhờ Chúa mà được hiện hữu và chúng được giới hạn trong Chúa, nhưng kiểu khác, không như trong không gian, nhưng là vì Chúa nắm giữ mọi sự vật trong chân lý như trong bàn tay: Mọi sự vật có thật theo như chúng hiện hữu, và chỉ có giả dối khi người ta cho phi hữu là hiện hữu mà thôi.

Con thấy rằng: Mọi sự vật không những ở vào đúng chỗ của chúng mà còn xuất hiện đúng giờ của chúng nữa, và chỉ một mình Chúa là vĩnh cửu, Chúa đã không bắt đầu hoạt động sau những quãng thời gian, quá khứ hay tương lai, chỉ có thể qua đi và lại đến vì Chúa hoạt động và trường tồn.

XVI-22      Do kinh nghiệm, con hiểu rằng: Không lại gì một tấm bánh ngon lành cho một vị giác lành mạnh, sẽ trở nên nhạt nhẽo cho một vị giác yếu đau; và ánh sáng làm vui con mắt lành mạnh, thì làm cho con mắt đau gớm ghét. Kẻ dữ không ưa thích sự công chính của Chúa, chứ không phải chỉ gớm ghét rắn độc và giòi bọ, là những vật Chúa đã dựng nên tốt lành, thích hợp với các phần hạ đẳng của tạo vật. Chính kẻ dữ càng khác Chúa bao nhiêu thì càng giống các phần hạ đẳng này bấy nhiêu; cũng như người ta càng giống Chúa bao nhiêu thì càng thích hợp với các phần thượng đẳng của tạo vật bấy nhiêu. Con đã tìm cho biết sự dữ là gì, và con đã thấy nó không phải là một thực thể, mà là sự gian ác của một ý muốn trở mặt với thực thể tối cao là Chúa, để quay về với những sự hèn mạt để xổ cả ruột gan và xông mùi hôi thối ra ngoài57.

XVV-23    Con lấy làm lạ là con đã yêu mến Chúa, chứ không phải một ảo tượng thay vì Chúa. Nhưng con chưa được vững vàng trong sự hưởng thụ Chúa: Con cảm thấy sự tốt đẹp của Chúa lôi kéo con tới Chúa, rồi cái trọng lượng của con lại kéo con ra khỏi Chúa, để con té nhào trên mặt đất với những tiếng thở than; trọng lượng đó là tính mê xác thịt của con. Nhưng kỷ niệm Chúa vốn còn ở với con, và con không hồ nghi chút nào về một thực thể mà con phải bám lấy, nhưng con chưa có khả năng để bám lấy, vì cái thân xác hư hoại này đè nặng linh hồn và cái lều đất áp bức tinh thần làm cho nó lo toan lắm chuyện58. Con cũng rất chắc chắn là "từ buổi tạo thành vũ trụ, những gì về Chúa mà con mắt xác thịt không thể thấy, thì trí khôn nhìn ngắm được, nơi công việc Chúa đã làm", quyền năng hằng có và thần tính của Chúa nữa59. Vậy con tìm xem phải căn cứ vào đâu để đánh giá sự tốt đẹp của các vật thể, hoặc là thiên thể, hoặc là địa thể, và cái gì làm cho con có thể phán đoán một cách thẳng thắn về các sự vật hay thay đổi, khi nói rằng: "Cái này phải thế, cái kia không phải thế?". Vậy con tìm xem phải căn cứ vào đâu để phán đoán, khi phán đoán như vậy, thì con đã khám phá được rằng: Sự vĩnh cửu bất biến và đích thực của chân lý vượt quá trí khôn hay thay đổi của con.

Như vậy, dần dần con đi từ thân xác đến giác hồn, cảm thức nhờ trung gian của thân xác; và từ đó tới năng lực bề trong được các giác quan thân xác thông báo các cảm thức bên ngoài cho, và tới đó là giới hạn sự tri thức của loài vật. Từ đó con lại đi tới cơ năng lý trí, có nhiệm vụ phê phán tất cả những gì mà các giác quan thân xác đã cảm thức được. cơ năng này trong con cũng đã tự nhận mình hay thay đổi, nên nó vươn lên để hiểu biết mình, và đưa tư tưởng con ra khỏi vòng nô lệ của tập quán, bằng cách trốn tránh những ảo tưởng tương phản, để tìm cho biết: ánh sáng nào đã tràn ngập nó, khi nó tuyên bố không chút nghi ngờ rằng: Sự vật bất biến phải hơn sự vật hay biến đổi; và bởi đâu nó biết được chính sự vật bất biến? - vì nếu nó không biết chút nào, thì nó không thể nào chắc chắn cho vật đó hơn vật hay biến đổi - Sau cùng, nó đã đi tới chính Hữu thể trong một cái nhìn chớp nhoáng60. Nhưng chính lúc đó con nhìn thấy "những gì về Chúa mà con mắt xác thịt không trông thấy được, thì trí khôn nhìn ngắm được, nhờ công việc Chúa đã làm"61; nhưng con đã không thể nhìn lâu vào đó được; mắt yếu hèn của con hoa lên, con lại trở về những sự bình thường, chỉ mang theo một kỷ niệm mến yêu và như thòm thèm hương vị của những thực phẩm mà con chưa thể ăn được.

 

Augustin cảm thấy còn thiếu khiêm nhường


XVIII-24   Con tìm phương tiện để được sức mạnh làm cho con có khả năng hưởng Chúa, và con không tìm được, cho đến khi nào con được bám lấy "Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, Người là Đức Giêsu Kitô"62, "Đấng vượt trên muôn loài, tức là Thiên Chúa, đáng ca tụng đời đời63, Người kêu gọi và bảo chúng con rằng: "Ta là đường, là sự thật và là sự sống"64, và là của ăn - mà con còn yếu đuối chưa ăn được - của ăn đó, Chúa hoà với xác thịt - vì Ngôi Lời đã nhập thể65 - để sự khôn ngoan, mà Chúa đã nhờ tạo dựng muôn vật, trở thành sữa cho tuổi thơ ấu của chúng con.

Thật vậy, con chưa khiêm nhường đủ để bám lấy Chúa Giêsu của con, là Chúa sự khiêm nhường, cũng chưa biết được bài học mà sự yếu hèn của Người ban cho. Vì Ngôi Lời của Chúa, là chân lý vĩnh cửu, vượt quá mọi phần thượng đẳng của tạo vật Chúa, nâng lên tới Người các kẻ phục tùng Người; còn ở các phần hạ đẳng, Người đã xây dựng cho mình một ngôi nhà khiêm tốn với bùn đất chúng con, để nhờ đó Người thúc giục những kẻ, Người muốn khuất phục, phải từ bỏ mình đi để Người kéo họ tới Người, bằng cách chữa lành bệnh kiêu ngạo và nuôi dưỡng lòng yêu mến của họ, để họ khỏi gia tăng sự cậy mình quá lâu, trái lại họ sẽ giảm thiểu tính đó, khi nhìn thấy dưới chân họ hoàn cảnh khiêm tốn của Thiên Chúa, đã mặc lấy áo da thịt của chúng con66 và khi mỏi mệt, họ sẽ phủ phục trước Thiên Chúa, và khi chưa chỗi dậy, Chúa sẽ đưa họ lên với Chúa.

XIX-25      Nhưng lúc đó con nghĩ thể khác và con chỉ nhìn Đức Kitô, Chúa của con, như một người khôn ngoan tuyệt vời, không ai có thể sánh kịp, nhất là sự giáng sinh kỳ diệu của Người, bởi một trinh nữ, xem ra do sự lưu ý của Thiên Chúa đối với chúng con, đã tạo cho Người một uy thế giáo dục lớn lao, để nêu gương khinh chê của cải đời này, cho được mua lấy phúc trường sinh bất tử. Nhưng con không thể đoán được mầu nhiệm nào chứa đựng trong các tiếng "Ngôi Lời đã nhập thể"?67 Qua các lời Kinh Thánh chép về Người, con chỉ biết là Người đã ăn, đã uống, đã ngủ, đã đi lại, đã biết buồn, vui, và đã nói năng; là xác thịt chỉ có thể kết hợp với Ngôi Lời của Chúa nhờ trung gian một linh hồn và một trí khôn nhân loại68. Cho được biết điều ấy, chỉ cần biết là Ngôi Lời bất biến. Đó là điều con đã biết, theo sức mình, và con không hề nghi nan chút nào. Thật vậy, lúc cử động các chi thể của mình theo ý muốn, rồi lại không cử động; lúc cảm thấy một tâm tình nào đó, lúc không cảm thấy nữa; lúc dùng dấu hiệu, diễn tả những ý tưởng khôn ngoan, lúc ở lặng: Tất cả các biểu hiện đó tỏ rõ một linh hồn và một trí khôn bị lệ thuộc sự thay đổi. Nếu các việc này đã được ghi chép về Người là sai, thì tất cả các điều khác cũng đáng hồ nghi là giả dối, và trong các sách đó không còn chút tín ngưỡng cứu độ nào cho nhân loại nữa. Nhưng vì các điều ghi chép đó có thật, cho nên con nhìn nhận trong Đức Kitô một con người hoàn bị, chứ không phải chỉ có thân xác nhân loại; hay chỉ có thân xác và linh hồn mà không có trí khôn; nhưng là một con người cụ thể, và theo ý con, phải được quý chuộng hơn các người khác, không phải vì Người là chân lý đích thân, mà vì Người có một nhân tính tuyệt diệu và được tham dự vào sự khôn ngoan một cách trọn hảo.

Nhưng Alypius tưởng rằng: Đức tin Công giáo về Thiên Chúa làm người chỉ bao gồm, nơi Đức Kitô, Thiên Chúa và xác thịt, mà không có linh hồn. Anh cũng tưởng không phải gán cho Người trí khôn nhân loại. Tuy nhiên, vì anh tin tưởng chắc chắn rằng: Những việc đã được ghi chép về Đức Kitô chỉ có thể thực hiện được bởi một tạo vật có sự sống và lý trí, nên anh đã chậm tiến về chính Đức Kitô Kitô giáo. Nhưng về sau, anh biết đó là lạc thuyết của phái Appolina, anh đã vui mừng chấp nhận đức tin Công giáo.

Phần con, con thú thật là ít lâu sau con mới học hỏi cho biết, trong việc giải thích câu "Ngôi Lời đã nhập thể" chân lý của Công giáo khác xa lầm lạc của Photin như thế nào. Thật ra, sự lên án bè rối làm nổi bật điều Giáo Hội Chúa nghĩ tưởng và nội dung của giáo lý lành mạnh. Vì cần phải có bè rối, để những tâm hồn lão luyện được tỏ lộ giữa những kẻ yếu đuối69.

XX-26       Sau khi đọc các sách của phái Platon, con thấy mình được thúc giục phải tìm chân lý vô hình, và con đã thấy những sự vô hình về Chúa được trí khôn hiểu biết qua các việc Chúa làm70, và dù như bị xô lùi lại, con cũng hiểu được chân lý, mà trước đây sự tối tăm của linh hồn con không cho phép cho chiêm ngưỡng. Lúc đó con biết chắc rằng: Chúa hiện hữu, Chúa vô cùng, mà không tràn lan qua không gian hữu hạn hay vô hạn, Chúa thật là Đấng Tự hữu, bao giờ cũng vốn là một, không khi nào trở thành ai khác, hay sống cách khác, do sự phân chia hay sự biến đổi nào hết: Còn các vật khác đều bởi Chúa mà ra, với cái bằng chứng duy nhất và chắc chắn nhất là vì chúng hiện hữu. Con biết chắc chắn về các sự ấy, nhưng con còn quá yếu kém cho được hưởng Chúa. Con nói năng đàng hoàng như một người thông thạo, nhưng nếu con không tìm tòi đường lối trong Đức Kitô, Đấng cứu chuộc chúng con71, thì con sẽ không là thông thạo mà sẽ hư đi. Vì con đã bắt đầu muốn khoe mình là khôn ngoan, nhưng mang nặng hình phạt, thế mà con không khóc lóc, lại còn khoe khoang tri thức của mình72. Tìm đâu ra đức bác ái được xây dựng trên nền tảng khiêm nhượng, tức là Đức Giêsu Kitô?73. Khi nào, các sách đó sẽ dạy con điều ấy: Chúa đã cho con gặp các sách đó, trước khi được suy gẫm Thánh Kinh của Chúa, thì con tưởng là để con ghi nhớ cảm tưởng về chúng và sau con đã tìm được sự bình an trong Kinh Thánh và đã được những ngón tay tế độ của Chúa băng bó các thương tích của con, con sẽ biết nhận xét và nhìn thấy sự khác biệt giữa sự tự phụ và sự tự thú, giữa những kẻ thấy phải đi đâu mà không thấy phải qua đâu, và con đường đưa tới quê hương diễm phúc, không phải chỉ để chiêm ngưỡng, mà còn để được ở nữa.

Vì giả như con bắt đầu được giáo dục trong Thánh Kinh và được quen thuộc với sự êm dịu của Chúa, rồi sau này mới gặp thấy các sách của phái Platon, thì con e rằng: Chúng sẽ kéo con ra khỏi nền tảng đạo đức, hoặc, nếu như con vốn đứng vững được trong ảnh hưởng tốt đã lãnh nhận, thì có khi con sẽ tưởng rằng: Nếu chỉ đọc các sách đó thôi, chúng cũng tạo được cho con một trạng thái như vậy.

 

Bí quyết khiêm nhượng ở tại Thánh Kinh, nhất là thư thánh Phaolô


XXI-27      Cho nên con rất ham mê cầm giữ sách đáng kính của Thần linh Chúa, và nhất là sách của tông đồ Phaolô; và con thấy tan biến những thắc mắc, mà trước đây, đã làm cho con thấy như Ngài tự phải lại mình và lời nói của Ngài như không hợp với các chứng cứ của Lề luật và các Tiên tri; và con đã nhận thấy các lời tuyên bố thanh sạch của Ngài có một dung mạo hợp nhất và con đã học cho biết vui mừng và kinh sợ74. Con đã bắt đầu làm việc và đã nhận thấy là tất cả những gì là chân thật, mà con đã đọc ở các sách của Platon, đều được trình bày trong sách này, nhưng với sự bảo trợ của ơn Chúa, để kẻ xem thấy, đừng có tự phụ như không cần phải lãnh nhận75, chẳng những điều nó thấy, mà cả khả năng xem thấy nữa76 - Vì sự gì nó có há chẳng phải đã lãnh nhận hay sao? - và như vậy, nó được khuyên bảo chẳng những để được xem thấy Chúa là Đấng bao giờ cũng vậy77 mà còn được chữa lành để được giữ lấy Chúa nữa; và kẻ nào ở xa chưa thể xem thấy, thì cũng sẽ đi theo con đường đưa tới Chúa, để xem thấy Chúa và giữ lấy Chúa. Thật vậy, mặc dầu người ta ưa thích luật Chúa, theo con người bề trong, nhưng sẽ làm gì đối với thứ luật khác trong chi thể mình, chống lại luật của lý trí và cầm hãm nó dưới luật tội lỗi, ghi chép trong chi thể mình?78. Vì Chúa công bình, lạy Chúa; còn chúng con, đã phạm tội, đã làm điều gian ác, đã ăn ở bất kính và tay Chúa đè nặng trên chúng con79, và theo phép công bằng, chúng con đã bị phó nộp cho tội nhân xưa, cho thủ lãnh sự chết, vì nó đã dụ dỗ ý muốn chúng con rập theo ý muốn của nó, đã làm cho chính nó không còn đứng vững trong chân lý của Chúa nữa80. Con người khốn nạn sẽ làm gì được? Ai sẽ cứu nó khỏi cái xác chết dở này, nếu không phải là ơn Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, hay sao?81 Chúa đã sinh ra Người từ trước muôn đời, đã tạo dựng Người từ khởi nguyên mọi công trình của Chúa82, thủ lãnh thế gian83 không tìm được sự gì đáng chết nơi Người84, thế mà nó đã giết Người; và như vậy đã tiêu huỷ văn kiện kết án chúng con85

Điều này không có trong các sách của phái Platon, các sách đó không cho thấy dung mạo hiền từ, nước mắt tự thú, hy lễ Chúa ưa, tinh thần tan nát, tâm hồn tan nát khiêm cung86, phần rỗi của dân, thành trì tôn nương87, bảo chứng của Thánh Linh88, chén cứu chuộc chúng con. Trong đó không ai hát rằng: Chớ thì linh hồn tôi không quy phục Chúa hay sao? Chính Người là phần rỗi của tôi, chính Người là Chúa tôi, là Đấng cứu chuộc tôi, là nơi tôi nương náu, tôi không còn nao núng nữa89. Trong các sách đó không ai nghe tiếng kêu gọi: "Ngươi mỏi mệt, hãy đến cùng Ta". Họ khinh chê bài học của Chúa, vì Chúa có lòng hiền từ và khiêm nhượng. Vì Chúa đã giấu các sự ấy không cho những người khôn ngoan thông thái biết, nhưng chỉ mạc khải cho những kẻ bé nhỏ mà thôi90. Một bên là từ một đỉnh cao rậm rạp nhìn thấy quê hương an bình, mà không tìm thấy con đường đi tới đó, lại uổng công len lỏi qua các lối hiểm nguy, năng gặp những cuộc tấn công và cạm bẫy của những quân đào ngũ, cùng với thủ lãnh của chúng, là sư tử và con rồng91. Đàng khác là đi trên con đường đưa tới quê hương, với sự quan phòng cẩn thận của vua trên trời. Trên đường đó những quân đào ngũ của đạo binh thiên quốc không dám cướp bóc, chúng còn trốn tránh nơi đó như trốn hình phạt vậy.

Các tư tưởng đó đã thấm thía vào lòng con một cách đặc biệt, khi con đọc sách của người rốt bét trong các tông đồ của Chúa92; và con đã quan sát công trình của Chúa và con phát sợ!
 
******************

 

QUYỂN TÁM: GƯƠNG LÀNH LÔI CUỐN

 

Tạ ơn Chúa


I-1              Lạy Chúa, để cảm tạ Chúa, con muốn ôn lại và xưng tụng lòng nhân từ Chúa đối với con. Chớ gì xương cốt con được thấm nhuần tình yêu mến Chúa mà kêu lên rằng: Giavê, nào ai giống được như Ngài?1 Chúa đã tháo gỡ xiềng xích cho con. Con sẽ dâng Chúa lễ tế tạ ơn2. Chúa đã tháo gỡ làm sao, con sẽ kể lại, và mọi kẻ thờ Chúa, khi nghe con kể, sẽ kêu lên rằng: Chúc tụng Chúa trên trời và dưới đất, danh Người cao cả và uy linh dường nào!3

Lời Chúa ghi tạc tận đáy lòng con, và Chúa bao bọc con tư bề. Con đã được chắc chắn về đời sống vĩnh cửu của Chúa, mặc dầu con mới xem thấy nó cách mường tượng như trong tấm gương4; nhưng con không hồ nghi gì nữa về bản thể bất hoại của Chúa, là nguyên nhân cho các bản thể khác. Con cũng không ước ao được biết chắc chắn hơn, mà được bám chắc vào Chúa hơn. Còn về đời sống trần gian của con, thì mọi sự đều là bấp bênh, và tâm hồn con cần phải được thanh tẩy khỏi thứ men cũ5; con ưa thích "con đường" là chính Chúa cứu chuộc con, nhưng con còn ngần ngại đi vào đường lối chật hẹp của Người6.

 

Định đi thăm Simplicianus


Chúa đã gieo vào trí khôn con ý kiến và con cũng thấy là hay, là đi gặp ông Simplicianus. Con thấy ông là mộ tâm tình các tôi tớ tốt lành của Chúa và ơn Chúa chiếu giãi nơi ông. Con cũng nghe nói là ngay từ thiếu thời, ông đã sống cho Chúa cách rất đạo đức; bây giờ ông đã có tuổi, và sau thời gian lâu dài sốt sắng theo đuổi đường lối của Chúa như vậy, thì con tưởng ông rất giàu kinh nghiệm và thông thạo giáo lý. Và đúng như vậy. Bởi thế, con muốn trình bày với ông về những băn khoăn của con, xin ông chỉ vẽ cho con phương pháp nào thích hợp với tâm trạng của con, để con có thể tiến bước được trong đường lối của Chúa7.

 

Còn vấn đề người vợ


2                 Vì con thấy Giáo Hội Chúa đầy tín hữu, mỗi người sống theo kiểu riêng của mình. Phần con, con chán ghét nếp sống của con ở trần gian, nó là một gánh nặng cho con, khi mà ngọn lửa các đam mê ngày trước, hy vọng danh dự và tiền bạc, không còn kích thích con chịu đựng cái ách nô lệ quá nặng đó nữa. Thật vậy, các sự đó không còn làm cho con vui thích nữa, trước sự dịu hiền của Chúa và vẻ đẹp của nhà Chúa mà con yêu quý8. Nhưng con còn bị trói buộc một cách chặt chẽ bởi vấn đề người vợ. Đã hẳn, thánh tông đồ không cấm con kết bạn, mặc dầu ngài khuyên tới bậc trọn lành hơn, khi ước ao cho ai nấy cũng như ngài. Nhưng vì quá yếu đuối, con đã chọn bậc dễ dãi hơn. Chính vì thế, mà con bị chìm nổi trăm đàng: Phiền muộn, hao mòn vì lo lắng khổ cực, vì cùng với đời sống đôi bạn, mà con đã hứa và dấn thân, con còn phải thích nghi với nhiều bất tiện khác, mà theo tính tự nhiên, con không muốn chịu.

Con đã được nghe từ miệng sự chân thật là có những hoạn nhân tự ý trở nên như vậy vì Nước Trời. Nhưng lại thêm rằng: "Ai có thể hiểu được thì hiểu"9. Hẳn là ngu ngốc, tất cả những kẻ sống trong vô tri thức về Thiên Chúa, và không thể từ những sự lành thấy được mà tìm ra Đấng hiện có10. Nhưng con đã qua thời kỳ ngu ngốc đó; con đã vượt lên trên nó và nhờ chứng cứ của toàn thể tạo vật, con đã tìm thấy Chúa là Tạo hoá của chúng con, và Ngôi Lời của Chúa, là Thiên Chúa ở nơi Chúa và là Thiên Chúa duy nhất với Chúa, nhờ Người, Chúa đã tạo dựng muôn loài.

Còn có một loại người xấu nữa, họ đã biết Thiên Chúa, mà lại không tôn vinh Người như Thiên Chúa, hoặc không cảm tạ Người11. con cũng đã sa vào lầm lạc đó, nhưng cánh tay Chúa đã đỡ nâng con12, đã kéo con ra khỏi đó và đã đặt con vào nơi con có thể lấy lại được sức khoẻ, vì Chúa đã phán bảo con người rằng: "Kính sợ Chúa, đó là khôn ngoan"13, và "Đừng muốn cho mình là khôn, vì những kẻ khoe mình là khôn, đã trở nên điên dại"14. Con đã tìm được hạt ngọc quý, con phải bán hết của con có, cho được mua lấy15, mà con còn ngần ngại.

 

Chuyện trở lại của Victorinus


II-3   Vậy con đã đi gặp Simplicianus. Ông là cha (đỡ đầu) của đức Ambrosiô, làm giám mục lúc đó, khi ngài lãnh nhận ơn Chúa, và thật sự ngài quý mến ông như một người cha16. Con đã kể cho ông biết những lầm lạc liên tiếp của đời con. Nhưng khi con nói là con đã đọc nhiều sách của phái Platon được dịch sang La ngữ do Victorinus, nhà hùng biện ở Roma xưa, mà con được nghe là đã chết sau khi trở lại Kitô giáo, thì ông mừng cho con là đã không đọc những sách của các triết gia khác, đầy dẫy những giả dối và lường gạt, theo những nhân tố trần gian17. Còn như trong các sách của phái Platon, người ta nhắc nhở đến Thiên Chúa và Ngôi Lời dưới trăm ngàn hình thức khác nhau. Rồi để khuyên nhủ con về đức khiêm nhượng của Chúa Kitô, - đức khiêm nhượng được giấu kín không cho những người khôn ngoan biết, mà được mạc khải cho những kẻ bé nhỏ18 - Ông hồi tưởng đến Victorinus, mà khi ông còn ở Roma, ông đã coi như người bạn chí thân. Những điều ông kể về Victorinus, con không muốn giữ lấy cho mình con, vì phải cảm tạ ơn Chúa rất nhiều, và ông này, mặc dầu ông là một ông già rất thông thái, rất thạo về các khoa học tự do, lại đã đọc và phê bình rất nhiều sách của các triết gia, là thầy dạy bao nhiêu nghị sĩ quý phái; vì ông có tiếng dạy học rất giỏi, và các công dân trần thế này cho là tuyệt vời, cho nên ông đã đáng được người ta đặt tượng kỷ niệm tại công trường Roma và ông đã chấp nhận việc đó. Cho đến tuổi đời như vậy, mà ông vốn thờ cúng thần tượng và tham dự các nghi lễ phạm thánh, mà lúc đó hầu hết phái thượng lưu Roma19 sùng mộ và làm cho dân chúng Osiris và các thứ quái vật được thần thánh hoá, và hay sủa. Những thần này trước kia đã cầm khí giới chống lại Neptune, Venus và Minerve20 và Roma lại cầu khẩn những kẻ mình đã thắng. Chính ông già Victorinus cũng trong bao nhiêu năm trời đã bênh vực các thần này với một tài hùng biện kinh khủng, thế mà ông đã không hổ thẹn làm tôi tớ Đức Kitô của Chúa, làm trẻ thơ nơi giếng ơn sủng của Chúa, bởi đã khoác ách khiêm nhường vào cổ và ghì trán dưới sự ô nhục của thập giá21.

4                 Ôi Chúa, lạy Chúa, Chúa đã đảo nghiêng các tầng trời và Chúa ngự xuống; Chúa đã dựng đến núi non là chúng đã nghi ngút khói22; Chúa đã dùng phương tiện nào mà len lỏi vào được tâm hồn của con người như vậy?

Theo như Simplicianus nói, thì Victorinus đã đọc Kinh Thánh của Chúa và đã rất chăm chỉ tìm tòi và đào sâu các sách về Kitô giáo và ông đã nói với Simplicianus - không phải công khai, mà riêng tư và thân mật - rằng: "Anh có biết tôi đã là Kitô hữu rồi không?". Và Simplicianus trả lời: "Tôi không tin, cũng chẳng kể anh vào số Kitô hữu, bao lâu tôi chưa thấy anh ở trong nhà thờ của Chúa Kitô". Nhưng Victorinus cười mà rằng: "Thế ra các bức tường làm nên Kitô hữu hay sao?". Ông năng với Simplicianus là ông đã là Kitô hữu, và Simplicianus đều trả lời như vậy, và ông cũng lấy câu bức tường mà chế nhạo. Vì ông sợ mất lòng các bạn hữu, là những người kiêu ngạo thờ lạy quỷ ma, ông tưởng sự giận ghét của họ sẽ nặng nề đổ xuống trên ông, như từ chóp đỉnh vinh quang của Babylon23, như từ những cây hương nam núi Liban, chưa bị Chúa đánh gẫy24. Nhưng sau khi đọc sách và suy gẫm nhiều, ông đã tìm được sự can đảm. Ông sợ bị Chúa Kitô chối bỏ trước mặt các thánh thiên thần, nếu ông sợ tuyên xưng Chúa trước mặt người đời25, ông cho mình có trọng tội, nếu hổ thẹn về các nghi lễ phạm thánh của ma quỷ kiêu ngạo, mà ông đã chấp nhận, như người bắt chước sự kiêu ngạo của chúng; ông khinh thường sự giả dối, ông chỉ biết hổ thẹn trước chân lý. Bỗng nhiên và bất ngờ, ông nói với Simplicianus, theo như ông này kể lại: "Chúng ta hãy đi nhà thờ: Tôi muốn trở nên Kitô hữu". Simplicianus không lấy đó làm vui, nhưng cũng đi với ông. Vậy Victorinus được thụ giáo về những chân lý căn bản của huấn giáo, rồi ít lâu sau, ông xin ghi tên vào số các kẻ sẽ được tái sinh trong phép thánh tẩy26. Kinh thành Roma bỡ ngỡ, Giáo Hội vui mừng. Các kẻ kiêu ngạo thấy vậy, thì tức bực, nghiến răng, nhưng tiêu hao bất lực27. Nhưng Chúa là niềm cậy trông của tôi tớ Chúa, Người không về phe những kẻ thờ thần tượng và bọn a tùng theo đàng dối trá28.

5                 Sau hết, đến giờ tuyên xưng đức tin. Theo thói quen ở Roma, thì những người sẵn sàng chịu ơn Chúa phải tuyên đọc ở một nơi cao trống trải, trước mặt giáo dân, một biểu thức đức tin nhất định, đã học thuộc lòng. Theo Simplicianus, kể, thì các linh mục đề nghị cho Victorinus tuyên xưng đức tin cách kín đáo, như thói quen cho những người mà sự sợ hãi làm cho ngại ngùng cách nào chăng. Nhưng Victorinus thích tuyên xưng phần rỗi của ông trước mặt dân thánh Chúa. Khoa tu từ ông dạy không nói đến phần rỗi, mà ông còn tuyên bố công khai. Ông đã không sợ tuyên bố lời của ông trước một lũ đông ngu ngốc, huống chi ông càng không phải sợ hãi khi tuyên xưng lời của Chúa trước đoàn chiên hiền lành của Chúa? Vậy theo như Simplicianus kể, khi ông lên nơi cao để tuyên xưng, thì tất cả khán giả, là những người biết ông, đều ồn ào vui sướng, nhắc đến tên ông cho nhau. Vì có ai ở đó mà không biết ông? Hết mọi người đều vui mừng và tiếng ồn ào trở nên mạnh hơn: "Victorinus, Victorinus". Họ mau chóng biểu lộ sự vui mừng vì xem thấy ông, thì họ cũng mau chóng giữ thinh lặng để nghe ông. Ông đã tuyên xưng đức tin chân thành của ông với một giọng điệu xác tín lạ lùng, và mọi người đều muốn ôm lấy ông vào lòng mình. Mà họ đã ôm ông thật sự, bằng quý mến và vui mừng, đó là hai cánh tay để ôm lấy ông.

 

Tội nhân trở lại được ưu đãi


III-6 Lạy Chúa nhân lành, cái gì xảy ra trong con người, mà khi cứu rỗi được một linh hồn nó đã thất vọng và khi giải thoát linh hồn đó khỏi một nguy hiểm lớn lao, thì nó lấy làm vui mừng hơn khi linh hồn đó vốn giữ được hy vọng của mình hoặc chỉ được giải thoát khỏi một nguy hiểm nhỏ mà thôi! Mà Chúa cũng vậy, lạy Chúa nhân từ, Chúa vui mừng về một tội nhân hối cải hơn là 99 người công chính không cần phải hối cải29. Chúng con vui mừng lắm khi nghe kể việc chủ chăn hớn hở vác về đoàn con chiên đã lạc mất, và chị em láng giềng của người phụ nữ vui mừng vì bà đã trả lại vào kho tàng của Chúa đồng bạc bà đã tìm thấy. Chúng con không cầm được nước mắt trong cuộc vui mừng trọng đại của nhà Chúa, khi chúng con nghe đọc bài về đứa con út của Chúa đã chết mà sống lại, đã mất mà tìm thấy. Vì Chúa vui thoả trong chúng con và trong các thiên thần, được thánh hoá nhờ đức bác ái thánh thiện. Vì Chúa bao giờ cũng như vậy, còn những sự không có mãi mãi hay không có mãi cùng một kiểu, Chúa biết chúng tất cả, bao giờ cũng vậy.

7                 Vậy cái gì xảy ra trong tâm hồn, mà khi nó tìm thấy, hoặc tìm lại được những sự nó yêu quý, thì nó cảm thấy vui sướng hơn là khi nó vốn cầm giữ được các sự ấy? Có nhiều điều làm chứng sự ấy; thế gian đầy dẫy những bằng chứng quả quyết rằng: "Đúng thế". Một thượng vị oanh liệt thắng trận: Ông sẽ không thắng, nếu ông không chiến đấu, và nguy hiểm càng lớn trong cuộc chiến, thì niềm vui càng to trong cuộc thắng. Một cơn bão để các người vượt biển, và đe doạ đắm tàu, thì ai nấy đều tái xanh mặt mũi trước cái chết rình chực. Nhưng trời yên, biển lặng, thì họ lại vui sướng quá, vì đã sợ hãi quá. Một người thân yêu lâm bệnh, và mạch chạy báo nguy. Hết mọi người ước ao cho nó lành mạnh cũng như lâm bệnh trong tâm hồn. Nhưng bệnh tình thuyên giảm, nó đi lại được, tuy chưa được mạnh dạn như trước, thì ai nấy đều vui mừng, như chưa từng thấy trước này, khi nó đi lại lành mạnh. Về những khoái lạc nhục thể trong đời sống con người, cũng không phải do những chuyện tình cờ và xảy đến ngoài ý muốn, nhưng là do những phiền phức được phối hợp và ưng thuận, mà con người ta được hưởng thụ. Ăn và uống không có khoái lạc gì, nếu trước đó người ta không cảm thấy sự buồn phiền là đói và khát. Những người nghiện rượu ăn đồ mặn, để gây một cảm giác như cháy họng, rồi họ uống để dập tắt đi, thế là khoái lạc. Đã thành tục lệ là không cho cưới ngay sau khi ăn hỏi, vì nếu người chồng không phải khao khát mong chờ một thời gian, thì e rằng sẽ coi thường sự hiến thân của người vợ30

8                 Sự thể là như vậy trong một khoái lạc tủi hổ và đáng khinh chê, cũng như trong những khoái lạc được phép và hợp lý, cũng như trong tình nghĩa rất chân thành và chính đáng, cũng như trong vụ đứa con đã chết mà sống lại, đã mất mà tìm thấy31: Luôn luôn một sự vui mừng lớn theo sau một khổ cực lớn.

Thế nghĩa là gì, lạy Chúa Trời con, vì Chúa là sự vui đời đời cho Chúa và các loài bởi Chúa mà ra hằng vui mừng chung quanh Chúa? Tại sao mà ở phần này của vũ trụ lại lần lượt có sự tiến rồi thoái, sự phản nghịch rồi đều hoà? Hay đó là số phận của chúng, và Chúa đã ấn định cho chúng như vậy, vì từ các tầng trời cao thẳm cho tới các vực sâu khắp cùng trái đất32, từ ban sơ cho đến cuối mọi thế kỷ, từ thiên thần cho đến sâu bọ, từ hoạt động thứ nhất đến hoạt động cuối cùng, về các loại thiện hảo khác nhau, và các công trình chân chính của Chúa, Chúa xếp đặt thứ nào vào chỗ nấy, và Chúa sáng tạo thứ nào giờ giờ nấy? Ôi khốn thân con! Chúa vượt xa trên trời cao33 và thấu cùng vực thẳm! Chúa không hề lìa xa chúng con, mà chúng con khó tới Chúa dường nào!

IV-9 Nào! Lạy Chúa, xin Chúa hãy hành động, hãy thức tỉnh chúng con, hãy nhắc nhở chúng con, hãy hâm nóng chúng con, và hãy chiến lấy chúng con, hãy thiêu đốt, hãy mê hoặc chúng con: để chúng con yêu mến Chúa và chạy đến cùng Chúa. Chớ thì chẳng có nhiều người trở lại với Chúa từ một vực mù quáng còn hơn Victorinus - họ tới Chúa và được soi sáng khi nhận lấy ánh sáng, mà nếu họ nhận lấy ánh sáng thì cũng nhận lấy nơi Chúa quyền trở nên con cái Chúa34 hay sao? Nhưng nếu họ được ít người biết đến, thì kẻ biết họ cũng ít vui. Vì khi sự vui được nhiều người chia sẻ sẽ vui hơn, dù nơi từng người, vì người ta phấn khích mình và phấn khích lẫn nhau. Rồi những kẻ được nhiều người biết đến sẽ lôi kéo nhiều người về phần rỗi; họ đi trước và lũ đông theo sau, cho nên sự vui mừng của những kẻ đi trước càng được gia tăng, vì không phải họ chỉ vui mừng về họ, (mà còn về cả lũ đông theo họ).

Con không hề có ý kiến là trong nhà Chúa có sự thiên vị: người giàu được biệt đãi hơn người nghèo, kẻ sang hơn người hèn35, khi mà chính Chúa đã chọn những điều thế gian coi là yếu đuối, để bêu nhuốc những gì là mạnh mẽ, và Chúa đã chọn những điều thế gian cho là ti tiện, là không đáng kể, là những điều không không, như thế là cái gì, để huỷ diệt những điều có36. Tuy nhiên, chính người rốt nhất trong các tông đồ Chúa37 - và Chúa đã dùng miệng lưỡi người để nói lên những lời trên đây, chính người đã dùng khí giới đánh bại sự kiêu ngạo của quan toàn quyền Phaolô, đã đặt ông dưới ách êm dịu của Đức Kitô Con Chúa, đã biến ông thành người dân của vua cao cả - chính người đã muốn thay tên Saolô bằng tên Phaolô38 để kỷ niệm cuộc chiến thắng vẻ vang đó. Vì kẻ thù bị bại hoàn toàn hơn nơi con người mà nó cầm giữ mạnh hơn dưới quyền nó, và nhờ người này nó cầm giữ được nhiều người hơn. Vậy kẻ thù cầm giữ nhiều vĩ nhân hơn vì uy danh quý phái của nó, và nhờ họ nó cầm giữ nhiều hơn vì uy danh quyền thế của nó39. Con nên khi con cái Chúa nghĩ đến con tim của Victorinus trước đây bị ma quỷ chiếm giữ như một đồn luỹ kiên cố, hay là cái miệng lưỡi của ông như một tên bắn mạnh và sắc, đã giết chết nhiều linh hồn, thì phải vui mừng lắm, khi thấy vua của chúng con trói buộc được kẻ mạnh40, cướp được khí giới của nó, thanh tẩy và thích nghi các khí giới đó với vinh danh Chúa, trở thành hữu ích cho Chúa, để làm việc ích thiện41.

 

Hai ý muốn


V-10          Khi người tôi tớ Chúa là Simplicianus vừa kể cho con nghe về Victorinus, thì con nóng lòng bắt chước lắm. Người kể chuyện cũng có ý đó. Nhưng sau ông thêm điều này là đời thượng vị Julianô có lệnh cấm các Kitô hữu không được dạy văn chương và khoa hùng biện!42 Victorinus hoàn toàn chấp nhận luật đó, ông thích từ bỏ cái trường dạy bẻm mép, hơn là Lời của Chúa, làm cho lưỡi hài nhi nói sõi43. Con thấy ông không can đảm cho bằng may mắn, vì ông được dịp cống hiến tất cả thời giờ cho Chúa. Con cũng ước ao được may mắn  như vậy, trong khi bị trói buộc không do xiềng xích của ai khác, mà do ý muốn của con, cũng là một thứ xiềng xích. Kẻ thù cầm giữ ý muốn của con và biến nó thành cái xích để trói buộc con. Vì ý muốn xấu sinh ra đam mê, đam mê được chiều theo trở thành thói quen, thói quen không bị chống trả biến biến thành nhu cầu44. do những vòng kết nối với nhau như vậy - cho nên con đã gọi là cái xích - một thứ nô lệ ác nghiệt cầm buộc con. Nhưng ý muốn mới bắt đầu chớm nở nơi con - là muốn phục vụ Chúa một cách vô tư và hưởng Chúa, lạy Chúa, là niềm vui duy nhất chắc chắn của con - chưa có khả năng để thắng ý muốn thứ nhất, được củng cố mạnh mẽ vì thâm niên. Như vậy con có hai ý muốn: một cũ, một mới, một xác thịt, một thể hiện, chống đối nhau, và sự chia rẽ của chúng là đau đớn tâm hồn con.

11               Do kinh nghiệm bản thân, con hiểu như vậy những lời con đã đọc: "Xác thịt ước muốn trái nghịch với tinh thần, tinh thần ước muốn trái nghịch với xác thịt45. Con ở trong cả hai, nhưng con là con hơn trong điều mà con ưng thuận nơi con, hơn là trong điều mà con phản đối. Trong điều con phải đối, chính ra không phải là con nữa, vì phần nhiều con bị bó buộc phải chịu, hơn là tự ý hành động. Tuy nhiên thói quen hại con đã trở nên mạnh mẽ là tại con, vì con đã muốn đi tới chỗ con không muốn. Ai có quyền phản đối, khi hình phạt cân xứng theo sau tội lỗi? Con cũng không thể chữa mình như xưa quen làm, là con chưa chê bỏ thế gian để phục vụ Chúa46, tại con chưa biết chắc chắn về chân lý. Vì lúc đó con đã biết chắc chắn rồi. Nhưng vì con quá vướng vít vào trần gian, con đã từ chối phục vụ Chúa và con sợ được giải thoát khỏi xiềng xích, mà người ta phải sợ mắc vào.

12               Như vậy, cái gánh trần gian đè trên con một cách nhẹ nhàng như trong một giấc ngủ, và những tư tưởng mà con suy niệm về Chúa thì giống như những cố gắng của một con người muốn thức dậy, nhưng không thắng nổi giấc ngủ quá say, y lại nằm xuống. Và như chẳng có ai lại muốn ngủ hoài, và theo lẽ thường thì trạng thái tỉnh thức hay hơn, tuy nhiên khi thân thể bị rã rời, thì đa số người ta hoãn việc thức dậy và thích ngủ thêm, mặc dầu đã ngủ đủ và đã tới giờ phải thức; cũng vậy, con chắc chắn là tận hiến cho tình yêu Chúa thì tốt hơn là chiều theo đam mê của con; nhưng tình yêu Chúa làm cho con thoả thích và say mê, còn nhục dục thì mơn trớn và trói buộc con47. Con không có gì để trả lời cho Chúa, khi Chúa bảo con: "Thức dậy đi, hỡi người ngủ mê! Từ trong cõi chết hãy đứng dậy! Và Đức Kitô sẽ chiếu soi ngươi"48. Khắp nơi Chúa cho con thấy lời chân thật của Chúa, và con chịu phục, nhưng con không biết đáp lại làm sao, trừ những lời uỷ mị và ngái ngủ: "Lập tức", "Ngay lập tức", "Đợi một chút nữa". Nhưng "lập tức" không thấy lập tức; mà "một chút nữa" cứ kéo dài. Ích gì cho con, ưa thích lề luật Chúa theo con người bề trong, khi có một lề luật khác phản nghịch với lề luật của lý trí con và cầm hãm con dưới lề luật tội lỗi ở ngay trong chi thể con? Lề luật của tội lỗi, là sức mạnh của thói quen, lôi kéo và cưỡng chế tâm hồn con; nhưng đáng kiếp, vì nó đã tự ý rơi vào đó. Khốn cho con! Ai sẽ cứu con khỏi cái xác chết dở này, nếu không phải là ơn Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, hay sao49.

 

Sắp được cứu thoát


VI-13         Vậy Chúa đã giải thoát con làm sao khỏi xiềng xích của nhục dục đã cầm giữ con chặt chẽ như vậy và khỏi nô lệ công việc trần gian, con sẽ kể lại và xưng tụng danh Chúa, lạy Chúa, là đá tảng và là Đấng cứu chữa con!50

Lúc đó con sống bình thường, nhưng lo lắng cứ gia tăng, và hằng ngày con khao khát Chúa, con lui tới nhà thờ Chúa, mỗi khi được rảnh rang những công việc của gánh nặng làm con phải thở than. Alypius ở với con, anh đã thôi chức vụ pháp luật, sau khi đã làm bồi thẩm lần thứ ba. Anh đang chờ đợi bản "ý kiến thư" cho người nào khác, cũng như con đang bán nghề dạy khéo nói, nếu nghề đó có thể học được. còn Nebridius đã vì tình nghĩa chúng con mà hy sinh làm giáo phụ cho Verecundus, là công dân và là giáo sư văn pháp tại Milan. Anh là bạn chí thân của chúng con, anh đã rất ao ước và nhân danh tình nghĩa xin chúng con cho một người nào trong bọn chúng con trung thành giúp đỡ anh, vì anh cần lắm. Không phải ham mê lợi lộc lôi kéo Nebridius tới đó - vì nếu anh muốn, anh có thể lợi dụng được nhiều hơn với nền văn học của anh - nhưng là vì một chức vụ hảo tâm, người bạn rất tốt lành, rất hiền hậu của chúng con không muốn từ chối lời chúng con xin. Vả lại anh đã làm việc đó một cách khôn ngoan, anh không muốn cho kẻ cả đời này51 biết đến anh, anh tránh mọi lo nghĩ về họ, anh muốn giữ tâm hồn tự do và được thảnh thơi hết sức, để tìm tòi, đọc sách và đàm đạo, về sự khôn ngoan.

 

Ponticianus kể chuyện


14               Vậy ngày nọ - con không nhớ tại sao vắng Nébridius - khi có ông Ponticianus tới nhà thăm chúng con, con và Alypius; ông là người Phi châu, nên là đồng hương với chúng con, ông có một địa vị cao tại đền vua; con không biết ông đến có việc gì với chúng con? Chúng con đang nói chuyện với nhau, tình cờ trên chiếc bàn chơi, ở trước mặt chúng con, ông để ý đến một cuốn sách; ông cầm lấy, ông mở ra, ông thấy đó là thư thánh Phaolô; hẳn là ông không ngờ thế; ông tưởng đó là một trong những sách mà con phải hao mòn để giải thích; ông mỉm cười, nhìn con và khen con, vì ông lấy làm bỡ ngỡ đã bất ngờ tìm thấy sách đó, và chỉ có sách đó ở trước mặt con. Vì ông là một Kitô hữu ngoan đạo, năng quỳ trong nhà thờ cầu nguyện lâu dài trước mặt Chúa, là Chúa chúng con. Con bảo ông là con quan tâm đến sách đó lắm, thì ông bắt đầu kể chuyện thánh Antôn, vị tu hành ở Ai Cập, rất lừng danh nơi các tôi tớ Chúa, nhưng cho tới giờ đó, chúng con không hay biết gì hết52. Khi biết điều đó, ông kéo dài câu chuyện, để từ từ mạc khải con người vĩ đại đó cho chúng con là những kẻ không biết gì, và ông lấy làm bỡ ngỡ về sự vô thức của chúng con. Phần chúng con bỡ ngỡ là được biết những kỳ công rất xác thực, và mới mẻ, trong thời đại chúng con, mà Chúa đã làm53, nhờ đức tin chính thống, ở trong Giáo Hội Công giáo. Hết thảy chúng con đều bỡ ngỡ: Chúng con trước những việc rất lạ lùng, ông ta trước sự thiếu sót hiểu biết của chúng con.

15               Từ đó ông nói đến các tu sĩ và đời sống nực mùi thơm của Chúa, đến sa mạc đầy tu viện; về các điều đó chúng con không biết gì hết. Ngay ở ngoại ô thành Milan, có một đan viện, đầy dẫy những anh em tốt lành, dưới sự bảo trợ của Đức Ambrosiô, mà chúng con cũng không hay biết. Ponticianus tiếp tục nói, nói mãi, còn chúng con thì thinh lặng chăm chú nghe ông. Bất thần, ông kể: Một ngày nọ - con không nhớ khi nào - hẳn là lúc ông ở Trèves, ông và ba người bạn đi dạo với nhau trong các vườn giáp tường thành, đang lúc buổi chiều vua bận coi các cuộc vui ở hí trường. Tình cờ họ chia nhau đi thành hai nhóm, một người cùng với Ponticianus làm một nhóm, hai người bạn kia làm một nhóm, đi theo hướng khác nhau. Nhóm này đang đi lang thang thì gặp một cái lều, nơi ở của mấy tôi tớ có tinh thần nghèo khó của Chúa, và Nước Trời là của họ54; và hai anh thấy ở đó có cuốn truyện thánh Antôn. Một anh bắt đầu đọc, lấy làm lạ lùng, sinh phấn khởi, và vừa đọc vừa toan tính, muốn theo nếp sống đó, và bỏ nghề phục vụ thế gian, để làm tôi Chúa. vì hai anh là những công chức, mà người ta gọi là cán bộ của thượng vị. Bất thầy, được đầy lòng kính mến và sự hổ thẹn lành mạnh, anh tức bực với mình, anh nhìn người bạn và hỏi: "Xin anh nói cho tôi biết: Với tất cả những khổ cực này, chúng ta chủ trương đi tới đâu? Chúng ta tìm kiếm cái gì? Chúng ta phục vụ vua vì lý do nào? Hy vọng của chúng ta tại đền vua, có thể đi xa hơn việc trở thành những bạn hữu của thượng vị không?55 Và ở địa vị đó, có gì mà không mỏng manh và đầy nguy hiểm? Phải qua bao nhiêu nguy hiểm để tới một nguy hiểm lớn hơn? Và khi nào sẽ tới đó? Còn như làm bạn hữu với Thiên Chúa, nếu tôi muốn, thì tôi có thể làm được tức thì".

Anh nói thế, và bị xúc động vì cuộc hình thành đời sống mới, anh nhìn lại cuốn sách: Anh đọc và tâm hồn anh biến đổi, nơi chỉ có Chúa xem thấy56, và thần trí anh dứt khoát với thế gian, như chút nữa sẽ thấy. Vì đang khi anh đọc sách, và tâm tình dào dạt, thỉnh thoảng anh thở than, anh phân biệt đàng nào tốt nhất và quyết định đi theo; đã trở thành người của Chúa, anh bảo người bạn của anh: "Từ nay tôi dứt khoát với các ham vọng chung của chúng ta, tôi quyết định phục vụ Chúa, và tôi khởi sự việc đó từ lúc này, ngay ở đây. Nếu anh ngán theo tôi, thì xin anh đừng cản trở tôi". Người bạn trả lời là cùng theo anh, để được chia sẻ phần thưởng trọng hậu và phục vụ tốt đẹp như vậy. Cả hai đã xây cây tháp với kinh phí cần thiết, là từ bỏ hết mọi sự, và theo Chúa57

Lúc đó Ponticianus cùng người bạn kia đã đi dạo ở phía khác trong các vườn, đi tìm hai người này, và thấy họ ở nơi đó, thì bảo phải trở về, vì ngày đã muộn. Nhưng họ kể cho anh nghe quyết định và dự tính của họ, và làm sao ý muốn đó đã nảy nở và được củng cố như thế nào? Và họ xin anh đừng cản trở họ, nếu anh không muốn nhập bọn với họ. Hai người bạn này không thay đổi gì về tình trạng cũ, nhưng, theo Ponticianus kể, thì cảm động ra nước mắt, và thân ái chúc may mắn cho họ và xin họ cầu nguyện cho mình, rồi, lòng trí còn lê lết với những sự trần gian; hai anh trở về; còn họ, lòng trí hướng về những sự trên trời, ở lại cái lều.

Cả hai nhà tu hành này đã có vị hôn thê. Khi hai chị này nghe biết câu chuyện, cũng hiến dâng cho Chúa đức trinh khiết của mình.

 

CƠN KHỦNG HOẢNG QUYẾT ĐỊNH

 

Augustin bối rối


VII-16        Ponticianus đã kể như vậy. Còn Chúa, lạy Chúa, đang khi ông nói, thì Chúa quay mình con nhìn vào con, bằng cách kéo con ra khỏi sau lưng con, nơi con ẩn náu cho khỏi nhìn thẳng vào mình, để con thấy con xấu xa dường nào, nhăn  nhó và bẩn thỉu biết bao, nhơ nhớp và lở loét. Con đã nhìn thấy con và con lấy làm ghê tởm. Nhưng con đi đâu để trốn khỏi con được. Nếu con cố gắng quay mặt khỏi nhìn con, thì Ponticianus ở đó với câu chuyện của ông, và Chúa lại đặt con đối diện với con, Chúa áp đặt con trước mặt con, để con nhìn thấy và ghen ghét tội lỗi58. Con đã biết tội con, nhưng con đã che giấu nó, để quên nó đi.

17               Nhưng bây giờ con càng yêu quý các thanh niên mà con đã được nghe biết có lòng nhiệt thành tận hiến cho Chúa để được chữa lành, con lại càng thấy mình đang khinh chê và đáng ghét hơn, so sánh với họ. Vì bao nhiêu năm trời con đã để trôi qua - phỏng 12 năm - từ năm 29 tuổi, khi đọc sạch Hortensius của Ccéron, con đã lấy làm phấn khởi yêu sự khôn ngoan, thế mà con đã hoãn việc khinh chê khoái lạc trần gian, để rảnh rang tìm tòi điều, mà con không nói sự thủ đắc, nhưng là nguyên sự tìm kiếm đã đáng quý trọng hơn mọi kho tàng, mọi vương quốc trần gian, và mọi khoái lạc phần xác, mà chỉ cần một cử chỉ là tuốn đến chung quanh con. Nhưng ở tuổi thanh niên khốn nạn của con, khốn nạn ngay từ ban đầu tuổi xuân, con đã xin Chúa ơn trinh khiết mà rằng: "Xin ban cho con được trinh khiết và tiết độ, nhưng xin đừng cho con ngay!". Vì con sợ Chúa nghe lời con ngay và chữa con ngay khỏi bệnh sắc dục, mà con muốn thoả mãn hơn là dập tắt. Con lại đi vào những đường lối xấu xa59 của mê tín phạm thánh. Con không chắc chắn gì trong đó, nhưng con như quý nó hơn mọi giáo thuyết khác, mà con không thành thật tìm kiếm, lại còn cừu thù đả kích60.

18               Con đã tưởng rằng: Nếu con chần chừ ngày này sang ngày khác61 việc chê bỏ ham vọng trần gian để đi theo một mình Chúa, là vì con chưa nhìn thấy cái gì là chắc chắn, để hướng dẫn đời con. Ngày đó đã tới, khi con thấy mình trần trụi trước mặt con và lương tâm con cắn rứt con: "Cái lưỡi của mày ở đâu? Trước kia mày nói: Vì không chắc chắn về chân lý, mày không muốn vứt bỏ cái gánh hư ảo. Bây giờ có chân lý chắc chắn rồi, mà gánh đó còn đè nén mày, và những kẻ có hai vai tự do mới mọc cánh: Họ không phải hao mòn trong việc tìm kiếm, cũng chẳng phải suy tính những mười năm hơn".

Con âm thầm chê trách mình như vậy, và con lấy làm hổ thẹn vô cùng, đang khi Ponticianus kể chuyện. Ông kết thúc câu chuyện và thanh toán công việc, mà ông có ý đến để lo tính, rồi ông trở đi đàng ông; còn con trở lại với mình con. Con đã khiển trách con biết mấy? Với bao chiếc roi tư tưởng con đã quật vào tâm hồn con, để thúc giục nó theo con, đang khi con ra công theo Chúa? Nhưng nó tức bực, nó từ chối, mà cũng chẳng tìm lối chữa mình. Tất cả các lý lẽ của nó đều bị bác bỏ hết: Nó chỉ còn thinh lặng run sợ, nó sợ như sợ chết việc phải dứt khoát với thói quen, đang làm cho nó hư hoại đến chết.

VIII-19      Giữa cuộc đấu tranh nội bộ cam go mà con kịch liệt gây hấn với linh hồn con trong thâm cung lòng mình, làm cho mặt mày và tâm trí con tiều tuỵ, con chạy tới Alypius và kêu lên: "Khổ quá! Anh đã thấy việc xảy ra thế nào? Những kẻ vô học vùng dậy chiếm lấy Nước Trời62, còn chúng ta, với thứ khoa học không có tâm hồn, chúng ta phải đầm đìa trong xác thịt máu me! Hay là vì họ đã đi trước, mà ta hổ thẹn không muốn theo, mà lại không hổ thẹn vì không theo được họ?".

Con đã nói những lời tương đương như vậy. Sự cảm động của con đã làm cho anh không nhận ra con nữa, anh ở lặng, bỡ ngỡ, nhìn con. Vì các lời con nói có một giọng điệu khác thường. Và còn hơn lời con nói, tất cả trán con, má con, mắt con, giọng nói của con, biểu lộ cái gì đang xảy ra trong tâm hồn con.

 

Cái vườn ở Milan


Nhà chúng con ở có một cái vườn nhỏ, mà chúng con được sử dụng cũng như cả toà nhà, vì sở hữu chủ, là chủ nhà chúng con, không ở đó. Tại đây, cơn bão lòng con đã quật con xuống; không ai ngăn chặn được cuộc đấu tranh hăng hái, mà con đã gây hấn với con, cho tới kết quả mà chỉ có Chúa biết; phần con không hay biết gì hết. Con chỉ biết là sự điên rồi đó đưa con tới lý trí, và cái chết đó đưa con tới sự sống, con biết được cái gì xấu nơi con, mà không biết được sau ít lâu sẽ có cái gì tốt nơi con.

Vậy con lui ra vườn, Alypius theo sát con, và con cảm thấy như chỉ có một mình, dù có sự hiện diện của anh. Vả anh bỏ con sao được, khi con ở trong tình trạng bối rối như vậy.

Chúng con ngồi một nơi ở xa nhà hết sức. Con run rẩy cả và mình, và hết sức bực bội, vì con chưa đi tới chỗ làm đẹp lòng Chúa, và sống kết hợp với Chúa, lạy Chúa con. Các xương cốt con kêu gào con phải đi tới đó và chúng vang lên tới trời những lời chúc tụng Chúa. Mà cho được đi tới đó, không cần phải tàu bè, xe cộ hay bước đi, như từ nhà ở ra tới chỗ chúng con ngồi. Vì không những chỉ đi, mà còn đi tới Chúa, thì không cần gì khác ngoài việc muốn đi là đủ, nhưng phải là một ý muốn mãnh liệt và trọn vẹn, chứ không phải một ý muốn ốm dở, quay bên này bên nọ, và vùng vằng trong một cuộc cạnh tranh, mà một phần thì vươn lên, phần kia thì nằm xuống.

 

Những yếu đuối của ý muốn


20               Trong lúc náo động nghi nan ấy, con làm nhiều cử chỉ bề ngoài, như những lần người ta muốn làm mà không có thể, hoặc vì không có những chi thể cần thiết, hoặc chúng bị trói buộc, hay bị tê liệt vì đau yếu hay bị cản trở cách nào. Con rứt tóc, con đập vào trán, con khoanh hai tay ôm lấy đầu gối: Các cử chỉ đó con đã làm, vì con đã muốn làm. Nhưng con có thể muốn làm, mà không làm được, nếu các chi thể không cử động được theo ý con. Về các việc con làm đó, muốn và có thể là hai điều khác nhau: Con không làm điều mà con ước ao một cách hết sức nồng nhiệt, điều mà con có thể làm ngay khi con muốn làm, vì ngay khi muốn thật là muốn có hiệu lực. Ở đây, muốn gì là làm được nấy: Chính muốn là làm, tuy nhiên con không làm gì cả! Thân xác con dễ dàng vâng theo mọi ý muốn nhỏ mọn của linh hồn, để huy động chi thể làm theo mình hơn là linh hồn con vâng theo chính mình để thực hiện trong nguyên ý muốn cái ý muốn lớn của mình.

IX-21         Bởi đâu có việc kỳ dị ấy? Tại sao thế? Cúi xin lòng từ bi Chúa soi sáng và để con hỏi xem chúng có thể trả lời cho con được không, những khổ cực của nhân loại và những sầu não của con cái Ađam? Bởi đâu có việc kỳ dị ấy? Tại sao thế? Linh hồn truyền cho thân xác thì thân xác vâng theo lập tức; linh hồn truyền cho chính mình, thì nó chống cự. Linh hồn truyền cho bàn tay cử động thì công việc rất dễ dàng đến nỗi khó phân biệt được mệnh lệnh với thực hành; thế mà linh hồn là linh hồn, mà bàn tay là thân xác. Linh hồn truyền cho linh hồn muốn, tức là cho chính mình, mà nó không mà. Bởi đâu có việc kỳ dị ấy? Và tại sao thế? Như con đã nói: Linh hồn truyền cho mình muốn, nó sẽ không truyền nếu nó không muốn, thế là nó không làm điều nó đã truyền.

Thế là vì nó không muốn hoàn toàn, nên cũng không truyền khiến hoàn toàn. Vì nó chỉ truyền theo mức độ nó muốn, và nó đã không vâng theo mệnh lệnh như mức độ nó không muốn. Vì ý muốn truyền phải muốn không là ai khác mà là chính nó. Cho nên nếu nó không hoàn toàn truyền lệnh, thì lệnh nó không được thi hành. Vì nếu nó hoàn toàn ở trong mệnh lệnh, thì nó không cần truyền phải muốn, vì nó đã ở trong ý muốn rồi. Ý chí nửa muốn, nửa không muốn, đó không phải là việc kỳ dị, mà là một thứ bệnh của linh hồn. Được chân lý nâng lên, nhưng bị thói quen đè xuống, linh hồn không hoàn toàn đứng thẳng lên được. Cho nên có hai ý muốn, không bên nào là hoàn toàn, và cái gì bên này có, thì bên kia thiếu.

X-22          Chớ gì chúng bị tiêu diệt trước tôn nhan Chúa63, lạy Chúa - cũng như bị tiêu diệt những đứa hay khoác lác vu vơ và lừa đảo64 các linh hồn - những kẻ, trong khi nghị luận, nhận thấy có hai ý muốn, thì chủ trương là chúng con có hai linh hồn, mỗi linh hồn có bản tính riêng, một tốt, một xấu. Thật ra, chính họ xấu, khi chấp nhận giáo thuyết xấu xa đó; họ sẽ trở nên tốt nếu họ chấp nhận giáo lý chân thật và hoà hợp với các người chân thật, theo như tông đồ đã nói cho họ: "Trước kia, anh em là tối tăm, nhưng bây giờ là ánh sáng trong Chúa"65. Nhưng họ lại muốn là ánh sáng không phải trong Chúa, mà trong chính họ, khi họ tin rằng: Bản tính của linh hồn là Thiên Chúa. Cho nên, họ trở thành tối tăm dầy đặc hơn nữa, vì do sự kiêu ngạo ghê tởm, họ càng đi xa Chúa, là ánh sáng thật, soi cho mọi người đến trong thế gian này66. Hãy để ý đến điều các ngươi nói, và hãy lấy làm tủi hổ mà tới gần Chúa, để được soi sáng và mặt mũi các ngươi khỏi phải tủi hổ67.

Phần con, khi con suy tính có nên lập tức phục vụ Chúa con68 như con đã quyết định từ lâu, hay không, thì con vốn biết là chính con muốn, chính con không muốn: Chính là con. Con không muốn hoàn toàn, mà cũng chẳng không muốn hoàn toàn. Cho nên con chống đối với con và con chia rẽ với chính mình con; sự chia rẽ đó xảy ra bất chấp ý con, tuy nhiên điều đó không chứng tỏ là có một linh hồn nào khác bản tính ở trong con, mà là một hình phạt con phải chịu. Cho nên đó không phải là công việc của con, là là của sự tội ở trong con69, để phạt con về một tội đã phạm trong hoàn cảnh được tự do hơn, vì con là con cái Ađam.

23               Đàng khác, nếu có bao nhiêu ý muốn nghịch nhau là có bấy nhiêu bản tính khác nhau, thì không phải chỉ có hai bản tính, mà phải nhận là có nhiều hơn. Nếu có kẻ tự hỏi: Nên đi dự buổi họp của họ70 hay đi xem kịch. Họ liền kêu lên: "Đây là hai ý muốn, một tốt đưa đi bên này, một xấu đưa tới bên kia. Chẳng vậy, thì bởi đâu mà có sự do dự của hai ý muốn chống đối nhau như vậy?". Phần con, con cho cả hai ý muốn đó là xấu, ý muốn đưa tới họp và ý muốn đưa tới kịch trường. Còn họ, họ chỉ tin ý muốn đưa tới họp là tốt. Sao vậy? Giả như có một người trong chúng con, trong khi có hai ý muốn tương phản, suy tính và do dự không biết nên đi xem kịch hay đi nhà thờ chúng con? Thì hẳn là bọn họ cũng phải do dự, không biết trả lời làm sao cho nố đó? Hoặc họ sẽ thú nhận - là điều họ không muốn - rằng: Ý muốn tốt đưa tới nhà thờ chúng con, cũng như đưa tới nhà thờ của họ, những kẻ đã thấm nhiễm các mầu nhiệm của họ và bị bó buộc phải tuân giữ. Hoặc họ cho là có hai bản tính xấu, hai linh hồn xấu chống đối nhau trong một người, thì họ phản lại điều họ thường nói là có một bản tính tốt và một bản tính xấu. Hoặc họ trở lại với chân lý và nhìn nhận rằng: Khi người ta suy tính, thì chỉ có một linh hồn do dự giữa hai ý muốn đối lập.

24               Cho nên khi họ nhận thấy hai ý muốn chống đối nhau trong một người, thì họ đừng nói rằng: Có hai linh hồn đối lập chống lại nhau, một tốt, một xấu, được hình thành do hai bản thể đối lập, do hai nguyên lý đối lập. Vì Chúa là Đấng chân thật71 Chúa phản đối họ, Chúa bác bẻ họ, Chúa làm họ phải bẽ mặt.

Về vụ hai ý muốn xấu, tỉ dụ có ai suy tính xem nên giết người bằng thuốc độc hay bằng dao găm? Nên chiếm đoạt tài sản của người này hay người kia, vì không thể chiếm đoạt được cả hai? Nên rộng tay mua vui hay vì hà tiện giữ lại tiền bạc? Nên đi xem xiếc hay xem kịch vì cả hai cũng trình diễn trong một ngày? Hay (con thêm nố thứ ba) đi ăn trộm nhà kia, vì có dịp tốt? Hay (con thêm nố thứ tư) đi phạm tội ngoại tình, vì có sự dễ dàng? Nếu tất cả các việc có thể làm đó đều được ước muốn cả, cũng xảy ra trong một lúc, mà không thể thực hiện được tất cả thì chúng xâu xé linh hồn bởi cuộc chống đối giữa bốn ý muốn hay nhiều hơn nữa, vì có nhiều sự được ước muốn. Thế mà thường họ không nói đến nhiều bản thể đối lập như vậy.

Về các ý muốn tốt cũng thế. Con xin hỏi họ: Thích đọc thư thánh Phaolô có tốt không? Thích hát một thánh vịnh về tiết độ có tốt không? Thích thú giải Phúc Âm có tốt không? Họ sẽ trả lời cho từng câu hỏi đó là tốt. Vậy thì nếu tất cả các việc đó cũng được ưa thích như nhau và trong một lúc, thì há chẳng phải những ý muốn khác nhau giằng kéo tâm hồn người ta, khi phải suy tính nên chọn việc nào, hay sao? Các ý muốn đó đều tốt cả, mà lại đối chọi nhau, cho đến khi có một sự lựa chọn, thì tất cả ý muốn trước đây bị chia rẽ sẽ hợp thành một ý muốn.

Cũng vậy, khi sự vĩnh cửu làm cho chúng con ưa thích những sự cao thượng và khoái lạc của những sự trần gian ghìm giữ chúng con tại thế, thì cũng là một linh hồn muốn các sự kia và các sự này, nhưng không phải với toàn thể ý chí, cho nên nó bị chia rẽ khổ cực lắm, đang khi chân lý làm cho nó quý chuộng sự này, thì thói quen cản trở nó từ bỏ sự kia.

 

Quyết định tối hậu


XI-25         Tình trạng của con là thế: Bệnh hoạn, khổ não, con tự tố cáo mình con một cách cay nghiệt hơn bao giờ hết. Con vùng  vằng, giãy giụa trong xiềng xích của con, cho đến khi bẻ gẫy được hoàn toàn: Nó còn cầm giữ con hờ hờ vậy, nhưng con vốn bị nó cầm giữ. Còn Chúa, lạy Chúa, với lòng từ bi nghiêm khắc Chúa thúc bách trong thâm tâm con, Chúa năng cho con những trận đòn sợ hãi và xấu hổ, kẻo con lại chần chừ không muốn bẻ gẫy cái xích yếu ớt và mỏng manh còn lại, để nó lại được thêm mạnh và trói buộc con chặt chẽ hơn chăng?

Con tự bảo trong lòng rằng: "Chấm dứt ngay đi, chấm dứt ngay đi". Lời nói đưa con tới quyết định. Con sắp hành động nhưng con chưa hành động. Tuy con không ngã lại trong vực thẳm xưa, nhưng con đứng gần vực thẳm để xả hơi. Con lại cố gắng, và con gần đi tới, gần tới, vâng, con sắp tới đích và nắm được nó. Nhưng không, con chưa tới, con chưa tới đích, cũng chưa nắm được nó, con ngần ngại chết cho sự chết, và sống cho sự sống. Sự xấu kinh niên có sức mạnh trên con hơn là sự lành mới mẻ đối với con. Cái giây phút mà con sẽ được thay đổi càng gần tới, càng làm cho con sợ hãi; nó không làm cho con lùi bước, cũng chẳng đổi chiều, nhưng là lưỡng lự.

26               Cái gì cầm giữ con, đó là những nhảm nhí là nhảm nhí, những hư vô là hư vô, những bè bạn cũ xưa, chúng khẽ kéo áo xác thịt con và thì thầm: "Anh bỏ chúng em hay sao? Tại sao vậy? Từ phút này, chúng em sẽ không còn được ở với anh nữa cho đến muôn đời sao? Và từ phút này, anh không còn được phép làm cái này, cái nọ cho đến muôn đời sao?"72. Và những gì chúng khêu gợi cho con, mà con gọi là cái này cái nọ, những gì chúng khêu gợi cho con, lạy Chúa, xin lòng từ bi Chúa xua đuổi các thứ đó khỏi linh hồn tôi tớ Chúa! Vâng, chúng khêu gợi cho con những sự nhơ bẩn, những sự xấu xa dường nào! Nhưng con chỉ còn nghe thấy giọng yếu ớt của chúng, và chúng không ra trước mặt con như những người phản đối ra mặt, chúng chỉ lẩm bẩm sau lưng; và khi con muốn lìa xa chúng, thì chúng lén chọc con, để con quay mặt lại. Chúng giữ con chậm lại, ngần ngại xua đuổi chúng, dứt khoát với chúng, để đi tới nơi con được kêu gọi, thì thói quen hung dữ bảo con: "Không có chúng, mi tưởng có thể sống được ư?".

27               Nhưng thói quen đó chỉ nói với con như vậy một cách uể oải. Vì về phía con quay mặt nhìn và đang lo sợ đi tới, đức tiết độ đã xuất hiện với vẻ tươi đẹp trinh trong, bình tĩnh, và mỉm cười, không có gì là trơ tráo; nhã nhặn mời con hãy đến, đừng do dự; nó giơ hai tay hiền hậu, đầy những gương lành, để đón con và ôm lấy con. Tại nơi đây, có biết bao nhiêu trẻ em, thanh nữ; tại đây có nhiều thanh niên và mọi lứa tuổi và các bà goá đứng đắn, các bà già đồng trinh; và nơi các tâm hồn đó, đức tiết độ không hề son sẻ, nhưng là người mẹ sung sướng đông con73 mà Chúa, là lang quân, lạy Chúa, Chúa đã ban cho nó.

Với một giọng điệu mỉa mai để khích lệ, nó như bảo con: "Ngươi không thể làm được như các trẻ nam, các phụ nữ kia sao? Hay là các trẻ nam và các phụ nữ đã có thể làm được tự sức mình, chứ không phải nhờ vào Chúa là Thiên Chúa của chúng sao? Chính Chúa là Thiên Chúa của chúng đã trao ta cho chúng. Tại sao ngươi cậy vào mình ngươi, để không đứng vững được? Hãy phó thác ngươi cho Chúa, đừng sợ; Người sẽ không lẩn trốn để ngươi sa ngã đâu: Hãy mạnh dạn phó thác ngươi cho Người, Người sẽ đón nhận ngươi và sẽ chữa lành ngươi". Con hết sức xấu hổ, vì con còn nghe thấy những tiếng xì xèo của những sự nhảm nhí và con chần chừ, lưỡng lự. Đức tiết độ lại như bảo con: "Đừng có nghe những lời cám dỗ xấu xa của xác thịt ngươi ở dưới đất này, để hãm dẹp nó. Xác thịt sẽ kể cho ngươi những khoái lạc, nhưng thấm vào đâu với Lề luật Chúa74, là Thiên Chúa ngươi". Tất cả cuộc tranh luận này trong lòng con chỉ là một cuộc quyết đấu giữa chính mình con với chính mình con. Còn Alypius, ngồi sát bên con, thinh lặng chờ xem kết quả của cuộc khủng hoảng bất thường của con.

XII-28        Nhưng khi từ đáy biển hồn con, một cuộc suy tư sâu rộng moi móc và chồng chất sự khốn nạn của con trước mắt lòng con75, thì một cơn giông tố lớn nổi lên, mang theo một trận mưa tràn trề nước mắt. Để tiên tan cơn giông tố với bao tiếng gầm thét của nó, con chỗi dậy, lìa bỏ Alypius - sự hiu quạnh xem ra thuận tiện cho việc than khóc được tự do hơn - và con lánh đi xa hơn, để cả sự hiện diện của anh cũng không thể trở ngại cho con.

Tình trạng con lúc đó là thế, và anh cũng cảm thấy, vì con không biết lúc đứng dậy ra đi, con đã buộc miệng nói lời gì có giọng điệu như khóc lóc. Anh ở lại chỗ chúng con đã ngồi, và ngạc nhiên lắm. Còn con, con đi nằm dưới một cây vả, không biết cách nào, và con thả cửa cho nước mắt và các mạch mắt con tuôn chạy như dòng suối, một hy lễ đáng cho Chúa chấp nhận76, lúc đó con đã nói nhiều với Chúa, không phải nguyên văn, nhưng có ý nghĩa như sau: "Còn Chúa, lạy Chúa, cho đến bao giờ nữa?77 Cho đến bao giờ, Chúa còn nóng giận? Xin đừng nhớ đến tội cũ của chúng con"78. Vì con cảm thấy như các tội đó còn cầm giữ con. Con nức nở kêu lên: "Bao lâu nữa, bao lâu nữa, ngày mai và ngày mai chăng? Sao không lập tức? Sao ngay giờ này, không chất dứt sự tủi nhục của con?".

 

Cầm lấy, đọc đi!


29               Con nói các lời đó và con khóc lóc, hối hận đắng cay trong lòng. Thì bất thần con nghe thấy từ nhà bên cạnh, có tiếng hát đi hát lại, như một rẻ nam hay trẻ nữ: "Cầm lấy, đọc đi! Cầm lấy, đọc đi!". Lập tức mặt con biến sắc, con hết sức nhớ ra xem có phải là một điệp khúc, mà trẻ con thường hát trong một trò chơi nào đó. Nhưng con không nhớ ra được là đã nghe thấy như vậy ở đâu. Con cầm hãm nguồn nước mắt lại, và đứng dậy. Con chỉ có thể cắt nghĩa được rằng: Đó là mệnh lệnh Chúa truyền cho con phải mở sách Tông đồ và đọc đoạn thứ nhất con gặp. Vì con mới nghe về thánh Antôn, là do một bài Phúc Âm tình cờ ngài nghe được, ngài đã cho là bài đó chỉ về ngài: "Hãy về bán mọi của cải ngươi có, bố thí cho kẻ nghèo khó, để có kho tàng trên trời, rồi đến theo Ta"79. Và lời đó lập tức đã làm cho ngài trở lại với Chúa.

 

Chung cục


Vậy con vội vã trở lại chỗ Alypius ngồi, vì khi đứng dậy ra đi, con đã để sách Tông đồ lại đó. Con cầm lấy, mở ra và đọc thầm đoạn thứ nhất mắt con bắt gặp80: "Không phải trong chè chén và say sưa, trong dâm dật à phóng đãng, trong kình địch và ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô và đừng lo toan về xác thịt cho thoả các đam mê"81. Và con không muốn đọc thêm nữa, vì không cần. Thật vậy, con vừa đọc xong câu đó thì như có một ánh sáng an bình tràn vào lòng con, làm tan biến mọi tối tăm của sự nghi nan.

 

Alypius hợp với Augustin


30               Bấy giờ con lấy ngón tay hay là vật gì khác đánh dấu đoạn sách đó, rồi gấp nó lại, và, mặt mày tươi tỉnh, con kể hết cho Alypius nghe. Nhưng anh cũng kể cho con những gì đã xảy ra nơi anh - mà con không biết. Anh xin cho anh xem câu sách con đã đọc; con chỉ cho anh và anh đã đọc xa hơn con đã đọc. Và con không biết lời nào tiếp theo. Tiếp theo là lời này: "Anh em hãy tiếp nhận những kẻ yếu đức tin"82. Anh cho câu đó có ý nói cho anh và anh đã thú với con như vậy. Được củng cố bằng những lời khuyến cáo đó trong quyết định tốt lành thánh thiện và rất thích hợp với phẩm hạnh tốt lành của anh, mà con rất xa cách từ lâu xưa, anh đã kết hợp với con không chút nghi nan bối rối.

 

Sự vui mừng của Monica


Chúng con bỏ đó mà đi tới mẹ con, và kể cho người biết, người vui mừng. Chúng con đã kể công việc đã xảy ra như thế nào: Người hân hoan, đắc chí và tán tụng Chúa, Đấng "quyền năng làm được mọi sự một cách phong phú hơn điều chúng con cầu xin và nghĩ tưởng"83, vì nơi con Chúa đã ban cho người nhiều hơn người đã xin, qua những lời than thở và bao nước mắt thống khổ. Vì Chúa đã làm cho con trở lại với Chúa một cách hoàn toàn, đến nỗi con không còn mơ màng gì đến vợ con hay một hy vọng nào ở đời này nữa, con đã đứng trên "luật đức tin", mà bao năm trước đây, Chúa đã cho người thấy trong một thị kiến84. Chúa đã đổi tang tóc của người ra vui sướng dồi dào85 quá điều người ước ao, và quý giá, thanh tịnh hơn niềm vui mừng mà người chờ đợi ở con cháu phần xác của con.
 
*****************

 

QUYỂN CHÍN: SAU CUỘC TRỞ LẠI

 

Kinh tạ ơn


I-1              Ôi, Chúa, con là tôi tớ Chúa và là con của nữ tì Chúa. Chúa đã tháo gỡ xiềng xích cho con; con sẽ dâng Người lễ tế tạ ơn1. Lòng con và lưỡi con hãy ca tụng Chúa và các xương cốt con hãy kêu lên: Giavê, nào ai giống được như Người?2. Chúng hãy kêu lên và xin Chúa hãy trả lời con và nói cho linh hồn con: "Ta đây là sức tế độ cho ngươi"3.

Trước kia con là ai, là người thế nào? Có gì mà không xấu xa trong việc con  làm, hoặc không trong việc làm, thì trong lời con nói, hoặc không trong lời nói, thì trong ý muốn của con? Phần Chúa, lạy Chúa tốt lành và nhân hậu, Chúa đã nhìn thấy sự chết sâu thẳm của con và với cánh tay phải Chúa đã tát cạn một vực sâu hư hoại từ đáy lòng con. Và kết quả là con không còn muốn điều gì Chúa không muốn và chỉ muốn điều Chúa muốn mà thôi.

Nhưng ý chí tự do của con ở đâu trong quãng thời gian lâu dài như vậy? Trong chốc lát, nó đã được kéo ra khỏi nơi ẩn náu kín đáo, bí nhiệm nào, để con có thể cúi đầu dưới ách êm dịu của Chúa và kề vai dưới gánh nhẹ nhàng của Chúa4, lạy Chúa Giêsu Kitô, là Đá tảng và là Đấng bầu chữa con5. Đột nhiên con cảm thấy sung sướng dường nào, vì mất những khoái lạc giả trá. Trước đây con đã sợ mất chúng, thì lúc đó con lại được vui mừng vứt bỏ chúng đi.

Vì Chúa đã vứt bỏ chúng xa con, Chúa là khoái lạc chân thật và tuyệt vời. Chúa đã vứt bỏ chúng và đã thay thế chung, Chúa còn êm dịu hơn mọi khoái lạc, nhưng không cho xác thịt và máu me; còn sáng láng hơn ánh sáng, nhưng lại nội tại hơn mọi bí ẩn; Chúa còn cao trọng hơn mọi vinh dự, nhưng không cho những kẻ tự đưa mình lên. Tâm hồn con s1 được giải thoát khỏi những lo lắng tiêu hao về ham danh, ham lợi, ham đầm đìa và mơn trớn con ghẻ nhục dục; con được thỏ thẻ với Chúa, là ánh sáng, là sự giàu có, là phần rỗi của con, lạy Chúa Trời con.

 

Augtin từ chức giáo sư tu từ


II-2   Con đã quyết định trước tôn nhan Chúa6 là không rút lui một cách rầm rộ, nhưng nhẹ nhàng từ bỏ chức vụ của cái lưỡi ở cái chợ bẻm mép, kẻo còn có những trẻ con, không màng chi đến luật Chúa7 và sự bình yên của Chúa, mà chỉ nghĩ đến những ham mê giả dối và những cuộc đấu khẩu ở hội trường, còn mua được ở miệng con vũ khí để thoả mãn sự điên cuồng của chúng.

Cũng may là chỉ còn một ít ngày trước kỳ nghỉ hái nho, con quyết định để chờ đợi ra đi như thường lệ, và vì đã được Chúa cứu chuộc, con sẽ không trở lại để bán mình đi nữa.

Đó là ý định của con trước mặt Chúa, còn trước mặt người đời, không ai biết, chỉ trừ những bạn thân. Và chúng con đã bảo nhau đừng ai tiết lộ cho người nào khác. Mặc dầu từ thung lũng khóc lóc8 chúng con trèo leo và hát bài ca ngợi lên Đền9, Chúa cũng ban cho chúng con những mũi tên nhọn và những cục than hồng10, chống lại với cái lưỡi quỷ quyệt, lấy cớ khuyên nhủ để chống đối, lấy cớ yêu thương để nuốt trôi, như người ta quen nuốt trôi món ăn người ta ưa thích.

 

Sao phải rút lui cách êm dịu vậy?


3                 Chúa đã bắn tên lửa bác ái Chúa vào lòng con và các lời Chúa ghim vào ruột gan con và các gương lành của những kẻ Chúa đã làm cho từ tối tăm nên sáng láng, từ trong kẻ chết được sống lại, chồng chất trong tâm tư chúng con, để thiêu đốt và huỷ diệt sự suy nhược của chúng con, để chúng con khỏi chiều theo những sự hèn hạ, đã phấn khích chúng con đến nỗi mọi hơi thở của cái lưỡi chống đối quỷ quyệt không thể nào dập tắt được, mà còn kích thích sự nhiệt thành của chúng con.

Tuy nhiên, vì danh Chúa được tôn sùng11 khắp mặt đất, nên khắp nơi cũng sẽ có những người ca tụng quyết định và nếp sống của chúng con. Cho nên có vẻ khoe khoang, nếu không chờ đợi kỳ nghỉ gần kề. Vì chức vụ của con là một công chức, được mọi người chú ý, nên từ bỏ vội vã và trước kỳ nghỉ mùa hái nho gần kề, là làm cho mọi người để ý đến quyết định của con, và làm cho người ta bàn tán như thể con muốn tỏ ra là một con người quan trọng. Ích gì cho con, để cho thiên hạ bàn tán à tranh luận về tâm tư bí ẩn của mình và để cho việc lành của mình bị nhục mạ?12

 

Sức khoẻ là lý do chính đáng


4                 Hơn nữa, trong chính mùa hạ này, việc dạy học quá vất vả đã làm cho phổi con yếu đi, khó thở, và sự đau ngực chứng tỏ có vết thương, con không nói ra được những tiếng rõ ràng và lâu. Cho nên ban đầu con chán nản, vì hầu như nhu cầu bắt buộc phải từ bỏ gánh dạy học, hay nếu con có thể được chữa khỏi và lấy sức lại, thì cũng phải thôi dạy một thời gian. Nhưng khi được chớm nở và củng cố cái ý chí hoàn toàn phải "dừng lại và nhận biết Chúa là Thiên Chúa"13, thì, lạy Chúa, có Chúa biết, con lấy làm vui sướng, là còn có một lý do chính đáng để làm dịu sự bất bình của những người vì lợi ích của con cái họ, không hề muốn cho con được làm chủ đời mình.

Vậy được tràn trề sự vui mừng đó, con chịu đựng cho thời gian ấy trôi qua - có lẽ là 20 ngày gì đó - Tuy nhiên, con lấy sự đó làm nặng nề lắm, vì lòng ham lợi xưa kia giúp con mang gánh nặng, đã rút lui, và con sẽ phải khổ cực, nếu sự nhẫn nại không thay thế nó.

Một trong các tôi tớ Chúa, trong anh em con, có thể bảo là con đã phạm tội, vì sau khi đã hoàn toàn ưng thuận làm tôi Chúa, mà còn ngồi lại, dù là một tiếng đồng hồ, trên giảng đài nói dối. Con không tranh luận với họ. Nhưng Chúa, lạy Chúa rất nhân từ, chớ thì Chúa đã chẳng tha thứ cho con cái tội đó cùng với muôn vàn tội khác ghê tởm và thảm khốc, trong nước thánh tẩy hay sao?

 

Tâm trạng của Verecundus


III-5 Chính hạnh phúc của chúng con đây, làm cho Verecundus băn khoăn phiền muộn, vì những mối dây ràng buộc anh rất chặt chẽ với chúng con làm cho anh thấy như anh sắp phải loại khỏi nhóm chúng con. Lúc đó anh chưa phải là Kitô hữu, tuy vợ anh đã có đạo, mà lại chính người vợ là cản trở lớn nhất làm cho anh chậm chạp đi vào con đường chúng con đã dấn thân. Anh nói là anh không trở nên Kitô hữu cách nào khác mà anh không thể có được.

 

Anh để nhà cho Augustin sử dụng


Tuy nhiên, anh vui vẻ hiến nhà của anh cho chúng con ở bao lâu chúng con muốn ở. Chúa sẽ trả công cho anh, lạy Chúa, trong ngày kẻ lành sống lại14, vì Chúa đã ban cho anh cùng một số phận như họ15. Thật  vậy, lúc chúng con vắng mặt, đang ở Roma, thì anh lâm bệnh, và trong khi đó anh trở lại Kitô giáo với một đức tin mạnh  và anh đã qua khỏi đời này. Như vậy, chẳng những Chúa thương anh, mà cả chúng con nữa, kẻo khi nghĩ đến một người bạn nhân hậu tuyệt hảo như vậy, đối với chúng con, mà chúng con đã không thể đưa vào đoàn chiên của Chúa, thì chúng con sẽ khốn khổ lắm.

Chúng con cảm tạ Chúa, ôi Chúa chúng con. Chúng con thuộc về Chúa. Các lời khuyên nhủ và những sự yên ủi của Chúa chứng tỏ điều đó: Trung thành với lời hứa và để bù lại biệt thự Cassiciacum16 của anh, nơi chúng con xa lánh sự nóng nực của trần gian để được nghỉ ngơi trong Chúa, Chúa đã tha thứ tội cho anh ở đời này và đã ban cho anh được mát mẻ nơi vườn xanh tươi vô tận, trên núi màu mỡ, núi của Chúa, núi phì nhiêu17.

 

Nebridius thế nào?


6                 Vậy, lúc đó Vercundus khổ não, thì Nébridius lại được chung vui với chúng con. Lúc đó anh chưa phải là Kitô hữu, anh đã để cho mình sa vào cái hố sai lầm rất tai hại, làm cho anh tin rằng: Con chân thật của Chúa chỉ có xác thịt bề ngoài mà thôi. Nhưng trên đường giải thoát khỏi sai lầm đó, hoàn cảnh của anh là thế này: Anh chưa được thụ giáo về các mầu nhiệm của Giáo Hội Chúa, nhưng anh hăng say tìm tòi chân lý. Và ít lâu sau cuộc trở lại của chúng con và cuộc tái sinh trong phép rửa tội của Chúa, Chúa đã giải thoát anh khỏi cái xác thịt đó, để anh trở thành người Công giáo sốt sắng, phục vụ Chúa trong đức trinh khiết trọn hảo và đức tiết độ, tại Phi châu, giữa bà con của anh, vì anh đã làm cho toàn thể gia đình anh trở lại Kitô giáo.

Bây giờ anh sống trong lòng Abram, dù câu đó được chú giải thế nào đi nữa18; vâng, chính ở nơi đây đang sống anh Nébridius của con, người bạn hiền lành của con, anh đã từ người nô lệ được giải phóng trở nên nghĩa tử của Chúa, lạy Chúa: Anh đang sống ở nơi đó. Vì có nơi nào khác xứng đáng với linh hồn như vậy không? Anh sống ở nơi, mà trước kia anh đã đặt nhiều câu hỏi với con người hèn mọn và thiếu kinh nghiệm, là con. Bây giờ anh không còn phải kề tai vào miệng con nữa, nhưng anh sẽ kề miệng linh hồn anh vào mạch của Chúa và tha hồ uống sự khôn ngoan theo lòng mong ước, trong hạnh phúc vô cùng. Nhưng con tưởng anh sẽ không say mê đến nỗi quên bỏ con, vì Chúa, lạy Chúa, Đấng mà anh uống, cũng vốn nhớ đến chúng con luôn.

Vậy hoàn cảnh của chúng con lúc đó là thế: Chúng con yên ủi Verecundus, buồn phiền sự trở lại của chúng con, nhưng vốn duy trì tình nghĩa cũ; chúng con khuyên anh hãy trung thành chu toàn nhiệm vụ bậc mình, nghĩa là cuộc đời đôi bạn. Còn Nebridius, chúng con chờ xem khi nào anh theo chúng con. Điều đó có thể rất gần, và anh sẽ thực hiện lúc này lúc nọ, khi các ngày đó qua đi hết. Chúng có vẻ lâu dài quá, vì con ước muốn được rảnh rang mà ca hát hết tâm tình: Lòng con đã nói với Chúa: Con đã tìm kiếm nhan Người, nhan Người, lạy Chúa, con tìm kiếm19.

 

Augustin ở Cassiciacum


IV-7 Đã tới ngày con được thực sự giải thoát khỏi cái nghề dạy học mà con đã được giải thoát bằng tư tưởng. Và công việc đã thành. Chúa đã giải thoát cái lưỡi con, cũng như đã giải thoát lòng con. Con vui vẻ ca tụng Chúa và trẩy đi biệt thự với các người nhà con.

Tại đây, con đã viết lách những gì thì cũng đã là để phục vụ Chúa, nhưng hãy còn sặc mùi kiêu hãnh của nhà trường, như của một người chạy đua trong lúc nghỉ hơi.  Điều đó được chứng tỏ trong cách sách "Đối thoại" (Dialogues) với các bạn hữu có mặt hay với riêng một mình con trước mặt Chúa, còn các cuộc tranh luận với Nebridius vắng mặt, thì đã có các thư.

Khi nào con sẽ có đủ thời giờ để ôn lại tất cả các ơn cao cả Chúa đã ban cho con trong thời kỳ đó, nhất là con lại phải vội vã nhắc đến những ơn lành cao trọng hơn nữa (Trí nhớ nhắc nhở con và con lấy làm sung sướng xưng tụng với Chúa là Chúa đã dùng những mũi nhọn bí mật nào để hoàn toàn khuất phục con; Chúa làm sao để bạt các tư tưởng kiêu căng như núi đồi của con, hòng san bằng hữu thể của con, nắn thẳng những đường lối khúc khuỷu của con và ổn định những sự thô lỗ của con?20 Và Chúa đã làm thế nào để cả Alypius, người anh em của lòng con, cũng quy phục thánh danh Con duy nhất của Chúa, là Chúa và là Đấng cứu chuộc chúng con21, thánh danh mà ban đầu anh khinh bỉ, không muốn được xen vào sách vở của chúng con. Vì anh ưa thích chúng xông mùi cây hương nam của nhà trường, mà Chúa đã phá gẫy22, hơn là những cây cỏ lành của Giáo Hội, có sức chống lại các rắn độc.

 

Cảm động của Augustin khi đọc Thánh vịnh thứ IV


8                 Con đã kêu lên Chúa những lời nào, khi con đọc Thánh vịnh của Đavít; đó là những bài hát của đức tin, những tiếng nói của lòng đạo, có khả năng xua đuổi tinh thần kiêu ngạo. Còn mới mẻ trong tình yêu của Chúa, và là dự tòng, con nghỉ ngơi tại biệt thự cùng với Alypius, cũng là dự tòng như con. Mẹ con sống bên cạnh chúng con: Do y phục người là nữ giới, nhưng đức tin người là nam nhân, với sự bình tĩnh của tuổi già, sự yêu thương của người mẹ, lòng đạo đức của Kitô hữu! Vâng, con đã kêu lên Chúa những lời nào, khi con đọc các Thánh vịnh đó, chúng đã làm cho con cháy lửa mến Chúa làm sao, và con sốt sắng muốn đọc các Thánh vịnh đó cho cả thế giới, nếu con có thể, để hạ bệ sự kiêu ngạo của nhân loại. Nhưng chúng đã được ca hát khắp mặt đất, và không ai thoát khỏi được sự nóng nực của Chúa23. Con rất đau xót và tức bực với bè Manès, mà lại thương hại họ, vì họ không biết các mầu nhiệm, các linh dược ấy, họ lại điên cuồng chống lại thuốc giải độc, có thể làm cho họ được lành mạnh! Con muốn họ có mặt, ở nơi nào đó, gần con, mà con không biết họ có mặt, để họ nhìn xem mặt con và nghe giọng điệu của con, khi con đọc Thánh vịnh thứ IV, trong lúc thanh nhàn đó, và để họ hiểu Thánh vịnh đó làm cho con ra thế nào: Khi con kêu cầu Chúa, và Chúa đã nhận lời con, lạy Chúa công chính của con; trong buổi ngặt nghèo Chúa đã mở rộng lối thoát cho con. Xin hãy thương con, lạy Chúa, và nghe lời con khẩn cầu24. Chớ gì họ nghe thấy con, mà con không biết là họ nghe, kẻo họ tưởng rằng: Những lời con nói chen kẽ với lời Thánh vịnh là có ý nói cho họ. Vì thật ra, con sẽ không nói các lời đó và nói giọng điệu đó, nếu con cảm thấy là họ nghe con và thấy con; về phần họ cũng vậy, nếu con có nói như thế, thì họ cũng không coi các lời đó như con nói với con và cho con trước mặt Chúa, trong tình yêu thân mật của lòng con.

9                 Con rùng mình vì sợ hãi, đồng thời lại nồng nàn hy vọng và sung sướng trong tình nhân hậu của Chúa25, lạy Chúa là Cha con. Và tất cả các điều đó được biểu lộ qua con mắt và tiếng nói của con, khi Thần linh tốt lành của Chúa quay về chúng con và bảo chúng con: "Hỡi con người, cho đến bao giờ lòng còn chai đá? Sao lại ưa thích hư không và mải tìm điều gian dối?"26. Thật vậy, cónw ưa thích hư không và mải tìm điều gian dối. Nhưng Chúa, lạy Chúa, Chúa đã tuyên dương Đấng thánh của Chúa, đã cho Ngài từ trong kẻ chết sống lại và đã được ngự bên hữu Chúa, để từ trời cao Ngài sai Đấng Ngài đã hứa đến, là Đấng yên ủi, là Thần Chân Lý27. Và Ngài đã sai Người đến, nhưng con không hay biết. Ngài đã sai Người đến và Ngài đã được tuyên dương, đã từ trong kẻ chết sống lại, và lên trời. Vì trước kia, nếu Thiên Chúa chưa được ban cho là vì Chúa Giêsu chưa được tuyên dương28. Tiên tri đã kêu rằng: Cho đến bao giờ lòng còn chai đá? Sao lại ưa thích hư không và mải tìm điều gian dối? Hãy biết rằng: Chúa đã tuyên dương Đấng thánh của Người29. Tiên tri kêu: Cho đến bao giờ? Tiên tri kêu: Hãy biết rằng! Thế mà con, trong bao thời gian, không biết gì hết, con đã ưa thích hư không và mải tìm điều gian dối! Cho nên, con nghe thấy mà run sợ, vì nhớ lại là con cũng đã giống như những kẻ mà các lời đó nói cho. Những ảo tưởng mà con đã coi như chân lý, chỉ là hư không và gian dối. Con đã thốt ra nhiều lời than thở thâm trầm và thống thiết, khi nhớ lại hoàn cảnh khốn khổ của con. Chớ gì họ nghe thấy tiếng con than thở, những kẻ, cho đến lúc này, hãy còn ưa thích hư không và mải tìm điều gian dối! May ra họ bị xúc động và mửa sự sai lầm của họ ra chăng, và Chúa nghe lời họ khi họ kêu tới Chúa, vì Đấng cầu bầu cùng Chúa cho chúng con30 đã chết cái chết thật của xác thịt cho chúng con.

10               Con đã đọc lời "Hãy nổi giận, và đừng phạm tội"31, và con cảm động dường nào, lạy Chúa con, vì con đã học cho biết tức giận với mình con, về những tội quá khứ, sẽ khỏi còn phạm tội về sau. Và tức giận với mình là phải, vì đâu có phải một bản tính thuộc dòng giống tối tăm nào đã dùng con mà phạm tội, theo chủ trương của những kẻ không tức giận với mình họ, và tích góp sự giận dữ cho mình trong ngày nghĩa nộ, ngày biểu lộ lý đoán công bình của Chúa?32 Đàng khác, các sự lành của con không còn ở bên ngoài, và con cũng chẳng còn tìm chúng bằng con mắt xác thịt và ở dưới gầm trời. Nhưng kẻ muốn tìm hạnh phúc của họ ở bên ngoài, thì sẽ trở nên trống rộng và để cho tâm hồn bị phân tán trên các vật hữu hình và chóng qua33 và tư tưởng nghèo đói của họ chỉ như được liếm các hình ảnh của các sự vật mà thôi. Ôi, nếu họ mỏi mệt vì đói lả và kêu lên rằng: "Ai sẽ cho ta thấy hạnh phúc thật?". Thì chúng con hãy trả lời cho họ, và ước gì họ nghe thấy: "Ánh sáng tôn nhan Người, lạy Chúa, đã in dấu trên chúng con!"34. Vì không phải chúng con là ánh sáng, soi cho mọi người35, nhưng chúng con được Chúa soi cho, để chúng con trước kia là tối tăm, bây giờ trở thành ánh sáng trong Chúa36. Ôi nếu họ nhìn thấy trong thâm tâm họ ánh sáng vĩnh cửu, mà vì đã được nếm, nên con lấy làm tức bực không thể cho họ thấy được, khi họ chỉ đưa đến một tấm lòng lìa xa Chúa, và chỉ chăm chú vào những sự bề ngoài, và bảo con rằng: "Ai sẽ cho ta thấy hạnh phúc thật?". Chính tại đây mà con tức bực với mình con; vâng, tại thâm tâm con, mà con hối hận, mà con hy sinh sát tế con người cũ của con và, hy vọng vào Chúa, con bắt đầu thực tập việc canh tân của con. Tại đây, con bắt đầu cảm thấy sự êm dịu của Chúa và "Chúa đã đặt nơi lòng con niềm hoan lạc". Con đã phải kêu lên khi đọc lời này bên ngoài mà nhận thấy được thực hiện bên trong. Con cũng chẳng muốn bị phân tán trên các của cải trần gian, vừa phí thời giờ, vừa bị thời giờ tiêu hao, khi mà con đã có nơi Đấng đơn thuần vĩnh cửu thứ "lúa" khác, "rượu" khác, và "dầu" khác37.
11               Câu sau đây đã làm cho con phải lớn tiếng kêu lên từ đáy lòng con: Ôi, trong sự bình an của Chúa! Ôi trong chính hữu thể của Chúa! "Ôi Thánh vịnh nói gì: "Vừa nằm, tôi đã ngủ?". Vì ai dám chống lại chúng con, khi sẽ thực hiện lời đã chép rằng: "Cái chết đã bị chiến thắng nuốt đi?"38. Chính Chúa là Hữu thể đó, Chúa không thay đổi, và trong Chúa, sự nghỉ ngơi làm quên hết mệt nhọc. Vì có người ngào khác ở bên Chúa. Và con cũng chẳng phải tìm sự gì khác không phải là Chúa, lạy Chúa: Chúa đã cho con phúc sống an toàn.

Con đã đọc và lấy làm phấn khởi, nhưng không biết làm gì cho những kẻ chết điếc, mà trước đây thuộc bạn họ, con cũng là một ôn dịch, một kẻ cắn sửa dữ tợn và mù quáng chống lại Thánh Kinh, êm dịu bởi mật trên trời và sáng láng nhờ ánh sáng của Chúa - Và con phải chán nản khi nghĩ đến các thù địch của sách thánh Chúa39.

 

Một dấu chỉ Chúa phù hộ


12               Bao giờ con sẽ nhớ lại được tất cả các sự đã xảy ra trong những ngày nghỉ đó? Tuy nhiên con không quên và cũng chẳng muốn thinh lặng về cái roi nghiêm khắc của Chúa và về lòng từ bi mau lẹ lạ lùng của Chúa.

Lúc đó, Chúa hành hạ con với cái bệnh đau răng nguy kịch đến nỗi làm cho con không nói được nữa. Trong lòng con đã nảy ra ý nghĩ40 là kêu gọi các bạn có mặt tại nhà cầu xin Chúa cho con, Chúa mọi sự chữa lành. Và con viết lời thỉnh cầu của con vào cái bảng sáp và đưa cho họ đọc. Nhưng chúng con vừa quỳ gối để khẩn khoản cầu xin, thì cơn đau biến mất, mà là cái đau rất nhức nhối! Sao nó biến mất được? Con thú thật là con kinh ngạc hết sức, lạy Chúa, lạy Chúa Trời con41: Suốt đời con chưa từng thấy thế bao giờ. Và tự đáy lòng con cảm thấy một sự khuyến cáo của Chúa và, vui vẻ trong đức tin, con ngợi khen danh thánh Chúa. nhưng đức tin đó không để con được yên lòng, về các tội quá khứ của con, mà phép rửa của Chúa chưa tha thứ cho con.

 

Augustin chính thức từ chức


V-13          Cuối mùa hái nho, con đã báo cho dân thành Milan biết để tìm một giáo sư khác cho sinh viên của họ, vì một đàng con đã quyết định làm tôi Chúa, và đàng khác, sự khó thở và đau ngực của con không cho phép con chu toàn được chức vụ đó.

Con cũng biên thư trình bày cho Đức giám mục Ambrosiô, thánh nhân của Chúa, biết các lầm lạc quá khứ của con và ước nguyện hiện tại của con, xin người khuyên bảo con nên đọc những gì trong Kinh Thánh của Chúa, để dọn mình sẵn sàng và xứng đáng hơn với ơn cao trọng,mà con sắp lãnh nhận? Người chỉ cho con sách tiên tri Isaia, con tưởng là vị tiên tri đã loan báo rõ ràng hơn ai hết về Phúc Âm của Chúa và sự trở lại của lương dân. Nhưng vì ngay bài thứ nhất con không hiểu ý nghĩa, và tưởng phần còn lại cũng vậy, nên con thôi không đọc nữa, đợi cho đến khi nào con được quen thuộc hơn với lời Chúa.

 

Augustin trở lại Milan chịu phép thánh tẩy


VI-14         Đã đến lúc con phải ghi tên. Con đã bỏ miền quê, để trở lại Milan. Alypius cũng muốn được tái sinh trong Chúa với con. Anh đã mặc lấy sự khiêm nhượng xứng hợp với các bí tích của Chúa, anh rất cương quyết chế ngự thân xác của anh, đến nỗi anh đã có một sự can đảm khác thường, là đi chân không trên đất giá lạnh của nước Ý.

 

Adeodat cũng chịu phép rửa


Chúng con cũng cho nhập bọn chúng con trẻ Adeodat, đứa con theo xác thịt bởi tội lỗi con. Chúa đã ưu đãi nó. Mới 15 tuổi, mà về trí khôn, nó đã vượt nhiều người đứng đắn và học thức. Con xưng tụng Chúa về các ơn lành của Chúa, lạy Chúa Trời con, là Đấng tạo dựng mọi sự, là Đấng có quyền năng để sửa lại những kỳ quái của chúng con: Vì ngoài tội lỗi ra, con đã không có gì nơi trẻ đó. Còn như chúng con giáo dục nó theo quy tắc của Chúa, là vì chính Chúa, chứ không một ai khác, đã xui khiến chúng con như vậy. Con xưng tụng các ơn lành của Chúa.

Có một cuốn sách của chúng con, nhan đề là De Magistro: Chính nó đàm đạo với con trong đó. Chúa biết rõ, các tư tưởng mà con gán cho người đối thoại với con là của nó, khi nó lên 16 tuổi. Con còn biết nhiều điều khác còn lạ lùng hơn nữa về nó. Tài trí của nó làm con kinh sợ: Mà ngoài Chúa ra, còn có ai khác đã tác tạo các kỳ công đó?

Chúa sắp cất sự sống của nó ra khỏi thế gian, thì con lại càng được yên tâm, khi nghĩ đến nó, vì con không còn sợ hãi gì cho tuổi thanh niên, cho tuổi trưởng thành, cho toàn thể con người của nó.

Chúng con kết nạp nó thành đồng trạc với chúng con trong ơn nghĩa Chúa, được giáo dục theo quy tắc của Chúa: Chúng con đã chịu phép thánh tẩy và những lo âu của đời quá khứ đã biến khỏi chúng con.

Những ngày đó, con chưa được no thoả về sự êm dịu lạ lùng được cảm thấy, khi suy ngắm sự sâu thẳm của chương trình cứu chuộc nhân loại của Chúa. Con đã khóc biết bao, khi nghe những bài thánh ca, những bài ca vãn, những giọng hát êm đềm của Giáo Hội Chúa làm cho con cảm động vô cùng! Các lời đó lọt vào tai con, gây nên chân lý trong tâm hồn con, khích thích lòng đạo đức, và nước mắt con tràn ra: nhưng khóc là điều tốt cho con.
 
 

Nguồn gốc việc hát trong giáo hội Âu châu


VII-15        Chưa được bao lâu, giáo hội Milan mới bắt đầu thực hiện thói tục yên ủi và giáo dục này, là các anh em, hợp tiếng hợp lòng, sốt sắng ca hát với nhau. Một năm trước đó, hay không hơn là mấy, khi bà Justina, là mẹ thượng vị còn trẻ Valentin, bách hại người của Chúa là Ambrosiô, vì bè rối Ariô, mà bà bị mê hoặc, thì lũ đông tín hữu tốt canh thức trong nhà thờ, sẵn sàng chết với Đức giám mục của họ, là tôi tớ Chúa. tại đó, mẹ con, nữ tỳ Chúa, giữ vai trò chính yếu trong việc săn sóc và canh thức đó, ngài chỉ sống bằng cầu nguyện. Chúng con, lúc đó, còn lãnh đạm với lửa mến của Chúa Thánh Thần, cũng tham gia với dân thành sửng sốt và náo động. Để dân chúng khỏi chán nản, lúc đó người ta quyết định hát các bài thánh ca và thánh vịnh, theo thói Á đông. Từ đó, thói này đã được duy trì cho đến ngày nay, và thói này đã được bắt chước ở hầu hết các giáo dân trên hoàn cầu.

 

Tìm thấy xác hai thánh tử đạo


16               Cũng thời đó, Chúa đã tỏ ra trong một thị kiến cho giám mục, mà con nhắc đến, nơi che giấu xác của hai tử đạo là Prota và Gerva. Trong bằng ấy năm trời, Chúa đã gìn giữ các xác đó bất hoại trong kho tàng bí nhiệm của Chúa và đã đưa ra khỏi đó vào lúc thuận tiện, để chế ngự sự cường bạo của một phụ nữ, mà cũng là của một hoàng hậu. Khi các xác đó đã được khám phá và đào lên, và được rước cách rất trọng thể vào vương cung thánh đường Ambrosiô, thì không có nhiều người bị quỷ ám quấy nhiễu được khỏi, theo chính lời thú nhận của ma quỷ, mà còn có một người cả thành biết rõ, đã bị mù từ nhiều năm. Ông nghe thấy dân chúng vui vẻ ồn ào, thì hỏi lý do và khi được biết sự thể, ông in người dẫn ông tới chỗ quan tài. Khi tới nơi, ông xin được phép lấy khăn tay chạm tới quan tài các thánh, mà cái chết quý trọng trước mặt Chúa!42 Ông vừa chạm khăn vào quan tài, vừa xoa lên mắt, tức thì mắt mở ra. Do đó tiếng đồn khắp nơi, những lời ngợi khen nồng nhiệt và vẻ vang dâng lên Chúa, nhờ thế tâm hồn của kẻ thù ấy, tuy không quay về đức tin lành mạnh, thì cũng phải dẹp bỏ sự hung tàn bách hại.

Con đội ơn Chúa43, lạy Chúa Trời con. Chúa đã dẫn đưa trí nhớ con từ đâu tới đâu, để con cũng có thể xưng tụng Chúa, về những việc cao cả mà con đã bỏ quên? Tuy nhiên lúc đó, mặc dầu mùi thơm Chúa44 xông ra rất mạnh, chúng con không chạy theo Chúa. vì thế, con càng khóc nhiều trong khi nghe hát thánh vịnh Chúa, vì trước đây con khao khát Chúa, thì bây giờ con được thoải mái thở than tuỳ theo khối lượng khí trời có thể vào được cái nhà cỏ rả của con45.
 
 

MONICA TỪ TRẦN

 

Evodius


VIII-17      Là Đấng cho người cô đơn thành gia thất46, Chúa đã kết nạp với chúng con anh Evodius, một thanh niên đồng thị trấn với chúng con. Anh là uỷ viên hành chánh của hoàng đế. Anh đã trở lại với Chúa trước chúng con, đã chịu phép rửa tội và đã bỏ việc trần gian để hoạt động cho Chúa. đã cùng ở với nhau, chúng con sẽ chung sống với nhau do một quyết định lành thánh.

 

Monica qua đời


Chúng con đã tìm cho biết phải ơn nơi nào để phục vụ Chúa một cách hữu ích hơn? Theo ý kiến chung, chúng con trở về Phi châu. Và khi tới Ostia, cửa sông Tiberina, thì mẹ con từ trần.

Con bỏ qua nhiều chuyện, vì con vội lắm. Xin Chúa chấp nhận những lời xưng tụng và cảm tạ của con, lạy Chúa, về vô vàn ơn lành mà con không nói tới. Nhưng con sẽ không bỏ qua những tư tưởng phát xuất trong tâm hồn con về nữ tỳ của Chúa, mà xác thịt đã sinh ra con cho cuộc sống tạm thời, và tâm hồn đã sinh ra con cho cuộc sống vĩnh cửu.

 

Nền giáo dục của Monica


Con sẽ không nói đến tài năng của ngài, mà đến các ơn huệ Chúa đã ban cho ngài. Vì ngài không phải là kẻ tạo dựng nên mình, hay là tự giáo dục được mình: Chính Chúa đã tạo dựng nên ngài, cha mẹ ngài cũng chẳng biết được kẻ bởi họ mà sinh ra sau này sẽ ra thế nào? Ngài đã được giáo dục trong sự kính sợ Chúa, dưới cái phủ việt của Đức Kitô Con Chúa47, dưới kỷ luật của Con duy nhất Chúa, trong một gia đình tín hữu, là chi thể lành mạnh của Giáo Hội Chúa.

Trong việc giáo dục ngài, ngài khoe người tớ gái còn chăm sóc hơn cả mẹ ngài nữa. Người tớ gái già này, trước kia đã bồng bế cha ngài, khi còn nhỏ, như những đứa con gái lớn hay cõng trẻ con trên lưng vậy. Vì kỷ niệm đó, vì tuổi tác, vì đời sống tốt lành, bà tớ gái già này được mọi người trong gia đình Kitô giáo đó quý chuộng lắm: Bà sửa trị các cô với một sự nghiêm khắc mạnh mẽ và thánh thiện; bà dạy bảo các cô với một sự khôn ngoan tế nhị.

Ngoài những giờ ăn uống rất thanh đạm với cha mẹ, bà không cho các cô uống, dù là nước lã, mặc dầu rất khát, để đề phòng một thói xấu và bà thêm lời khôn ngoan này: "Bây giờ các cô chỉ uống nước lã, vì các cô không có quyền đụng đến rượu; nhưng khi về nhà chồng, các cô trở thành chủ các của dự trữ và các kho lẫm, thì nước lã không còn ý nghĩa gì với các cô, nhưng thói quen uống điều độ vốn có giá trị". Nhờ lời khuyên bảo khôn ngoan và lệnh cấm nghiêm ngặt, bà dẹp được các đam mê của tuổi thơ dại và tập cho các cô, dù trong việc giải khát, cũng biết ở cho lễ phép và điều độ, đến nỗi điều gì không nên làm, các cô cũng không cảm thấy ưa thích.

 

Monica chừa tật xấu


18               Tuy nhiên, tính nghiện rượu đã len lỏi vào Monica - như chính nữ tì Chúa đã kể cho con là con của ngài. Vì là một thanh nữ tiết độ, nên cha mẹ thường sai đi lấy rượu ở thùng. Cô cho chiếc ly vào lỗ mở ở phía trên thùng, nhưng trước khi đổ rượu vào bình, cô nếm một chút ở đầu lưỡi, vì cô không thể uống hơn được, vị giác cô chống lại. Cô làm như vậy không phải vì ham uống rượu, mà vì tính bồng bột của tuổi trẻ, thích cử động, thích nghịch ngợm vậy thôi, mà thường phải nhờ vào sự cương quyết của cha mẹ mới dẹp được nơi các tâm hồn trẻ.

Vậy mỗi ngày thêm một chút như vậy - kẻ coi thường sự nhỏ mọn, chày kíp sẽ sa ngã48 - cô đã đi tới thói quen ham uống từng ly gần đầy rượu nguyên chất.

Lúc đó bà già khôn ngoan ở đâu, và sự cấm đoán nghiêm khắc của bà ở đâu? Để đối phó với căn bệnh giấu kín này, có gì kiến hiệu, nếu không phải là thuốc của Chúa, lạy Chúa, hằng canh giữ chúng con hay sao? Cha, mẹ và các nhà giáo dục có vắng mặt, thì Chúa vốn hiện diện, Chúa là Đấng đã dựng nên, đã kêu gọi chúng con, và, qua cả những người trung gian, Chúa hoạt động cách tốt đẹp cho phần rỗi các linh hồn.

Lúc đó, Chúa đã làm gì, lạy Chúa Trời con? Chúa đã săn sóc làm sao, đã chữa lành thế nào? Há chẳng phải là Chúa đã rút ở một tâm hồn khác lời nguyền rủa đau xót đắng cay, như một thanh sắt chữa bệnh, lấy từ kho bí mật của Chúa, và, một phát, Chúa đã huỷ diệt cái phần thối nát ở nơi ngài hay sao?

Vì người tớ gái thường xuyên đi với cô tới thùng rượu, hôm đó có điều bất bình với cô chủ mình, đến nỗi, khi hai người ở riêng với nhau, bà đã tố cáo tội cô, và, với lời thoá mạ rất đắng cay, bà gọi cô là "con đĩ nghiện!" Bị đánh trúng chỗ, cô nghĩ lại, nhìn thấy thói xấu của mình, cô lên án và tẩy chay nó.

Các lời khen tặng của bạn hữu hay làm hư chúng con thế nào, thì những chỉ trích của thù địch thường hay sửa chữa chúng con như vậy. Nhưng Chúa không trả công cho chúng về những điều Chúa dùng chúng mà làm, nhưng là về những điều chúng đã muốn làm. Bà nữ tỳ này vì tức giận đã muốn làm cực lòng cô chủ trẻ, chứ đâu có ý sửa cô, cho nên bà mới làm việc đó nơi kín đáo, hoặc vì cuộc cãi lộn đã bắt gặp riêng hai người ở nơi đó, hoặc vì bà sợ nguy khốn cho bà khi tố cáo một lỗi quá chậm trễ như vậy.

Nhưng Chúa, lạy Chúa là Đấng quản trị mọi sự trên trời, dưới đất, Chúa uốn dòng suối lang thang theo ý Chúa, cũng như sự vận hành lộn xộn của thời gian cho có trật tự; Chúa cũng đã dùng sự tức giận của một linh hồn để sửa chữa một linh hồn khác. Khi hiểu biết như vậy, thì đừng có ai dám gán hậu quả cho mình, khi do lời mình nói, một người khác đã được cải thiện như mình đã muốn.

 

Monica đã chinh phục được chồng


IX-19         Vậy Monica đã được hấp thụ một nền giáo dục đức hạnh và tiết độ. Nhưng, nhờ Chúa mà ngài vâng phục cha mẹ, hơn là nhờ cha mẹ mà ngài vâng phục Chúa. Khi đến tuổi kết bạn, ngài đã được gả cho một người chồng, mà ngài phục vụ như phục vụ Chúa49. Ngài gắng công đưa chồng về với Chúa, bằng cách trình bày cho chồng biết Chúa qua các nhân đức mà Chúa đã trang điểm cho ngài nên tốt đẹp, đáng cho chồng quý yêu và kính phục. Ngài chịu đựng những sự thất tín của chồng một cách rất nhẫn nại, đến nỗi không khi nào đôi co với chồng về chuyện đó. Ngài trông đợi ở lòng từ bi Chúa50 ban cho chồng ngài đức tin và lòng trinh tiết.

Chồng ngài có một con tim rất tốt, nhưng lại rất hay nổi giận. Ngài biết điều đó, nên khi chồng nóng giận, ngài không hề chống lại bằng một việc làm hay một lời nói nào. Nhưng khi thấy chồng nguôi giận và bình tĩnh, ngài lợi dụng lúc thuận tiện để giải thích cho chồng biết lý do hành động của ngài, nếu chồng ngài đã nổi nóng một cách vô ý thức đối với ngài. Sau hết, vì có nhiều bà vợ, dù có những ông chồng hiền hậu hơn nhiều, cũng phải mang những thương tích tiều tuỵ trên mặt, nên khi chuyện vãn giữa bạn gái với nhau, các bà chỉ trích thậm tệ thái độ của người chồng, thì mẹ con lại chỉ trích cái lưỡi của họ, và, vừa như nói chơi, ngài trịnh trọng khuyên bảo họ rằng: Từ giờ phút họ nghe đọc khế ước hôn nhân51, họ phải coi đó là một văn kiện pháp lý, đặt họ làm nô lệ; cho nên họ phải nhớ hoàn cảnh của mình và đừng có lên mặt với chồng. Các bà này biết ngài phải chịu đựng một ông chồng hung dữ, và lấy làm lạ không hề nghe thấy ngài nói năng hay tỏ dấu gì đoán biết được rằng: Ông Patriciô đã đánh ngài, hoặc có cuộc bất thuận gia đình, chia rẽ giữa hai bên, dù trong một ngày nào đó? Cho nên họ thân mật xin ngài cho biết lý do, thì mẹ con đã dạy cho họ phương pháp xử đối mà con vừa kể trên đây. Những bà nghe theo ngài, và kinh nghiệm, thì tỏ lòng biết ơn; còn những bà không nghe theo, thì tiếp tục bị hành hạ nhục nhã.

 

Monica và mẹ ghẻ


20               Ban đầu, bà mẹ ghẻ của ngài để cho các tớ gái xấu xui giục, hay tức giận với ngài, nhưng do sự vâng phục, nhẫn nại chịu đựng và niềm nở, ngài đã được lòng bà, đến nỗi về sau chính bà tố cáo với con bà cái miệng lưỡi gian manh của các tớ gái, muốn làm mất hoà khí gia đình, giữa bà và con dâu, và bà xin con bà trừng trị chúng. Cho nên, vừa chiều theo ý bà, vừa lo lắng cho trật tự gia đình và sự hoà thuận giữa người nhà, ông cho đánh đòn những đứa bị tố cáo, như bà muốn; bà hứa sẽ thưởng công như vậy cho bất cứ đứa nào, tưởng muốn làm đẹp lòng bà đi nói xấu với bà về con dâu của bà. Và không đứa nào còn dám làm như vậy nữa. cuộc đời giữa mẹ ghẻ và nàng dâu thật là hoà thuận êm đềm, rất đáng được nhắc lại ở đây.

 

Sự tế nhị của Monica


21               Lạy Thiên Chúa chí nhân của con52, Chúa còn ban ơn lớn lao này cho người nữ tì trung thành của Chúa - mà trong dạ người đó, Chúa đã dựng nên con - là mỗi khi có hai tâm hồn chống đối và bất thuận với nhau, thì ngài hết sức tỏ mình là kẻ hoà giải, mặc dầu ngài nghe bên này bên nọ cay đắng chỉ trích lẫn nhau, như khi người ta tức tối khó chịu với một kẻ thù vắng mặt, người ta thường đi thổ lộ cho bạn hữu sự ghen tương uất ức, với những lời chua chát53. Nhưng ngài chỉ lặp lại cho bên này, bên nọ, những gì có thể hoà giải họ với nhau thôi.

Con sẽ coi đó là một nhân đức nhỏ, nếu một kinh nghiệm buồn thảm đã không cho con thấy vô vàn vô số con người - do một thứ ôn dịch của tội lỗi đã truyền nhiễm sâu rộng - chẳng những họ lắp lại cho kẻ thù tức bực những lời nói tức bực của đối phương, mà họ còn thêm vào đó những lời họ không có nói; đang khi chính lẽ ra một con người xứng đáng danh hiệu con người, phải cho là đã làm quá ít, khi không xúi giục con người, bằng những lời nói xấu; mà còn phải gắng công dẹp bớt sự hằn thù của họ, bằng những lời nói tốt.

Mẹ con là thế đó, nhờ Chúa làm thầy dạy trong thâm tâm ngài.

 

Ảnh hưởng của Monica


22               Sau hết, ngài đã đưa chồng ngài về với Chúa, lúc ông gần chết, và khi ông đã trở nên Kitô hữu, ngài cũng không phàn  nàn gì về những điều ngài đã phải chịu về ông, khi ông chưa trở lại đạo. Vì ngài là nữ tì của các tôi tớ Chúa. ai trong bọn họ biết ngài, đều ngợi khen Chúa, tôn kính Chúa và yêu mến Chúa nhiều ở nơi ngài, vì họ cảm thấy Chúa hiện diện trong lòng ngài: Sự đó được chứng minh bằng hoa trái, là đời sống thánh thiện54của ngài. Vì ngài là vợ chỉ có một đời chồng, biết thảo hiếu cha mẹ, biết coi sóc gia đình chu đáo, có bảo đảm bằng viện thiện55. Ngài giáo dục các con trai, ngài tái sinh56 chúng mỗi lần ngài thấy chúng lìa xa Chúa. Sau hết, đối với chúng con hết thảy, lạy Chúa, vì do ơn Chúa mà chúng con được phép xưng mình là tôi tớ Chúa, chúng con đã được ơn phép rửa tội và sống chung với ngài, trước khi ngài được nghỉ yên trong Chúa: Ngài săn sóc chúng con như người mẹ của chúng con hết thảy, ngài phục vụ chúng con như người con của mỗi người chúng con.

 

Cuộc xuất thần ở Ostia


X-23          Gần ngày mẹ con ra khỏi đời này - ngày đó, Chúa biết, còn chúng con thì không hay biết chút nào - thì xảy ra biến cố, mà con tưởng là do sự xếp đặt bí mật của Chúa, là chỉ có con và mẹ con đứng tựa cửa sổ, nhìn ra cái vườn của căn nhà chúng con ở, tại Ostia, cửa sông Tiberina. Sau một cuộc hành trình lâu dài, vất vả, chúng con ở nơi xa quần chúng, để lấy lại sức khoẻ cho cuộc vượt biển tới. Vậy trong khi êm đềm chuyện vãn với nhau, chúng con bỏ quên dĩ vãng, hoàn toàn hướng về tương lai57, cùng nhau tìm tòi trong chân lý hiện hữu, là chính Chúa, cho biết thế nào là đời sống vĩnh cửu của các thánh, mà mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe, lòng người chưa hề nghĩ tới58. Nhưng với tất cả ước muốn chúng con mở môi mép tâm hồn trước nguồn nước thiêng của mạch sự sống ở nơi Chúa59, để hứng lấy được phần nào theo khả năng, và để có một ý niệm nào đó về một đề tài cao trọng như vậy.

24               Khi cuộc đàm đạo của chúng con đi tới kết luận này, là đứng trước hạnh phúc của đời sống đó, tất cả khoái lạc của ngũ quan, dù lớn lao đến đâu, dù có vẻ huy hoàng biết mấy, cũng phải coi là không xứng đáng được so sánh, hơn nữa, không xứng đáng được nhắc đến, thì chúng con lấy lòng khao khát vươn mình lên tới chính "Hữu thể"60; chúng con lần lượt rảo qua các sự vật chất và cả bầu trời, nơi mặt trời, mặt trăng, các tinh tú chiếu soi trái đất; từ trong thâm tâm chúng con vươn lên mãi để suy gẫm, để cao rao và để cảm phục các việc của Chúa; chúng con đi tới linh hồn chúng con và chúng con vượt quá linh hồn chúng con, để tới miền phì nhiêu vô tận, nơi Chúa chăn dắt Israel vĩnh cửu trong đồng cỏ chân lý, và ở đó sự sống là sự khôn ngoan, phát sinh mọi sự hiện có, đã có và sẽ có; mà chính nó không bị tạo dựng, nhưng vốn có như thế, như đã có và sẽ có mãi như vậy; hay đúng hơn, trong nó không có quá khứ và tương lai, mà chỉ là hiện tại, vì nó là vĩnh cửu; vì đã có và sẽ có không phải là vĩnh cửu. Đang khi đàm đạo và khao khát sự khôn ngoan đó, chúng con đã đạt tới nó chốc lát, trong một cái vươn cao độ nhất của lòng mình: Chúng con thở dài một cái và để lại đó các hoa trái đầu mùa của Thánh Linh61 và chúng con trở về với tiếng động của môi mép chúng con, nơi tiếng nói loài người bắt đầu và chấm dứt. Có gì giống được Ngôi Lời, là Chúa chúng con, luôn luôn hiện hữu với mình, không bao giờ già đi, mà lại đổi mới mọi sự?62

25               Vậy chúng con bảo nhau rằng: Giả như ở nơi một nhân vật nào sự huyên náo của xác thịt im lặng; các ảo ảnh của trái đất, của nước, của khí, của trời, im lặng; và nơi họ, chính linh hồn cũng im lặng và vượt lên quá mình, bằng cách không còn chỉ nghĩ đến mình; nơi họ im lặng cả những mơ màng, những mạc khải của trí vẽ, mọi tiếng nói, mọi dấu hiệu, tất cả những gì được phát xuất để qua đi. Vâng, giả như ở nơi người nào đó, tất cả các sự ấy đều im lặng - vì có ai nghe chúng, thì tất cả chúng sẽ nói: Không phải chúng tôi làm nên mình mà Đấng hằng có đời đời đã làm nên chúng tôi63, và nói xong, chúng lại im lặng, vì chúng đều hướng tai về Đấng đã dựng nên chúng - và chỉ có một mình Người nói, không qua chúng, mà do tự mình, để chúng con nghe lời Người, không qua miệng lưỡi của một nhân vật có xác thịt, cũng không qua tiếng nói của một thiên thần, không qua tiếng động của đám mây64 hay qua bí ẩn của một dụ ngôn65, mà là chính Người, Đấng mà chúng con yêu mến trong các sự vật, mà chúng con nghe biết không qua trung gian của chúng, như chúng con đang khao khát và, qua một ý niệm chớp nhoáng, chúng con đã đạt tới, đó là sự khôn ngoan vĩnh cửu, tồn tại trên hết mọi sự. Nếu sự tiếp xúc đó được kéo dài, thì các thị kiến khác loại đều tan biến, chỉ có thị kiến này làm cho người hưởng kiến say mê, bị thu hút, bị chìm đắm trong khoái lạc nội tâm. Cho nên đời sống vĩnh cửu giống như thị kiến chớp nhoáng mà chúng con đang khao khát: Đó chẳng đúng như lời: "Hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi"66 hay sao? Và khi nào xảy ra như vậy, há chẳng phải là khi mọi người chúng con sẽ sống lại, nhưng không phải hết thảy sẽ được biến đổi67 hay sao?

 

Monica cảm thấy giờ chết gần kề


26               Đó là cuộc đàm đạo của chúng con, có khi không cùng một kiểu cách và những ngôn từ như vậy. Tuy nhiên, Chúa biết, lạy Chúa, là hôm đó, khi chúng con đàm đạo với nhau, thì, qua các lời nói, thế gian và các khoái lạc của nó, đối với chúng con, không còn giá trị gì nữa. Lúc đó mẹ con bảo: "Hỡi con, về phần mẹ, mẹ không còn ưa thích sự gì ở đời này nữa. Mẹ còn làm gì ở đây và sao mẹ còn ở đây, mẹ không biết, vì ước vọng của mẹ ở đời này đã đạt tới đích. Một điều đã làm cho mẹ ước ao ở lại ít lâu trên đời này, là trước khi nhắm mắt được thấy con là một Kitô hữu Công giáo. Thiên Chúa của mẹ đã ban cho mẹ điều đó một cách dồi dào, vì mẹ thấy con phục vụ Chúa đến khinh chê cả hạnh phúc trần gian. Mẹ còn làm gì ở đây nữa?".

 

Những lời sau hết


XI-27         Con không nhớ rõ con đã trả lời làm sao? Nhưng phỏng năm ngày say, hay hơn một chút, mẹ con ngã bệnh sốt rét. Đang khi nằm bệnh, thì ngày nọ ngài bất tỉnh, không còn nhận ra những người xung quanh. Chúng con chạy tới, thì ngài tỉnh lại ngay và nhìn con và em con đứng đó, ngài có vẻ tìm kiếm cái gì vào bảo chúng con: "Mẹ ở đâu thế này?". Rồi thấy chúng con buồn rầu và lo sợ, ngài nói: "Các con hãy chôn mẹ các con ở đây". Con thinh lặng và kìm hãm nước mắt. Nhưng em con nói mấy lời tỏ ý ước ao thấy ngài chết tại quê nhà hơn là ở tha hương. Nghe thấy vậy, ngài tỏ vẻ không bằng lòng, ngài quắc mắt nhìn em con, vì đã có những tư tưởng như vậy, rồi ngài nhìn con mà nói: "Con xem, nó nói như vậy đó". Đoạn ngài bảo cả hai chúng con: "Các con chôn xác này ở đâu cũng được; các con đừng quá lo về nó; mẹ chỉ xin các con một điều, là bất cứ các con ở đâu, các con hãy nhớ đến mẹ trước bàn thờ Chúa". Sau khi cố gắng nói được điều đó rồi, mẹ con ở lặng và cơn bệnh gia tăng, làm cho ngài càng đau đớn.

 

Sự từ bỏ tột độ


28               Phần con, lạy Chúa vô hình68, khi con nghĩ đến các ơn lành Chúa gieo trong tâm hồn các tín hữu Chúa và từ đó phát sinh những hoa trái lạ lùng, vâng, con vui mừng và cảm tạ Chúa69, khi nhớ lại điều con đã biết rõ, là trước đây, mẹ con luôn luôn lo lắng về việc chôn cất mình, lại ngài đã tiên liệu và đã chuẩn bị một chỗ bên mộ chồng ngài. Vì các ngài đã sống một cuộc đời rất là ý hợp tâm đồng, nên ngài cũng ước ao cho tâm trí con người - ít có khả năng về những sự thuộc Thiên Chúa - được tiếp tục hưởng hạnh phúc quá khứ, và cho thiên hạ nhớ rằng: Sau cuộc vượt biển trần gian, cái xác vật hèn của hai vợ chồng đoàn kết lại được đất ấy chở che.

Vậy khi nào ảo mộng đó đã được loại khỏi tâm trí ngài do lòng nhân từ sung mãn của Chúa, con không được biết. Nhưng con lấy làm vui mừng và bỡ ngỡ khi biết được điều đó. Vả chăng, trong cuộc đàm đạo của chúng con nơi cửa sổ, khi ngài bảo: "Mẹ còn làm gì ở đây bây giờ?", thì đã rõ: Ngài không còn ước ao chết ở quê hương. Về sau con cũng được nghe biết, khi chúng con còn ở Ostia, là một ngày nọ, con đi vắng, ngài đã thân tình và như một người mẹ, chuyện vãn với mấy bạn hữu của con về sự khinh chê đời này và về lợi ích của sự chết, thì họ bỡ ngỡ về người phụ nữ đức hạnh như vậy - đó là điều Chúa đã ban cho ngài - và họ hỏi ngài có sợ phải bỏ xác ở nơi xa sinh quán không? Thì ngài nói: "Đối với Thiên Chúa, không có đâu là xa lạ, và cũng không nên sợ rằng: Ngày tận thế, Người sẽ không biết nơi  nào để cho tôi sống lại".

 

Giờ lâm chung


Vậy, sau khi thụ bệnh được chín ngày, thì linh hồn thiên thần và đạo đức đó đã lìa khỏi xác: Ngài có 56 tuổi, mà con thì được 33 tuổi.
 
 

Nỗi buồn thảm của Augustin


XII-29        Con đã vuốt mắt cho ngài và một nỗi buồn phiền man mác tràn ngập lòng con, muốn trào ra thành nước mắt; nhưng do một ý chí mãnh liệt, con đã nuốt hết nước mắt, và cuộc chiến đó đã làm cho con cực khổ! Khi ngài tắt thở, thì thằng nhỏ Adeodat oà lên khóc. Nhưng bị mọi người rầy la, nó phải im tiếng. Thì do chính cái tiếng ngây thơ - tiếng con tim của nó, im đi - cũng làm cho sự xúc động ngây thơ của con, đang muốn oà lên khóc, cũng bị chặn lại và phải im đi. Vì chúng con quan niệm rằng: Không được tưởng niệm tang lễ này với những tiếng khóc lóc, thở than, vì thiên hạ thường làm như thế, để xót thương số phận khốn nạn của kẻ chết hay sự huỷ diệt hoàn toàn của họ. Nhưng mẹ con đâu có chết một cách khốn nạn, cũng chẳng phải hư mất hoàn toàn! Bằng chứng sự đó là đời sống đức hạnh của ngài và chúng con xác nhận như vậy với một đức tin chân thật70 và với những lý do chắc chắn.

30               Vậy cái gì làm cho con quá đau đớn bề trong như vậy, nếu chẳng phải là vì thói quen với cuộc sống chung rất êm đềm và rất thân thiết của chúng con, bất thần bị chấm dứt, đã gây nên một thương tích mới, hay sao? Con lấy làm sung sướng về lời khen tặng, ngài đáp lại các sự chăm sóc của con trong cơn bệnh cuối cùng này. Ngài cho con là thảo hiếu, và, với một tình âu yếm bao la, ngài nhắc lại là ngài chưa hề thấy con nói lời gì cứng cỏi hay nhục mạ đối với ngài.

Nhưng, lạy Chúa, là Đấng đã dựng nên chúng con, việc con tôn kính ngài làm sao sánh được với việc ngài phục vụ con? Vì mất sự yên ủi lớn lao của ngài như vậy, mà tâm hồn con như bị thương tích; và con cảm thấy đời sống đã được kết hợp nên một với đời ngài, như bị xâu xé.

31               Sau khi làm im được tiếng khóc của đứa trẻ, Evadius cầm cuốn Tháh vịnh và bắt đầu xướng lên một bài. Tất cả nhà chúng con đáp lại: "Lạy Chúa, con sẽ ca hát lòng từ bi và đức công bình của Chúa"71. Khi nghe biết tin đó, nhiều anh em và phụ nữ đạo đức tuốn đến, và theo thói quen, những kẻ có phận sự thì lo việc tang chế, còn con, khi sự lịch thiệp cho phép, con đã lui ra với bạn hữu đã đến yên ủi con. Con đã đàm đạo với họ về những sự liên quan đến cảnh ngộ và nhờ liều thuốc chân lý đó, con đã xoa dịu được nỗi thống khổ, mà Chúa biết, còn họ, thì không hay; họ chăm chú nghe con và tưởng rằng: Con không đau đớn chút nào. Nhưng gần tai Chúa, nơi họ không nghe thấy gì, con đã quở trách sự yếu đuối của lòng con và đã kìm hãm nỗi đau khổ của con, và dần dần con đã chế ngự được nó; nhưng rồi nó lại bùng lên, tuy không đến nỗi làm cho con ứa nước mắt hay thay đổi nét mặt. Chỉ có con biết, con đã phải kìm hãm lòng con như thế nào? Vì rất chán nản thấy mình quá bị lệ thuộc vào những sự việc nhân loại, nhất thiết phải xảy đến, do trật tự thiên nhiên và do số phận của chúng con, cho nên con đã phải đau khổ vì một đau khổ khác nữa, và cả hai nỗi sầu nung nấu thân con.

32               Rồi khi đưa xác, lúc đi cũng như lúc về, con không để rơi một giọt lệ. Cả trong những kinh chúng con đọc lên Chúa, khi dâng hy lễ cứu độ chỉ cho người - mà xác chết đặt kề bên huyệt, trước khi chôn, theo thói quen ở đó - vâng, cả trong khi đọc những kinh đó, con đã không khóc; nhưng suốt ngày, trong thâm tâm, con cảm thấy buồn bã vô cùng, và, tâm hồn hoang mang, con đã hết sức kêu xin Chúa chữa con khỏi nỗi đau khổ đó. Nhưng Chúa đã không nghe lời con, có lẽ để in vào trí nhớ con, dù chỉ với một bằng chứng đó, là thói quen có sức dường nào đối với một tâm hồn dù đã được dinh dưỡng bằng lời chân thật! Lúc đó, con có ý tưởng đi tắm, vì con nghe nói: Tiếng "tắm" bởi Hy ngữ (Balaneion) mà ra, có nghĩa là xua đuổi phiền muộn khỏi tâm hồn72. Nhưng, lạy Cha các kẻ mồ côi73, con xin xưng tụng với lòng nhân từ Chúa rằng: Khi tắm rồi, con cũng vốn như khi chưa đi tắm, vì (mồi hôi) buồn rầu cay đắng chưa toát khỏi lòng con. Sau đó con đi ngủ. Và khi thức dậy, con cảm thấy nỗi buồn rầu của con đã giảm bớt được một phần khá lớn; quả là khi một mình ở trên giường, con đã nhớ lại những câu thơ rất xác đáng của Ambrosiô74, tôi tớ Chúa, vì Chúa là

Chúa Trời tạo dựng muôn loài,
Cầm quyền trang điểm bầu trời tốt xinh:
Cho ngày ánh sáng lung linh
Cho đêm giấc ngủ an bình nghỉ ngơi;
Để cho gân cốt rã rời
Trở về sinh hoạt thích thời luôn luôn;
Giảo lao tâm trí bồn chồn,
Tiêu tan mọi nỗi lo buồn đắng cay...
(CN tuần III, kinh chiều I).

33               Rôi dần dần con trở lại với những cảm nghĩ ban đầu về nữ tì của Chúa và về cách ở của ngài: Đạo đức đối với Chúa và thanh sạch niềm nở ân cần đối với chúng con; mà bỗng nhiên con mất ngài, thì con cảm thấy rất muốn khóc lên trước mặt Chúa75: Khóc ngài và khóc cho ngài, khóc con và khóc cho con. Và con đã để cho những nước mắt bị kìm hãm trước đây, được tha hồ tuôn chảy, như cái nệm đặt dưới lòng con, và lòng con được nghỉ ngơi một chút. Vì ở đây chỉ có Chúa thấy, chứ không phải bất cứ ai khác, để tự phụ phê phán sự khóc lóc của con.

Vậy, lạy Chúa, bây giờ con xin xưng tụng với Chúa trong sách này. Ai muốn đọc thế nào tuỳ nghi, ai muốn cắt nghĩa làm sao mặc ý; và nếu họ cho là con có tội, vì đã khóc mẹ con trong chốc lát - người mẹ đã chết cho một thời gian trước mặt con, nhưng đã nhiều năm khóc cho con được sống trước mặt Chúa - thì xin họ đừng cười con, nhưng, nếu họ có đức bác ái cao độ, thì họ hãy khóc tội lỗi con trước mặt Chúa, là Cha các anh em Đức Kitô của Chúa.

 

Xin cầu cho Monica


XIII-34      Phần con, sau khi đã được chữa khỏi vết thương lòng, mà họ có thể chỉ trích là có tình yêu xác thịt, con đã khóc nữ tì Chúa, trước mặt Chúa, lạy Chúa chúng con, với một thứ nước mắt khác hẳn, thứ nước mắt phát xuất từ một tinh thần xúc động, khi nghĩ đến các nguy cơ của mọi linh hồn "chết trong Ađam"76. Tuy linh hồn đó đã được tái sinh trong Đức Kitô, trước kia lìa bỏ xác phàm, đã sống để ngợi khen danh Chúa, do niềm tin và các nhân đức của mình, nhưng con không dám quả quyết rằng: Sau khi đã được Chúa tái sinh do phép rửa tội77, nó đã không hề nói lời gì phạm đến luật Chúa. Chính sự chân thật, là Con Chúa, đã dạy: "Ai gọi anh em mình là khùng, sẽ bị phạt trong lửa hoả ngục"78; và khốn cho một đời sống, dù đáng khen, của con người, nếu Chúa loại bỏ lòng từ bi mà xét xử nó! Vì thật ra, Chúa không xét xử tội lỗi chúng con một cách khắt khe, nên chúng con hy vọng tìm được một chỗ đứng ở gần Chúa. Vì kẻ nào kể lể công nghiệp của mình trước mặt Chúa, thì đã làm gì, nếu không phải là đã kể lể các ơn huệ của Chúa, hay sao? Ôi, chớ gì con người nhận biết mình là nhân loại! Và kẻ nào muốn hãnh diện, hãy hãnh diện trong Chúa!79

35               Cho nên, lạy Chúa là lời ca của con và là sự sống của con, là đá tảng lòng con!80 Con tạm gác bỏ những việc lành của mẹ con - mà con vui mừng cảm tạ Chúa - bây giờ con cầu xin Chúa tha tội lỗi cho ngài; xin Chúa nghe lời con81, vì thầy thuốc các thương tích của chúng con; Người đã bị treo trên khổ giá và đang ngự bên hữu Chúa, cầu bầu cùng Chúa cho chúng con82. Con biết mẹ con hằng làm việc từ thiện và thật lòng tha thứ những kẻ có nợ với ngài83: Xin Chúa cũng tha thứ cho ngài những nợ nần, mà ngài đã mắc phải trong bằng ấy năm sau khi chịu phép rửa tội. Lạy Chúa, hãy tha thứ cho ngài, con xin Chúa hãy tha thứ cho ngài, xin đừng đưa ngài ra toà án84. Chớ gì lòng nhân từ thắng đức công bình85, vì các lời tuyên bố của Chúa đều chân thật, và Chúa đã hứa xót thương những kẻ hay thương xót. Nếu họ được như vậy cũng là vì Chúa đã ban cho họ, Chúa là Đấng thương kẻ Chúa thương, xót kẻ Chúa xót!86

36               Và con tin rằng: Chúa đã làm điều con xin. Nhưng, lạy Chúa, xin hãy khứng nhận của lễ từ miệng lưỡi con87. Vì gần ngày chết của ngài, mẹ con đã không nghĩ đến thân xác phải được mặc đẹp đẽ hay được ướp các thuốc thơm; ngài cũng chẳng ước ao mồ cao mả đẹp, hoặc lo cho được chôn cất tại quê hương: Ngài không căn dặn chúng con về các điều đó, mà chỉ ước ao chúng con nhớ đến ngài trước bàn thờ Chúa, mà ngài đã phục vụ không bỏ quên một ngày nào, vì ngài biết rằng: Từ bàn thờ, hy lễ thánh được phân phát để xoá bỏ văn khế có hại cho chúng con88 và cho chúng con thắng kẻ thù, là đứa hằng tính toán tội lỗi chúng con và tìm kiếm những gì có thể hại chúng con89; nhưng không tìm được điều gì nơi Đấng làm cho chúng con thắng thế. Ai đền trả cho người được thứ máu vô tội ấy? Ai hoàn lại cho người cái giá chuộc đã giải thoát chúng con khỏi kẻ thù? Nữ tì Chúa đã gắn bó linh hồn mình vào bí tích cứu chuộc chúng con bằng dây đức tin. Không ai cắt đứt được ngài ra khỏi sự che chở của Chúa. Sư tử và con rồng90 không thể dùng vũ lực hay mưu chước mà ngăn cách được giữa Chúa và ngài. Và ngài sẽ không trả lời là ngài không mắc nợ gì, kẻo bị một kẻ tố cáo xảo quyệt thắng thế, và chiếm đoạt; nhưng ngài sẽ trả lời là: Nợ nần của ngài đã được tha thứ bởi Đấng, mà không ai phải đền trả điều Người đã thanh toán cho chúng con, mặc dầu Người không nợ nần gì.

37               Vậy ngài hãy nghỉ yên với người chồng duy nhất của ngài91, mà ngài đã nhẫn nại phục vụ, để đem lại kết quả cho Chúa92, để đưa ông về với Chúa. Lạy Chúa con, lạy Chúa Trời con, xin Chúa soi sáng cho các tôi tớ Chúa là anh em con, cho các con cái Chúa là thầy dạy con, mà con phục vụ với tâm tình, với tiếng nói, với ngòi bút; vâng, xin Chúa soi sáng họ hết thảy, để khi đọc những trang sách này, họ nhớ trước bàn thờ Chúa đến Monica, nữ tì của Chúa, cùng với Patriciô, xưa là chồng của ngài; nhờ xác thịt của các ngài, Chúa đã đưa con vào đời này - làm sao, con không hay biết - Với một tâm tình đạo đức, xin họ hãy nhớ đến những kẻ đã làm cha mẹ con trong đời tạm này, và làm anh em con trong Chúa, là Cha, trong Giáo Hội Công giáo, là mẹ, và là công dân của con trong Giêrusalem vĩnh cửu; là nơi dân Chúa, trên đường lữ thứ, hằng ước mong, từ lúc khởi hành cho tới khi trở lại. Như vậy, nhờ sách "Tự Thuật" này, ước nguyện tối hậu của mẹ con sẽ được chấp nhận một cách dồi dào, với kinh nguyện của nhiều người, hơn là của một mình con.


*** (Xin xem tiếp Phần III)

Không có nhận xét nào: