Tự Thuật (Confessions) 1-5 của Thánh Âu Cơ Tinh

 TỰ THUẬT

(Phần I: Quyển 1-5)
(LES CONFESSIONS)
Saint Augustin
Dịch giả: Giám mục Micae Nguyễn Khắc Ngữ (Mỹ Sơn = Michel)
AMDA

--------------------------------
Tiểu sử tác giả
QUYỂN MỘT: KINH KHAI MẠC
QUYỂN HAI: TUỔI THANH NIÊN
QUYỂN BA: AUGUSTIN Ở CARTAGE
QUYỂN BỐN: CUỘC ĐỜI LẦM LẠC
QUYỂN NĂM: ĐƯỢC TỈNH NGỘ VỀ THUYẾT MANÈS

--------------------------------

Tiểu sử tác giả


Để dễ hiểu sách Tự Thuật, ta nên rảo qua cuộc đời vị thánh đã viết ra sách này.

Aureltus Augustin sinh ngày 13/11/354, tại Tagaste (bây giờ là Souk-Akras, phía bắc xứ Algérie). Cha người là Patrice, ngoại giáo, ông chỉ chịu phép Rửa tội ít lâu trước khi qua đời là năm 371. Mẹ người là bà Monica, rất thông minh và đạo đức. Người còn có một em trai, Navigius; và một em gái, sau làm bề trên nữ tu viện (nhưng không được biết chi tiết gì hơn về 2 người này).

 

I. NỀN GIÁO DỤC


Augustin học tiểu học tại Tagaste, trung học tại Madaure, và đại học tại Cartage (ở phía bắc Tunis bây giờ). Ngài là một sinh viên rất ưu tú, thông thạo văn chương cổ điển La tinh nhưng ít biết tiếng Hy Lạp.

Về hạnh kiểm, Augustin sống như các sinh viên ngoại đạo thời đó. Lúc 17 tuổi, ngài đã tư hôn với một thiếu phụ và đã sinh được một con trai, đặt tên là Adeodat. Nhà nước lúc đó làm ngơ việc tư hôn như vậy.

Khi học xong tu từ, ngài đã chọn nghề giáo sư, và đã qua văn chương 12 năm (374-386) tại Tagaste, Cartage và Milan (Ý). Trong các môn đệ của người, phải kể đến Alypius, sau sẽ làm giám mục.

Thêm vào tính mê xác thịt, Augustin còn mê dị đoan, rồi theo bè rối Manès, cuối cùng rơi vào thuyết hoài nghi.
 

II. CUỘC TRỞ LẠI


Nhưng Chúa nhân từ vô cùng, đã nghe lời cầu nguyện và nước mắt của bà Monica, mà xui khiến ba yếu tố giúp Augustin trở lại Kitô giáo: Thánh Ambrôsiô, triết học Platon và thư thánh Phaolô gởi giáo hữu Rôma. 

1/ Thánh Ambrôsiô


Sau khi từ chức giáo sư, Augustin bỏ Milan về ở nhà người bạn, tên là Verecuadua, tại Cassiciacum, cách Milan 30 cây số, từ tháng 10 năm 386 đến tháng 3 năm 387. Ở đó với ngài, có mẹ ngài, em trai ngài, con ngài và 5 môn đệ: Alypius, Licentius, Trygentius và 2 em họ của ngài. Tất cả là một nhóm 9 người. Ở đó, ngài vừa nghỉ lấy lại sức, vừa suy nghĩ và dạy mấy môn đệ theo ngài.

Mùa Chay năm 387, ngài trở lại Milan, xin ghi tên vào số các ứng viên chịu phép thánh tẩy và nghe thánh Ambrôsiô giảng dạy. Thánh Ambrôsiô có nhiều uy thế đối với các người trí thức ở Milan. Tuy Augustin chưa được chuyện vãn với người, nhưng vốn chăm chú nghe người giảng. Ban đầu Augustin chỉ thích nghe vì những bài giáo huấn rất văn chương và hùng hồn. Không ngờ Augustin bị lôi cuốn đi xa hơn.

Cách diễn giải Thánh Kinh của thánh Ambrôsiôlàm cho Augustin chú trọng đến Cựu Ước, mà trước đây ngài lãnh đạm. Cũng nhờ thánh nhân mà Augustin được làm quen với triết học Planton. 

2/ Tân triết học Platon


Những người trí thức sống chung quanh thánh Ambrôsiô đã Kitô hoá triết học Platon (cũng như sau này, thánh Thoma Kitô hoá triết học Aristote vậy). Augustin say mê triết học Platon lắm. Đã hẳn, sau này ngài sẽ nhận thấy trong tân triết học Platon có nhiều điểm không thể dung hoà với giáo lý Công giáo (thí dụ thể xác và vật chất bị coi là xấu xa và đáng khinh bỉ). Nhưng, lúc đó, đặc tính tinh thần cao thượng và quan niệm chính đáng về chân, thiện, mỹ của Platon làm cho Augustin rất phấn khởi. Và khi Victorinus dịch các tác phẩm triết học Platon và Porphyre ra La ngữ, thì Augustin mới hiểu được một cách rõ ràng hơn: Cuộc gặp gỡ này đã giải thoát Augustin khỏi ám ảnh của lý thuyết duy vật và hoài nghi. 

3/ Thư thánh Phaolô gởi giáo hữu Rôma và các cuộc trở lại gương mẫu


Nhưng đam mê xác thịt và tính kiêu ngạo còn cản trở Augustin trên con đường đi tới chân lý và trở lại hoàn toàn. Chính nhờ việc đọc lời thư thánh Phaolô (Rm 13,13-14) khuyên phải từ bỏ đam mê xác thịt, mặc lấy Chúa Kitô. Tiếp đến những tin trở lại dồn dập gởi đến cho ngài, như: Nhà hùng biện Marius Victorinus ở Rôma trở lại, hai công chức trẻ ở Trèves trở lại vì đã đọc truyện thánh Antôn tu hành.

Vậy, như đã nói trên kia, sau mấy tháng ở Cassicianum, Augustin trở lại Milan theo lớp chịu phép thánh tẩy, và trước lễ Phục sinh (23/4/387) ngài đã được Đức cha Ambrôsiô rửa tội cho, cùng với đứa con là Adeodat và môn đệ là Alypius.

Sau đó, cả nhóm kéo nhau tới cửa biển Ostie, chờ tàu về Phi châu. Nhưng bà Monica ngã bệnh và chết tại đó, ngày 3 tháng 11 năm 387.

 

III. LÀM LINH MỤC VÀ GIÁM MỤC


Chôn cất bà thân mẫu ở Ostie, rồi Augustin trở lại Rôma, ở đó một năm. Khi về Tagaste (388), ngài tụ tập một nhóm bạn bè và cựu môn sinh sống với nhau theo kiểu tu viện. 

1/ Linh mục


Rồi một ngày kia, ngài vào nhà thờ thành Hippone, đang lúc Đức giám mục già cả đề nghị với giáo dân chọn một linh mục có khả năng giúp đỡ ngài, nhất là trong việc giảng dạy, vì ngài gốc Hy Lạp, ít thông thạo La ngữ. Dân chúng biết có Augustin trong nhà thờ, liền đồng thanh kêu lên: Augustin làm linh mục! Dù ngài chối từ và khóc lóc, dân chúng cũng bắt ngài phải nhận. Augustin cho việc bỏ đời sống tu trì và chiêm niệm, mà đã thực hành từ khi trở lại, là một hy sinh rất lớn. Nhưng ngài đã chấp nhận hoàn toàn hiến thân vào việc tông đồ. Ngài thụ phong linh mục năm 36 tuổi (391, cũng là năm Adeodat từ trần). 

2/ Giám mục


Năm năm sau (395), ngài chịu chức giám mục phó. Và khi Đức giám mục già Valerius qua đời, ngài lên cầm quyền giáo phận Hippone (396).

Giá trị cá nhân và hoạt động của ngài đã tạo nên một địa vị quan trọng với hàng giáo phẩm Phi châu. Ngài còn giao thiệp với thánh Paulin, giám mục thành Nole, thuộc xứ Campanie; với thánh Jérôme ở Bêlem; với Simplicien ở Milan; với các các Đức giáo hoàng và thượng vị. Ngài chết được vài tuần, thì sứ giả của thượng vị Valentinien III mới tới Hippone mời ngài đi dự công đồng chung họp ở Ephêse năm 431.

Nhưng cốt yếu là ngài hoạt động trong giáo phận của ngài. Toàm giám mục của ngài biến thành một tu viện, các linh mục, thầy phó tế cùng với ngài sống chung, ăn chung, cầu nguyện chung. Đời sống chung mà ngài khởi xướng được đời Trung cổ bắt chước theo.

Khi lên 72 tuổi, ngài chọn một linh mục, tên là Heraclius giúp đỡ ngài, để ngài dành mỗi tuần 5 ngày mà viết tác phẩm về thần học, theo như nguyện vọng của công đồng Numidie và Phi châu.

Đầu năm 430, làn sóng Vandales tràn ngập Phi châu, chúng vây thành Hippone. Đến tháng 3, ngài lâm bệnh và qua đời, ngày 28/8/430. 

3/ Một vĩ nhân và một đấng thánh


Một vĩ nhân: Người ta đã nói về Augustin là "một trong các kẻ đã làm vẻ vang nhất cho nhân loại". Và chắc chắn người là một trong các anh tài lớn nhất của Giáo Hội. Chứng cớ là sự cao thượng về tinh thần và luân lý trong đời sống Kitô giáo và trong sự nghiệp của ngài.

Một đấng thánh: Sự thánh thiện siêu quần của Augustin từ khi trở lại, đã được các nhân chứng về đời người xác nhận, nhất là thánh Possidius, hoan hỉ mô tả các nhân đức của người (PL 32,66). Cả sách Tự Thuật cũng cho thấy lòng mến Thiên Chúa của người ảnh hưởng đến độc giả như thế nào rồi? Các tác phẩm khác cũng có những nét chứng tỏ nơi người vượt trổi nhất là đức bác ái, là linh hồn của sự trọn lành.
 

IV. VỀ SÁCH TỰ THUẬT 

1/ Sách Tự Thuật là tác phẩm trổi nhất của Augustin


Ngài đã viết về đủ mọi vấn đề: Tín lý, luân lý, kỷ luật, triết học, chú giải Thánh Kinh, huấn giáo, tu đức, phi bác bè rối... Cuốn Retractationes, mà ngài viết lúc tuổi già (426-428), cho biết là ngài đã viết 84 tác phẩm: 27 trước và 67 sau khi làm giám mục, lại chỉ rõ mỗi tác phẩm được viết dịp nào, nhằm mục đích gì, với tư tưởng chính yếu nào, và có cần phải tu chính gì không? Lúc đó ngài chưa viết cuốn De praedestinatione và De bono perséverantiae. Như vậy là ngài đã viết 96 cuốn sách, không kể bài giảng và thư tín.

Nhưng, không cuốn nào, dù ở những đoạn thiết yếu nhất hay ở những khúc hùng hồn nhất, làm chúng ta cảm động bằng cuốn Tự Thuật, được viết phỏng năm 398. Vì, ở đây, tất cả phát xuất từ đáy con tim, từ một con tim giống như con tim chúng ta, với trăm mối khắc khoải đoạn trường, với ngàn nỗi ưu tư phiền muộn hay hỉ hoan, là tất cả cuộc sống thường nhật của con người; hơn thế nữa, từ một con tim rất cởi mở, chân thành và khiêm tốn. Còn gì hơn nữa để khêu gợi cảm tình huynh đệ nơi mọi con tim, qua bao thế hệ? Cuốn Tự Thuật là một kiệt tác bất hủ của thánh Augusin. 

2/ Nội dung


Tiếng "Confessions" (bởi chữ (confiteri) ở đây theo đúng ý nghĩa của Thánh Kinh, vừa là thú tội mình, vừa là tán tụng Thiên Chúa, và ý nghĩa thứ hai này được chú trọng hơn. Vì sách Tự Thuật này không phải là một lịch sử cho bằng một kinh nguyện, một sự chiêm niệm, một sự nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa, đã được viết ra do một giám mục, một thánh nhân, hoàn toàn sống kết hợp với Thiên Chúa, bằng một đức mến thiết tha và sáng suốt. Sách này chẳng những cho chúng ta thấy những giai đoạn trở lại Kitô giáo của người, nhưng hơn thế nữa, còn dạy ta rõ cách thức người đàm đạo với Thiên Chúa làm sao, để cho sự kết hiệp với Thiên Chúa được trở nên thân mật không ngừng. Chính điểm này đã gây ảnh hưởng mạnh nhất cho đời sống Kitô giáo của các thế hệ về sau.

Sách Tự Thuật gồm 13 quyển, chia làm hai phần: Phần I gồm 10 quyển: Sau khi cảm tạ Thiên Chúa về những ơn lành đã nhận được trong đời sống quá khứ (q. I-IX), Augustin cảm tạ Chúa về hoàn cảnh hiện tại của ngài (q. X). Phần II: Người tập nhắc tâm hồn lên cùng Thiên Chúa qua Thánh Kinh (q. XI-XIII). Trong mỗi quyển, nhân dịp việc này việc nọ, người đưa ra những suy tư rất sâu sắc về triết học hay thần học. 

3/ Giá trị


Sách này không tìm thấy ngang hàng trong một nền văn hoá nào cả. Nhưng yêu cầu ta phải suy gẫm hơn là chỉ đọc qua, vì tư tưởng của tác giả rất thâm thuý. Về tự thuật, sách này biểu lộ sự khiêm tốn và thành thực, hai điều kiện cần thiết cho loại sách như vậy, và về điểm này, nó vượt xa các tác phẩm tương tự, mà tính kinh nghiệm và ích kỷ đã chỉ huy các tác giả hiện đại. Đây còn là một khoa thần học, thần học về ân sủng, được trình bày nhân khi quảng diễn truyện ký. Cho nên, ta phải để ý đến giá trị rất lớn của những đoạn văn coi như ngoài đề, mà thực ra rất ăn khớp vào lược đồ chung của cuốn sách. Sau hết, có những trang đầy tình tứ thiết tha, nhưng lại được linh hứng thần bí thuần lương siêu thoát. Chính đời sống thiêng liêng sung mãn đó làm cho cuốn sách này trở nên một kho tàng giá trị vô song!

Bản dịch sau đây căn cứ vào bản dịch của Pierre de Labriolle, cổ La ngữ và Pháp văn, in lần thứ 5, năm 1950; và bản dịch của Louis de Mondadon, chỉ có Pháp văn, in năm 1947.

***************

 

QUYỂN MỘT: KINH KHAI MẠC

 

Đoạn I:
Con người muốn ngợi khen Thiên Chúa, nhưng lại lưỡng lự về hình thức kinh nguyện của mình


1. Lạy Chúa, Chúa cao cả và rất đáng ngợi khen , Chúa rất mạnh  mẽ và thông minh khôn lường ! Con người muốn ngợi khen Chúa, nó chỉ là một phần nhỏ mọn trong tạo vật của Chúa, và nó hằng mang theo mình số phận hay chết của nó, nó hằng mang theo mình chứng cớ tội lỗi của nó  và chứng cớ rằng: Chúa chống lại những đứa kiêu căng !

Mà tuy vậy, con người, là một phần nhỏ mọn trong tạo vật của Chúa, nó muốn ngợi khen Chúa. Chính Chúa thúc giục nó tìm sự vui thoả trong việc ngợi khen Chúa, vì Chúa đã tạo dựng chúng con cho Chúa, nên tâm hồn chúng con áy náy không ngừng, cho tới khi được nghỉ yên trong Chúa .

Lạy Chúa, xin cho con biết và hiểu phải kêu cầu Chúa trước, hay phải ngợi khen Chúa trước; phải nhận biết Chúa trước, hay phải kêu cầu Chúa trước? Nhưng có ai kêu cầu Chúa mà lại không nhận biết Chúa trước? Tuy  nhiên, kẻ không nhận biết Chúa, có thể kêu cầu một vị nào khác, thay vì Chúa. Hay, đúng hơn, há người ta chẳng phải kêu cầu Chúa để được nhận biết Chúa hay sao? "Nhưng làm sao lại kêu cầu được Đấng mình không tin? Và làm sao tin được, nếu không có người rao giảng cho" ? Các kẻ tìm kiếm Chúa sẽ ngợi khen Chúa . Kẻ tìm kiếm Chúa sẽ được gặp Chúa, kẻ gặp được Chúa sẽ ngợi khen Chúa .

Lạy Chúa, xin cho con tìm kiếm Chúa trong khi kêu cầu Chúa; và kêu cầu Chúa, trong khi tin kính Chúa! Vì chúng con đã được nghe giảng về Chúa rồi. Lạy Chúa, đức tin con kêu cầu Chúa, chính đức tin mà Chúa đã ban cho con, mà Chúa đã thông cho con, nhờ nhân tính của Con Chúa và thừa tác vụ của kẻ giảng Chúa .

 

Đoạn II:
Kêu cầu, là xin Người ngự vào lòng mình (invocare = vocare in me) nếu Thiên Chúa đã ngự trị trong thế giới thụ tạo thì lời kêu cầu đó còn có ý nghĩa gì?


2. Nhưng con sẽ kêu cầu Chúa là Thiên Chúa và là Chúa của con làm sao được, vì kêu cầu Người, tức là mời Người ngự vào trong lòng con? Nhưng trong lòng con có nơi nào để Chúa ngự đến được, Chúa là Đấng đã tạo dựng trời và đất ? Lạy Chúa là Thiên Chúa con, trong mình con có cái gì để chứa được Chúa? Chớ gì trời và đất, mà Chúa đã tạo dựng và trong đó Chúa đã dựng nên con, có chứa đựng được Chúa không? Hay là vì chẳng có vật nào hiện hữu mà không bởi Chúa, nên mọi vật hiện hữu đều chứa đựng Chúa chăng? Vậy thì chính con cũng được hiện hữu, thì tạo sao con còn kêu xin Chúa ngự vào  lòng con, vì con sẽ không được hiện hữu, nếu Chúa không ở trong con? Con chưa ở âm ty, mà Chúa đã ở đó rồi, vì "Tôi có xuống âm ty, cũng sẽ thấy Người" !

Vậy, lạy Chúa con, con sẽ không được hiện hữu, tuyệt đối sẽ không được hiện hữu, nếu Chúa không ở trong con. Hay, đúng hơn, nếu con không ở trong Chúa, "vì mọi sự đều bởi Người, nhờ Người và trong Người" ! Đúng như vậy, lạy Chúa, thật đúng như vậy. Vì con ở trong Chúa, thì con còn kêu cầu Chúa ở đâu? Hay là Chúa sẽ từ đâu ngự đến trong con? Vậy con sẽ lánh mình đi đâu, ở bên ngoài trời và đất, để từ đó Chúa sẽ ngự đến trong con, Chúa là Đấng đã phán: "Ta tràn ngập cả trời và đất"?
 

Đoạn III:


3. Vậy trời và đất có chứa được Chúa không?

          Vì Chúa đã tràn ngập chúng? Hay là Chúa tràn ngập chúng mà còn dư,vì chúng không chứa được Chúa? Vậy, sau khi đã tràn ngập trời và đất, Chúa đổ vào đâu phần dư của mình? Hay là Chúa không cần phải có vật nào chứa đựng Chúa, là Đấng chứa đựng mọi sự, vì vật nào được Chúa tràn ngập, thì Chúa tràn ngập nó bằng cách chứa đựng nó? Thật vậy, không phải các bình chứa đầy Chúa làm cho Chúa được ổn định đâu. Vì nếu chúng có bị bể, thì Chúa cũng không bị tràn ra ngoài. Và khi Chúa tràn ngập chúng con, Chúa không bị rớt xuống, một là nâng chúng con lên; Chúa cũng không bị phân tán, một là đoàn tụ chúng con lại.

Nhưng tất cả những vật mà Chúa tràn ngập, Chúa có tràn ngập chúng với tất cả hữu thể của Chúa không? Hay là, vì mọi vật không thể chứa đựng được tất cả Chúa, chúng chỉ chứa được một phần của Chúa, và hết mọi vật cùng nhau chứa đựng cũng một phần ấy mà thôi chăng? Hay là mỗi vật chứa đựng một phần thích hợp: Vật lớn phần lớn, vật nhỏ phần nhỏ? Vậy nơi Chúa có phần lớn, phần nhỏ hay sao? Hay là khắp mọi nơi Chúa hiện hữu toàn thể, và không một vật nào chứa đựng được toàn thể Chúa ?

 

Đoạn IV:
Augustin tuyên xưng những lời ngợi khen Thiên Chúa; nhưng lời đó rất bất xứng với đối tượng của mình; mà nếu ở lặng thì mắc lỗi


4. Vậy, Thiên Chúa của con là gì? Con xin hỏi: Chúa là gì, nếu không phải là Thiên Chúa của con, hay sao? Vì còn có ai là Chúa, ngoài Chúa? Hoặc còn có ai là Thiên Chúa, ngoài Thiên Chúa của chúng con ?

Ôi, Chúa rất cao cả, rất tốt lành, rất thế lực, rất quyền năng, rất thương xót và rất công bằng, rất bí ẩn và rất hiện tại, rất đẹp đẽ và rất mạnh mẽ, Chúa chắc chắn mà không ai hiểu được, Chúa bất biến mà biến đổi mọi sự, Chúa không bao giờ mới, không bao giờ cũ, mà làm cho mọi sự nên mới , Chúa đưa kẻ kiêu ngạo tới chỗ cằn cỗi mà chúng không hay ; , luôn hành động và luôn yên nghỉ; Chúa thu góp mà không cần gì; Chúa cưu mang, viên mãn và chở che; Chúa tạo dựng, nuôi dưỡng và thành toàn, Chúa tìm kiếm dù chẳng thiếu gì. Chúa yêu thương mà không bồng bột; Chúa ganh tỵ mà vốn thánh thiện; Chúa hối tiếc mà không đau buồn; Chúa nổi giận mà vốn bình tĩnh; Chúa thay đổi công việc, mà không thay đổi ý định; Chúa nhận lại điều Chúa tìm được, mà Chúa không mất bao giờ; Chúa không hề nghèo túng, lại ưa lợi tức; Chúa không hà tiện, lại đòi hỏi lãi nặng . Người ta cho Chúa nhiều hơn, để Chúa phải mắc nợ, nhưng ai có sự gì mà không phải là của Chúa ? Chúa trả nơi, mà không mắc nợ ai; Chúa tha nợ, mà không mất gì.

Vậy chúng con đã nói được gì, lạy Thiên Chúa của con, là sự sống của con, là sự êm dịu lành thánh của con; vả người ta nói gì được, khi nói về Chúa? Nhưng khốn cho những kẻ làm thinh về Chúa họ là những kẻ nói nhiều, mà lại là những người câm.

 

Đoạn V:
Kêu gọi tình yêu Thiên Chúa, Đấng có thể thanh tẩy cung lòng mà Augustin dâng hiến

5. Ai sẽ cho con được yên nghỉ trong Chúa? Ai sẽ cho con được Chúa ngự vào lòng, để cho nó say mê, để cho con quên mọi tội lỗi của con và để cho con ôm lấy Chúa, là thiện hảo duy nhất của con?

Chúa là gì đối với con? Xin thương xót con, cho con được nói. Chính con là gì đối với Chúa, mà Chúa truyền cho con phải mến Chúa, và, nếu con không mến Chúa, thì Chúa đe doạ con những khổ cực lớn lao? Nhưng nếu con không mến Chúa, thì đó chỉ là một khổ cực nhỏ hay sao? Khốn cho con, lạy Chúa là Thiên Chúa của con, xin vì lòng thương xót, hãy nói cho con biết: Chúa là gì đối với con? Hãy nói cho linh hồn con rằng: "Ta là phần rỗi của ngươi" . Hãy nói điều đó, cho con nghe. Lạy Chúa, này tai lòng con ở trước mặt Chúa, xin Chúa hãy mở nó ra và hãy nói cho linh hồn con: "Ta là phần rỗi của ngươi". Con sẽ chạy theo tiếng đó và sẽ bám lấy Chúa. Xin Chúa đừng giấu con nhan thánh Chúa: Chớ gì con được chết – để khỏi phải chết – hầu được thấy nhan thánh Chúa!

6. Nhà hồn con quá chật hẹp, để Chúa ngự đến: Xin Chúa hãy làm cho nó rộng ra. Nó đã hư nát: Xin Chúa hãy sửa chữa nó. Nó có những điều  nghịch mắt Chúa: Con biết lắm và con xin thú nhận. Nhưng ai sẽ thanh tẩy nó? Con sẽ kêu cầu ai, nếu không phải là Chúa: "Tội kín có làm xin miễn chước cho. Còn kiêu căng xin cho tôi tớ Chúa được thoát" . Con vẫn tin, ngay cả khi con nói . Lạy Chúa, có Chúa biết. Chớ thì con đã chẳng phản đối con, mà kể tội con cho Chúa và Chúa đã chẳng cất tội khỏi lòng con hay sao ? Con không tranh tụng với Chúa, là chân lý; và con cũng chẳng muốn lừa dối mình con, kẻo lũ chứng gian dấy lên hại con . Không, con không tranh tụng với Chúa, vì, lạy Chúa, nếu Chúa muốn bắt tội, thì nào ai đứng vững được ư ?

TUỔI THƠ ẤU

Đoạn VI:
Các ơn lành Chúa ban cho đứa trẻ


7. Nhưng xin Chúa để cho con nói với lòng thương xót của Chúa, con là đất và là tro ; nhưng xin hãy để cho con nói, vì giờ đây con nói với lòng thương xót của Chúa, chứ không phải với con người, họ sẽ cười con. Và có khi Chúa cũng cười con nữa chăng, nhưng Chúa  ngoảnh mặt lại, thì sẽ thương xót con. Vậy, lạy Chúa, con muốn nói gì, nếu không phải là vì con không biết bởi đâu con đến đây - con phải  nói: Đến cái đời sống dở chết này, hay là đến cái chết dở sống này? Nào con có biết! Con đã được lòng thương xót ủi an của Chúa đón nhận con, như con đã được nghe biết bởi cha mẹ phần xác của con; bởi cha con và nơi mẹ con, Chúa đã dựng nên con lúc đó, vì đâu con có nhớ được?

Vậy sự an ủi  của sữa loài người đã đón nhận con. Không phải mẹ con hay các vú nuôi của con đã làm cho vú mình đầy sữa; mà chính Chúa đã dùng các ngài mà ban cho con của nuôi tuổi thơ ấu, theo kế hoạch của Chúa đã xếp đặt của cải trong mọi tạo vật. Chúa cũng làm cho con không muốn nhiều hơn Chúa ban, và cho các vú nuôi của con chỉ muốn cho con điều mà Chúa ban cho họ: Vì do một cảm tính đã được Chúa quy định, các vú nuôi đã muốn cho con sự dư dật Chúa ban cho họ. Và ích lợi của họ là chính lợi ích mà họ cung cấp cho con, nhưng không phải là của họ, một chỉ qua họ mà thôi. Vì, lạy Chúa, mọi sự lành đều bởi Chúa, và tất cả sức khoẻ của con đều bởi Chúa. Sau này con mới biết điều đó, khi Chúa đã kêu gào con bằng những ơn lành Chúa đã ban cho con, bề trong, bề ngoài. Còn lúc đó, con chỉ biết bú và ở yên khi vui sướng; hay khóc lóc, lúc thân xác yếu đau; chỉ có thế thôi.

8. Về sau con bắt đầu cười, trước là đang khi ngủ, sau là đang lúc thức. Về điều này, người ta đã chỉ cho con biết và con đã tin, vì chúng con nhận thấy như vậy nơi các trẻ khác. Về tất cả các điều dĩ vãng đó, con không nhớ gì hết. Rồi dần dần con nhận thức được rằng mình ở đâu, và con muốn bày tỏ ý muốn của con cho các người khác thi hành. Nhưng, vô hiệu: Vì các ý muốn đó ở trong con, và những người này ở ngoài con, và không ai có một quan năng nào cho phép họ đi vào tâm hồn con được. Cho nên con giơ tay chân, và lên tiếng, làm những dấu hiệu biểu thị ý muốn của con, được sao hay vậy: Vì chúng không bày tỏ được đúng. Và khi người ta không nghe theo con, hoặc vì không hiểu, hoặc vì sợ có hại cho con, thì con tức giận họ, như những người bất phục, mặc dầu họ là người lớn và tự do, không muốn làm nô lệ con. Các trẻ thơ mà con có thể xem xét, thì con thấy như vậy cả, và vô tình, chúng đã chỉ cho con biết, còn hơn các vú nuôi biết con, là lúc đó con cũng như vậy.

9. Này đây, tuổi thơ ấu của con đã chết từ lâu, mà con vẫn sống. Nhưng, lạy Chúa, Chúa hằng sống, và chẳng có sự gì chết trong Chúa cả, vì trước muôn đời và trước tất cả những gì có thể được gọi là trước, Chúa đã có và Chúa là Thiên Chúa và là Chúa tất cả những gì Chúa đã tạo dựng và nơi Chúa chứa đựng nguyên nhân mọi vật chóng qua, và nguồn gốc bất biến của mọi vật thay đổi, và các lý trí vĩnh cửu của mọi vật vô lý trí và tạm thời. Lạy Chúa, xin hãy nói cho con là kẻ kêu van Chúa, và vì lòng thương xót, xin hãy nói cho người tôi tớ khốn khổ của Chúa biết: Đời thơ ấu của con có tiếp theo một kiếp sống nào của con đã chết rồi không? Hay chính đó là thời kỳ con đã sống trong lòng mẹ con? Vì về thời kỳ đó, người ta đã cho con biết qua loa, và chính con cũng nhìn thấy các phụ nữ mang thai. Nhưng trước đó, con là gì, lạy Chúa là Đấng nhân từ của con? Lúc đó con ở đâu, hay là vật gì? Vì không có ai trả lời cho con điều đó; cha con, mẹ con, kinh nghiệm của tha nhân và ký ức của con, đều bất lực. Hay là Chúa cười con, vì hỏi những câu như vậy và Chúa truyền cho con phải ngợi khen và tôn vinh Chúa về những điều con biết mà thôi chăng ?

10               Lạy Chúa Trời đất , con tôn vinh Chúa và ngợi khen Chúa về điều những buổi đầu và tuổi thơ ấu của con, mà con không nhớ nữa; nhưng Chúa đã ban cho con người được nhờ kẻ khác mà ước đoán các sự đó về mình, cùng dựa vào bằng chứng các phụ nữ mà tin biết được nhiều sự về mình nữa. vậy lúc đó, con đã là một hữu thể, một sinh vật và về cuối tuổi thơ ấu của con, con đã tìm những dấu hiệu để cho kẻ khác biết cảm giác của con.

Lạy Chúa, bởi đâu mà có sinh vật này, nếu không phải bởi Chúa? Hay có ai tự tạo được mình chăng? Hay từ đâu phát xuất một nguồn mạch tuôn trào hữu thể và sự sống tới chúng con, chứ không phải chính Chúa làm nên chúng con hay sao? Lạy Chúa, vì đối với Chúa hữu thể và sự sống không phải la hai sự khác nhau, vì hiện hữu tối cao và sự sống tối cao chỉ là một.

Thật vậy, Chúa là hữu thể tối cao, và Chúa không thay đổi , và trong Chúa không có ngày hôm nay kết liễu, tuy  nhiên nó kết liễu trong Chúa, vì tất cả các sự ấy đều ở trong Chúa: Vì chúng sẽ không tìm được lối đi, nếu Chúa không cầm giữ chúng. Và vì các năm của Chúa không có hạn , cho nên các năm của Chúa là ngày hôm nay vĩnh cửu: Và nhờ này hôm nay của Chúa, mà bao nhiêu ngày của chúng con, bao nhiêu ngày của cha ông chúng con, đã qua đi và đã nhận lãnh mức độ của chúng và các cách thức hiện hữu của chúng. Và còn nhiều ngày nữa sẽ qua đi và cũng sẽ nhận lãnh mức độ của chúng và cách thức hiện hữu của chúng. Còn Chúa, Chúa vốn thế  và các việc của ngày mai và của tương lai, Chúa sẽ làm hôm nay; các việc của ngày qua và của dĩ vãng, Chúa đã làm hôm nay.

Nếu ai không hiểu điều đó, thì con biết làm sao? Chính kẻ ấy hãy vui mừng mà kêu lên rằng: "Cái gì lạ vậy" ? Phải, họ hãy vui mừng như vậy, và thà tìm mà không hiểu, hơn là hiểu mà không tìm thấy Chúa.

 

Đoạn VII
Sự vô tội của đứa trẻ còn trong nôi ở đâu?


12. Lạy Chúa, xin nghe lời con. Khốn cho tội lỗi loài người! Một người đã nói lời đó, và Chúa đã thương xót nó, vì Chúa đã làm nên nó, chứ không phải làm nên sự tội ở trong nó.

Ai sẽ nhắc cho con nhớ lại tội lỗi trong tuổi thơ ấu của con . Vì trước thánh nhan Chúa, chẳng có một ai sạch tội, dù là đứa trẻ nhỏ mới sống được một ngày trên trái đất ! Ai sẽ nhắc nhở cho con? Há chẳng phải là bất cứ một trẻ rất nhỏ bé nào bây giờ, cũng cho con thấy được những điều mà con không còn nhớ về con nữa hay sao?

Vậy lúc đó con phạm tội gì? Há chẳng phải là ham bú, đến khóc lóc hay sao? Vì nếu bây giờ con làm như thế, không phải là ham bú mà ham các của ăn hợp với tuổi của con, thì hẳn là thiên hạ rất có lý mà chê cười và khiển trách con. Cho nên lúc đó, con đã làm những điều đáng trách. Nhưng vì bấy giờ con chưa thể hiểu được phải trách mắng, và thói tục cũng như lý trí không cho phép mắng trách con. Vì càng lớn lên chúng con càng phải nhổ rễ và vứt đi xa các nếu xấu đó. Và con chưa hề thấy ai, trong khi thanh tẩy cái xấu, lại chủ ý vứt cái tốt đi.

Vậy có phải là điều tốt chăng, dù cho một thời gian mà thôi: Khi khóc lóc kêu gào cho được cả những điều có hại cho con không? Khi giận dữ với những người độc lập, tự do, và tuổi tác, với cả cha mẹ con và nhiều người khôn ngoan khác nữa, chỉ vì họ không làm theo ý muốn của con, không? Khi hết sức đánh đập, cố làm hại họ, vì họ từ chối không vâng theo những mệnh lệnh có hại cho con, không?

Như vậy, sự bất lực của các chi thể nhỏ bé và vô tội, chứ tâm hồn của nó không vô tội . Chính con đã thấy và đã quan sát một trẻ nhỏ ghen tương: Nó chưa biết nói, nhưng nó trừng trừng nhìn anh sữa của nó, với bộ mặt tái sanh và có vẻ chua cay lắm! Điều đó ai mà không biết? Các bà mẹ và các vú nuôi đều nói là sẽ loại trừ được các tật xấu đó, bằng những phương dược nào, con không biết? Hay là người ta cũng cho là vô tội, khi nguồn sữa thân mẫu tuôn chảy rất dồi dào, mà không chịu chia sẻ cho người anh em rất cần sữa đó, như của ăn duy nhất cho được sống? Nhưng người ta khoan dung tha thứ cho các nết xấu đó, không phải vì chúng không là gì hay ít quan trọng, một là vì người ta tin rằng: Chúng sẽ tan biến với thời gian. Lý do là người ta không thể chịu đựng được chúng, khi bắt găp chúng ở nơi người lớn tuổi hơn.

Vậy, lạy Chúa Trời con, chính Chúa đã ban cho con trẻ sự sống và thân xác, như chúng con thấy, có các cơ năng cảm giác, được cấu tạo với các chi thể thích hợp, được trang sức bằng một hình dáng kiều diễm và được huy động bằng một nguyên tắc nội tại để thống nhất và bảo tồn. Chúa truyền cho con phải ngợi khen Chúa về các ơn ấy, phải tôn vinh Chúa và đàn ca danh thánh Chúa, lạy Đấng Tối Cao . Vì Chúa là Chúa toàn năng và tốt lành, dầu Chúa chỉ làm các sự này, mà không một ai khác ngoài Chúa có thể làm được. Lạy Chúa độc nhất, các kích thước đều bởi Chúa mà ra; lạy Đấng tác thành tuyệt hảo, Chúa đã tác thành mọi sự và xếp đặt mọi sự theo luật của Chúa.

Vậy, lạy Chúa, con không nhớ mình đã sống thời kỳ đó, con chỉ tin vào lời kẻ khác, và qua các trẻ thơ, con đã ước đoán được con đã sống thế nào thôi; mặc dầu ước đoán đó rất đáng tin, con cũng khó kể thời kỳ đó vào đời sống của con ở trần gian này. Nó thuộc về miền tối tăm quên lãng của con, nên nó giống như thời kỳ mà con sống trong lòng mẹ vậy. Nhưng nếu "con đã được thụ thai trong gian ác", nếu "trong tội lỗi, mẹ con đã nuôi con nơi lòng mình" , thì ở đâu, con xin hỏi Chúa, lạy Chúa Trời con; thì ở đâu, lạy Chúa, con là tôi tớ Chúa; thì ở đâu và khi nào, con đã là vô tội? Nhưng thôi, con bỏ qua thời kỳ đó. Thực ra, có liên hệ gì giữa con và thời kỳ mà con không nhớ gì hết?

TUỔI THIẾU NIÊN

Đoạn VIII
Con trẻ tập nói thế nào?


13. Có phải đi từ tuổi thơ ấu đến đây, con bước tới tuổi thiếu niên không? Hay là đúng hơn, chính tuổi thiếu niên đã tới trong con và đã kế tiếp tuổi ấu thơ chăng? Không phải tuổi này ra đi, vì nó sẽ đi đâu? Tuy nhiên nó không còn nữa. vì lúc đó con không còn là một đứa trẻ thơ, không biết nói, mà đã là một em nhỏ biết nói năng. Con nhớ điều đó, và sau này con xác nhận được: Con đã làm thế nào để học nói?

Lúc đó, không phải là những người lớn dạy con, bằng cách trưng bày những tiếng nói theo một thứ tự giáo khoa như ít lâu sau này, khi con học chữ nghĩa, một là chính con sử dụng trí khôn, mà Chúa đã ban cho con; lạy Chúa Trời con, khi con muốn bộc lộ tâm tình của con, bằng những tiếng rên rỉ, những lời nói, và những cử chỉ khác nhau, để cho người ta vâng theo ý muốn của con; nhưng con không thể làm cho người ta hiểu con về tất cả những gì con muốn và cho tất cả những người con muốn. Con dùng trí nhớ mà ghi nhận (các tiếng nói), khi người ta gọi tên vật nào đó, và khi theo tiếng gọi đó, người ta quay mình về vật đó: Con quan sát và nhận thấy rằng: Khi họ chỉ vật đó, thì họ nói lên tiếng đó. Còn điều họ muốn, thì được biểu lộ qua cử chỉ của thân xác, là như những tiếng nói tự nhiên của mọi dân tộc, được biểu thị bằng nét mặt và liếc mắt, bằng sự cử động của các chi thể khác, và bằng tiếng nói, nhờ đó các tâm tình được biểu lộ, tuy  như họ muốn kêu xin, muốn chiếm hữu, muốn từ bỏ hay muốn xa lánh những sự gì đó. Như vậy, các tiếng nói được xếp đặt vào địa vị của chúng trong các câu nói khác nhau và được nghe nhiều lần, làm cho con dần dần hiểu biết: Chúng là ád6u hiệu cho những thực tại nào và con đã sử dụng chúng để bày tỏ ý muốn của mình, với cái miệng lưỡi đã thành thạo về chúng.
Theo cách đó, con đã tương thông các dấu hiệu, biểu thị ý muốn với các người sống chung quanh con, và, dưới quyền của cha mẹ và ý muốn của người lớn, con đã đi sâu vào xã hội náo nhiệt của đời sống con người.
 
NỀN GIÁO DỤC

Đoạn IX
Những khổ cực của trò Augustin


14. Lạy Chúa, lạy Chúa con, lúc đó con phải khổ cực và thất vọng dường nào! Vì người ta bắt tuổi trẻ của con phải chấp nhận như một luật sống tốt đẹp là vâng lời thầy dạy, để được vẻ vang trên đời này và được giỏi giang về khoa ăn nói, sẽ cung cấp cho con danh vọng loài người và của cải giả dối! Rồi người ta cho con đi nhà trường, để học chữ nghĩa, nhưng khốn cho con, con không biết điều đó có ích lợi gì cho con? Tuy vậy, mỗi khi con lười học là con bị ăn đoàn. Các người lớn cho thế là hay, và nhiều người đã đi trước chúng con trong cuộc đời đó và đã mở những đường lối khốn khổ đó, mà chúng con bị bó buộc phải đi qua, với bao vất vả và khổ cực cho con cháu Ađam !

Tuy nhiên, lạy Chúa, chúng con cũng thấy có những người kêu cầu Chúa, và chúng con đã học hỏi nơi nọ, theo như cảm thức mà chúng con có thể có về Chúa, là có một Đấng cao cả, dù không hiện diện ra trước giác quan của chúng con, cũng có thể nghe lời chúng con và cứu giúp chúng con. Khi còn nhỏ bé, con đã bắt đầu cầu xin Chúa, như Đấng cứu giúp và che chở con  và cho được kêu cầu Chúa, con đã dứt đứt dây buộc lưỡi con và con kêu xin Chúa, tuy còn nhỏ bé, nhưng với một sự sốt sắng không nhỏ bé, cho khỏi bị ăn đòn ở trường học. Và khi Chúa không nghe lời con  - đó là điều tốt cho con - thì người lớn, kể cả cha mẹ con, thường không muốn sự dữ nào xảy đến cho con, cũng vui cười về các thương tích của con: Đó là cái khổ cực lớn lao và nặng nề cho con lúc đó.

15               Lạy Chúa, có một tâm hồn cao thượng, kết hợp với Chúa bằng một tình yêu nồng nhiệt, vâng, con xin hỏi Chúa - vì có lần, một thứ vô cảm điên rồ cũng đi tới kết quả đó - có một người nào, sốt sắng kết hợp với Chúa bằng một tình yêu mãnh liệt đến nỗi thản nhiên trước các cực hình: Ngựa gỗ , móc sắt và các hình cụ khác như vậy - tức là các hình cụ làm cho người ta khiếp sợ, và ở khắp thế gian, người ta đều kêu xin Chúa cho được thoát khỏi - đang khi người đó lại yêu thương những kẻ khiếp sợ các hình khổ đó, như cha mẹ chúng con, lại vui cười trước các hình phạt, mà các thầy dạy giáng xuống chúng con như vậy sao? Vì chúng con cũng sợ các hình phạt đó không kém sự tra tấn kia, và con cũng không kém cầu xin Chúa cho chúng con được thoát khỏi. Tuy nhiên, chúng con đã lỗi phạm, vì không viết, không đọc, không suy nghĩ đủ về bài học của chúng con, như người ta đòi hỏi ở chúng con.

Lạy Chúa, không phải chúng con thiếu trí nhớ hay trí khôn, mà Chúa đã muốn cho chúng con có đầy đủ cho lứa tuổi đó, nhưng vì chúng con ham chơi, mà những kẻ cũng ham chơi như chúng con lại oán phạt chúng con. Tuy nhiên, những trò chơi của người lớn thì được gọi là công tác, còn cũng những trò chơi đó của trẻ con, thì bị người lớn phạt; thế mà không có ai thương xót các trẻ con, hay các người lớn, hay cả hai. Trừ phi có quan án chân chính nào công nhận rằng: Con bị đòn là vì, khi còn trẻ, đã chơi ban và vì chơi như vậy mà bị cản trở không mau chóng học hành chữ nghĩa, để mai sau, khi lớn lên, con sẽ chơi cái trò chơi hèn hạ hơn chăng? Hay chính là kẻ đánh đòn con đã hành động thể khác, vì nếu trong một cuộc cãi lộn của con, y bị thua một người bạn giỏi hơn, thì y đã tỏ ra y tức bực và cay cú hơn con nhiều, khi con bị thua một người bạn, trong cuộc chơi ban !

Đoạn X


16. Tuy nhiên, con đã lỗi phạm, lạy Chúa Trời con, là Đấng quy định và tác tạo mọi sự trong thiên nhiên, còn về các tội lỗi, Chúa chỉ là Đấng quy định; lạy Chúa Trời con, con đã lỗi phạm, khi hành động trái với mệnh lệnh của cha mẹ con và của các thầy dạy con. Vì sau này, con có thể lợi dụng cách tốt đẹp các chữ nghĩa mà các ngài muốn con học tập, dù ý tứ của các ngài thế nào đi nữa. không phải vì chọn điều tốt hơn mà con đã trở nên bất phục tùng, một là vì ham chơi, ưa thích những thắng lợi kiêu hãnh trong các cuộc thi đua và thích "gãi tai" với các chuyện hoang đường, làm cho chúng càng thêm ngứa; sự tò mò, mỗi ngày một phát triển mạnh trong con mắt, sẽ lôi kéo đến các cuộc diễn kịch, là những trò chơi của người lớn, những kẻ trình diễn thường được uy thế lắm, đến nỗi hầu hết mọi người đều ước ao cho con cái mình làm được như vậy, nhưng họ lại sẵn sàng đánh đòn chúng, nếu việc xem kịch cản trở chúng học hành, là điều, theo như họ ước mong, một ngày kia sẽ làm cho chúng trình diễn được như vậy.

Lạy Chúa, xin hãy lấy lòng từ bi mà nhìn xem các việc đó và hãy cứu chữa chúng con , là kẻ đã kêu cầu Chúa, cũng xin hãy cứu chữa những kẻ chưa kêu cầu Chúa, để họ kêu cầu Chúa và để Chúa cứu chữa họ.

 

Đoạn XI
Ảnh hưởng Kitô Giáo đầu tiên


17. Khi con còn nhỏ, con đã được nghe nói về cuộc sống đời đời, được hứa ban cho chúng con nhờ sự khiêm nhượng của Chúa là Thiên Chúa chúng con, đã hạ mình tới sự kiêu ngạo của chúng con, và con đã được in dấu Thánh giá của Người và đã được nếm muối thánh của Người, ngay khi ra khỏi lòng mẹ con, người trông cậy rất nhiều vào Chúa.

Lạy Chúa, Chúa đã thấy, khi con còn nhỏ, một ngày kia, do một cơn đau bao tử bất thần, con bị sốt nặng gần chết, Chúa đã thấy, lạy Chúa con, vì Chúa đã là Đấng gìn giữ con44, Chúa đã thấy với tâm tình nào và với lòng tin nào, con đã van nài người mẹ đạo đức của con, và Giáo Hội Chúa, là mẹ của chúng con hết thảy, cho con được chịu phép thánh tẩy của Đức Kitô Con Chúa, là Chúa và là Thiên Chúa của con.

Và người mẹ phần xác của con rất xúc động, vì với tâm hồn trong trắng, người còn lấy làm sung sướng hơn nữa được sinh nở phần rỗi đời đời cho con trong đức tin vào Chúa, người vội vã lo liệu cho con được học khai tâm để chịu bí tích cứu rỗi, trong khi tuyên xưng Chúa, là Đức Giêsu của con, cho được ơn tha tội; nhưng đột nhiên, bệnh con suy giảm. Cho nên cuộc thanh tẩy đã bị hoãn lại, như thế, nếu còn sống, con cần phải vấy bẩn thêm nữa. Vì hẳn là sau cuộc thanh tẩy, nếu con sa ngã phạm tội, thì trách nhiệm sẽ nặng hơn và nguy hiểm hơn chăng?

Như vậy, con đã tin, mẹ con đã tin và tất cả gia đình con, chỉ trừ một mình cha con. Tuy nhiên, người không lấn át ảnh hưởng đạo đức của mẹ con trên con, để con khỏi tin vào Chúa Kitô như người chưa tin vậy. Vì mẹ con cố gắng hết sức, để chính Chúa làm cho con, lạy Chúa, hơn là cha con; và trong việc này, Chúa đã giúp mẹ con thắng cha con. Mặc dầu tốt lành hơn, mẹ con vốn vâng phục cha con , vì trong việc này cũng vậy, người vâng phục Chúa, là Đấng đã truyền dạy điều đó.

18. Lạy Chúa, con nài xin Chúa, con muốn biết, nếu đó là ý Chúa, vì mục đích nào, lúc đó con bị hoãn lại, chưa được chịu phép thanh tẩy? Có phải vì ích lợi cho con, mà các dây cương tội lỗi như được thả lỏng cho con, hay không được thả lỏng? Bởi đâu mà ngày nay, từ khắp nơi, con còn nghe thấy người này người nọ nói: "Cứ để cho nó làm, vì nó chưa chịu phép thánh tẩy". Thế mà về sức khoẻ phần xác, chúng con không nói: "Cứ để cho nó bị thương nữa đi, vì nó chưa khỏi?" Vậy, giả như con được chữa lành sớm hơn, thì có phải chúng con - con với các người nhà con - sẽ tỏ ra sốt sắng hơn, để đặt linh hồn đã được cứu rỗi của con dưới sự che chở chắc chắn của Đấng đã ban ơn ấy cho con không?

Vâng, như vậy sẽ tốt hơn. Nhưng bao nhiêu cơn sóng cám dỗ ghê sợ đang rinh xô tới con, sau khi qua tuổi trẻ; mẹ con đã biết tất cả và người đã muốn thà liều thí miếng đất sét, đề sau thành hình con, hơn là thí cái hình ảnh đã được hoàn thành .

 

Đoạn XII
Sự câu thúc của học đường: Những ưa thích và những chán ghét của Augustin


19               Nhưng trong thời kỳ thiếu niên, mà người ta không phải lo lắng cho con bằng thời kỳ thanh niên, thì con lại không ưa học hành và con ghét bị cưỡng bách phải học hành; tuy nhiên con bị cưỡng bách và đó là điều tốt cho con, mà con thì không hành động tốt: Vì con chỉ học vì bị cưỡng bách. Thật vậy, chẳng ai hành động tốt vì miễn cưỡng, mặc dầu việc họ làm tự nó là điều tốt. Và những người cưỡng bách con cũng không hành động tốt, nhưng nhờ Chúa, lạy Chúa, mà việc  của họ là điều tốt cho con. Vì những người cưỡng bách con không nhìn thấy mục đích nào khác cho con hơn là để thoả mãn những ham vọng vô đáy về một sự nghèo nàn mênh mông và về một danh vọng ô nhục. Phần Chúa, là Đấng thông biết hết mọi sợi tóc trên đầu chúng con , Chúa đã lợi dụng cho con sự sai lầm của những người ép buộc con học hành, như hình phạt mà con đáng phải chịu: Một đứa bé thế, mà đã là một tội nhân lớn thế! Như vậy, từ nơi những người hành động không tốt, Chúa đã rút ra sự tốt cho con, và từ nơi con lỗi phạm, Chúa đã rút ra hình phạt cân xứng cho con. Và Chúa đã truyền sao, thì đã xảy ra như vậy, là tâm hồn nào vô trật tự, thì chính nó sẽ là hình phạt cho nó.

 

Đoạn XIII


20               Vì lý do nào, con ghét tiếng Hy Lạp, mà từ nhỏ con đã phải học? Mà cho cả đến ngày nay, con cũng chưa nhận thức được rõ ràng. Vì con rất thích tiếng La tinh, không phải thứ La tinh học ở các lớp sơ đẳng, mà ở các lớp thầy dạy văn chương. Vì con coi các môn sơ đẳng, như tập đọc, tập viết, tập tính, không kém chán nản và khổ cực bằng tiếng Hy Lạp. Vậy bởi đây mà có cảm giác đó, nếu không phải là bởi tội lỗi, và bởi sự gian trá của đời sống, trong đó con chỉ là xác thịt, là hơi thở qua đi mà không trở lại  hay sao? Tuy vậy, các môn học cơ bản đó đã làm cho con có khả năng, và bây giờ con vẫn mang ơn, là đọc được bất cứ sách vở nào con gặp và viết được bất cứ điều gì con muốn; các môn này tốt hơn và thực tế hơn các môn văn chương, trong đó người ta bắt con phải học thuộc lòng cuộc phiêu lưu của tên Enée nào đó , mà quên những cuộc phiêu lưu của chính mình con; phải khóc cái chết của Didon, đã tự vẫn vì tình, đang khi con là người khốn nạn nhất, không có một giọt nước mắt nào cho mình, khi các chuyện đó đã làm cho con phải chết xa Chúa, lạy Chúa, là sự sống của con.

21               Thật vậy, còn gì khốn nạn hơn con người khốn nạn, không biết thương chính mình, mà đi khóc cái chết của Didon đã tự tử vì yêu Enée, mà lại không khóc cái chết của mình, vì thiếu tình yêu Chúa, lạy Chúa, là sự sáng của lòng con, và là bánh ăn bề trong của linh hồn con  và là sức mạnh bổ dưỡng trí khôn con và tâm tư con? Con đã không mến Chúa và đã thất tín với Chúa, và đang khi thất tín với Chúa, thì con nghe khắp nơi lên tiếng "hoan hô, hoan hô". Thật vậy, tình nghĩa với thế gian kiểu này là thất tín với Chúa , và nếu người ta kêu "hoan hô, hoan hô"  là đã bêu xấu kẻ nào không làm như vậy. Về các sự yếu đuối đó, thì con không khóc, mà lại khóc Didon đã tự vẫn bằng thanh sắt, trong quyết định cuối cùng ; chính con cũng đã bỏ Chúa mà chạy theo các tạo vật cuối cùng của Chúa: Đất sét lại trở về đất sét. Giả như người ta cấm con đọc các truyện cổ, thì con lại buồn rầu vì không được đọc những cái làm cho con buồn rầu. Và người ta coi những điều cuồng dại đó như một môn học cao hơn và có ích lợi hơn môn học đã dạy con biết đọc và biết viết!

22               Nhưng bây giờ, xin Chúa hãy kêu lên trong linh hồn con, xin sự chân thật của Chúa hãy nói cho con: "Không phải thế, không phải thế!" Nền giáo dục cơ bản rất tốt, vì này đây, con rất sẵn sàng quên đi các cuộc phiêu lưu của Enée và các truyện khác như vậy, hơn là tập đọc, tập viết. Cho nên, những tấm màn căng trước các trường học văn chương không biểu thị một bí mật phải tôn trọng, mà một sai lầm phải che đi. Họ đừng kêu trách con làm gì, những kẻ không làm cho con sợ nữa, khi mà con tuyên xưng cho vinh danh Chúa, lạy Chúa, những điều mà linh hồn con ước muốn, và khi con được yên lòng trong việc lên án các đường lối xấu xa của con, để được yêu mến các đường lối tốt lành của Chúa . Những kẻ mua bán văn chương đừng có kêu trách con làm gì! Nếu con hỏi họ câu này: "Có thật sự ngày xưa Enée đã tới Cartage không?". Kẻ ít học sẽ trả lời là không biết; còn kẻ thông thái hơn sẽ cho là việc đó không thật! Nhưng nếu con hỏi họ: Tiếng Enée phải viết như thế nào? Thì tất cả những người đã học đánh vần đều trả lời đúng, theo như hiệp ước của xã hội loài người đã ấn định ý nghĩa các dấu hiệu đó. Lại nữa, nếu con hỏi họ: Điều nào hại hơn trong đời sống của họ: Quên đi việc tập đọc và tập viết, hay là những chuyện tưởng tượng của các thi sĩ? Ai mà không đoán được câu trả lời của kẻ nào chưa hoàn toàn mất trí?

Vậy, con đã lỗi phạm, vì, khi còn nhỏ, con ưa thích các sự vô ích hơn là các sự hữu ích, hay nói đúng hơn, vì con đã ghét các sự này và đã thích các sự kia. "Một với một là hai, hai với hai là bốn", con ghét câu đầu lưỡi đó, mà lại ham mê những hình ảnh giả tạo, như một con ngựa gỗ chứa đầy lính vũ trang, cuộc đốt phá thành Troie, cho cả đến cái bóng dáng của Creusa .
 
 

Đoạn XIV


23               Vậy tại sao con lại ghét văn chương Hy Lạp  cùng ca hát những chuyện như vậy? Vì chính Homère cũng rất giỏi thêu dệt các chuyện kiểu đó: Trống rỗng nhưng rất bùi ta, trái lại rất cay đắng với con, khi còn trẻ. Con cũng tin rằng: Virgile cũng thế đối với trẻ em Hy Lạp, khi chúng bị cưỡng bách phải học ông, như con khi phải học Homère vậy. Đã hẳn, đây là một khó khăn gắn liền với việc bắt đầu học một ngoại ngữ, sự khó khăn đó như thể đã hoà một thứ mật đắng vào tất cả sự êm dịu của các truyện biến ngôn Hy Lạp. Lúc đó con chưa biết một tiếng Hy Lạp nào, và để muốn cho con học, người ta đã giận dữ đưa ra những hình phạt nghiêm khắc và ghê sợ để đe doạ con.

Xưa kia, khi còn nhỏ bé, đâu con có biết tiếng La tinh; thế mà chỉ cần để ý m6ọt chút, con đã học được, mà không phải sợ hãi hay phải đau khổ gì, trái lại, giữa những mơn trớn của vú nuôi và sự chơi đùa vui giỡn của các người chung quanh. Thật vậy, con đã học La tinh mà không phải thúc giục hăm doạ, vì lòng con thúc giục con phải phát biểu ý niệm của mình, điều đó con sẽ không thể làm được, nếu con không học một số danh từ, không phải với các giáo sư, mà với những người nói chuyện trước mặt con, và con cũng phát biểu cho họ nghe những cảm nghĩ của con.

Như thế đủ rõ: Cho được học tiếng, thì tính hiếu kỳ tự do có hiệu lực hơn là sự cưỡng bách sợ hãi . Tuy nhiên, nhờ kỷ luật của Chúa, lạy Chúa, sự cưỡng bách cầm hãm làn sóng hiếu kỳ; vâng, kỷ luật của Chúa, từ roi vọt của các giáo sư cho đến các cơn thử thách của các thánh tử đạo, đã biết gia giảm sự đắng cay hữu ích, để kêu gọi chúng con trở về với Chúa và từ bỏ những thú vui nguy khốn, đã làm cho chúng con xa Chúa.

 

Đoạn XV


          Lạy Chúa, xin nghe lời con kêu cầu , xin cho linh hồn con khỏi mỏi mệt dưới kỷ luật của Chúa, và cho con khỏi mỏi mệt trong việc tuyên xưng các ân huệ của Chúa, nhờ đó Chúa đã kéo con ra khỏi các đường lối sâu xa của con; xin Chúa hãy trở nên êm dịu cho con hơn tất cả những gì quyến rũ đã làm cho con nghe theo; và xin cho con mến Chúa cách rất nồng nhiệt và ôm lấy tay Chúa hết sức con, để Chúa kéo con ra khỏi mọi chước cám dỗ, cho đến hết đời con . Thật vậy, lạy Chúa, Chúa là vua và là Chúa của con: Tất cả những gì hữu ích con đã học được khi còn nhỏ, sẽ để phục vụ Chúa; con có nói gì, viết gì, đọc gì, tính gì, tất cả các sự ấy đều sẽ để phục vụ Chúa; vì khi con học những sự nhảm nhí Chúa đã sửa phạt con, và những tội lỗi con phạm vì ưa thích các sự nhảm nhí đó, Chúa đã tha thứ cho con. Thật ra, con đã học trong đó nhiều danh từ hữu ích; nhưng người ta có thể học được các danh từ đó trong những chuyện không nhảm nhí; đó là con đường chắc chắn, cho các trẻ em đi vào.

 

Đoạn XVI
Augustin lên án các hư xấu đồi bại của thần thoại trong giáo khoa


25               Khốn cho mi, dòng suối phong tục loài người! Ai uống lại được mi! Bao giờ mi mới khô cạn? Cho đến bao giờ mi còn lôi cuốn các con cái Evà xuống biển mênh mông ghê sợ mà cả những kẻ nằm trên thập giá cũng khó vượt qua: Chớ thì không phải trong lòng mi mà ta đã đọc truyện thần Jupiter vừa làm sấm sét vừa ngoại tình hay sao? Hẳn là ông không thể làm hai chuyện một trật, nhưng công việc đã được xếp đặt như vậy, để có cớ mà bắt chước một cuộc ngoại tình đích thực, mà sấm sét chỉ đóng vai trò dàn cảnh mà thôi . Nhưng có ai trong các giáo sư khoác áo choàng dám bình tĩnh nghe một người cũng bởi bụi đất như họ kêu lên rằng: "Chính Homère đã bịa ra chuyện đó và đã gán cho thần minh những yếu đuối của lắng nghe; phần tôi, tôi ước ao gán cho loài người những sự cao thượng của thần minh?". Nhưng đúng hơn phải nói: Chính Homère đã thêu dệt chuyện đó, nhưng khi gán thần tính cho các người xấu nết, là để cho thiên hạ khỏi coi những việc xấu của họ là xấu; và để kẻ nào làm những việc xấu đó được coi là theo gương các thần minh trên trời, chứ không phải là bắt chước những con người hèn mạt!

26               Tuy nhiên, hỡi dòng suối hoả ngục, người ta đã quăng vào lòng mi các con cái loài người, cùng với tiền học phí, để được học biết các chuyện đó. Và đây là việc trọng đại, vì được trình diễn công khai, giữa hội trường quốc dân, dưới con mắt pháp luật, và pháp luật còn cung cấp cho giáo sư một thù lao chính thức, ngoài tiền đóng góp của học sinh! Và mi đập vào hai bên bờ đá của mi, thành những tiếng vang inh ỏi, như thế mi muốn nói: "Chính nơi đây, người ta học nói, chính nơi đây, người ta hấp thụ tài hùng biện, là điều rất cần thiết để thuyết phục kẻ khác và biện  minh tư tưởng của mình". Và như vậy, chúng con sẽ không biết những danh từ như "mưa vàng, lòng dạ, gạt gẫm, vòm trời..." được ghi trong đoạn văn của Terence, nếu thi sĩ không đưa vào sân khấu tên thanh niên phóng đãng, đã lấy bụt Jupiter làm gương mẫu dâm ô hay sao? Thật vậy, y nhìn vào bức bích hoạ, đã theo thần thoại cổ truyền, mà trình bày thần Jupiter đang làm "mưa vàng" xuống lòng dạ Dana, để gạt gẫm y thị! Ai mà không thấy: Bài học của thầy trời đã thúc đẩy người thanh niên truỵ lạc? Y kêu lên: Ô, thần minh mà thế, đấng làm chấn động cả bầu trời! Huống chi tôi, con người hèn mọn, lại không làm được thế sao? Phải, tôi đã làm và tôi lấy đó làm hãnh diện!

Nhất định không, nhất định không phải việc xấu xa đó làm cho người ta dễ nhớ các danh từ, mà là các danh từ đó làm cho người ta phạm tội một cách táo bạo hơn. Con không buộc tội chính các danh từ như những bình chọn lọc và quý giá, nhưng là một thứ rượu sai lầm, mà các giáo sư say mê đã đổ vào đó cho chúng con; mà nếu chúng con không uống, thì chúng con sẽ bị đòn, mà không được phép cầu cứu với một quan án tiết độ nào hết.

Thế mà, lạy Chúa, là Đấng đang nghe con ôn lại dĩ vãng trong hoàn cảnh bình an, lúc đó con lại ưa học các chuyện ấy, và lấy đó làm thích thú! Thật con là đứa khốn nạn! Và vì thế, người ta lại cho con là một trò rất có tương lai!

 

Đoạn XVII


27               Lạy Chúa, xin Chúa cũng ban phép cho con nói đôi lời về tài trí mà Chúa đã ban cho con, nhưng con đã phí phạm trong những việc nhảm nhí như thế nào? Vậy người ta cho con một đề tài khá bận tâm, với sự hứa ban khen thưởng, hay lo sợ mất mặt, hoặc bị đòn; đó là phải đóng vai thần Junon nói lên sự bực tức và khổ não của y thị, vì đã không thể làm cho vua thành Troie đừng đi về phía nước Ý . Con biết rõ Junon không hề nói những lời đó, nhưng người ta bắt chúng con phải phiêu lưu theo sự tưởng tượng của thi sĩ, và đặt thành văn xuôi, những gì thi sĩ đã viết bằng thơ , trò nào vừa giữ được những tâm tình bực tức và khổ não của y thị, bằng những lời văn thích đáng nhất, thì sẽ được khen ngợi nhiều.

Lạy Chúa, là sự sống thật của con, tất cả các sự đó có ích gì cho con? Ích gì cho con, khi đọc bài của mình mà được người ta khen ngợi hơn các bạn học, khi họ đọc bài của họ? Tất cả các sự đó, há chẳng phải là khói và là gió hay sao? Như vậy, há không có đề tài nào khác để luyện tập trí khôn và ngôn ngữ của con hay sao? Phải chi những lời khen ngợi Chúa, lạy Chúa, phải chi những lời khen ngợi Chúa, được ghi chép trong Thánh Kinh, đã nâng đỡ cành cây nhỏ dại của lòng con, thì hẳn là nó không bị cuốn theo những phù vân nhảm nhí và trở nên mồi ăn nhơ nhớp cho chim trời? Vì đâu phải chỉ có một cách để hy sinh cho các thần phản bội?

 

Đoạn XVIII
Ưu tư luân lý lệ thuộc vào tài hùng biện!


28               Có lạ gì mà con sa lầy trong những sự nhảm nhí và xa Chúa, lạy Chúa, con chia trí trăm đàng, vì người ta bảo con phải bắt chước những người, khi kể những việc lành, mà sai vần sai văn pháp, thì bị khiển trách; còn nếu kể những việc xấu một cách đàng tả và trật tự, với những danh từ chính xác, và thích hợp, thì lại được khen.

Lạy Chúa, Chúa thấy như vậy, mà Chúa làm thinh, nhẫn nại, giàu lượng từ bi  và chân thật. Nhưng Chúa làm thinh mãi hay sao? Vậy bây giờ Chúa đã kéo ra khỏi vực sâu ghê sợ  một linh hồn còn tìm kiếm Chúa và khát khao những sự khoái lạc của Chúa , và lòng con nói với Chúa rằng: Con đã tìm thánh nhan Chúa nữa . Vì sống trong đam mê tăm tối, là sống xa thánh nhan Chúa, lạy Chúa, và con còn tìm thánh nhan Chúa. Thật vậy, không phải do chân bước hay chạy qua không gian mà người ta đi xa Chúa, hay tới gần Chúa; hay là người con út của Chúa trong Phúc Âm đã phải sắm ngựa xe hay tàu bè, hoặc đã phải dùng cánh vô hình mà bay, hoặc đã phải mạnh bước trên đường, để đi phương xa tiêu phí hết của cải, mà Chúa, là Cha nhân từ, đã ban cho nó lúc ra đi, và Chúa còn tỏ lòng nhân từ hơn nữa, mà ban cho nó lúc trở về tay không: Sống trong đam mê dâm dật tức là sống trong tối tăm, và là sống xa nhan thánh Chúa.

29               Xin Chúa hãy xem, lạy Chúa; với sự nhẫn nại thông thường của Chúa, xin Chúa hãy xem con cái loài người cẩn thận noi giữ các hiệp ước về chữ, về vần, do các người khéo nói đầu tiên để lại, mà sao lãng các hiệp ước vĩnh cửu về phần rỗi đời đời Chúa đã ban cho họ, đến nỗi kẻ nào phải duy trì hay dạy bảo môn phát âm, mà lại trái với văn pháp đọc tiếng "con người (homo)", mà không đọc khí âm ở đầu (omo), thì y sẽ xúc phạm đến người ta, hơn là khi, trái với luật Chúa; y ghen ghét người ta, trong khi chính y cũng là người. Như thể cảm thấy một kẻ thù thì nguy khốn hơn là sự ghen ghét của mình đối với kẻ ấy; hay là như thể vết thương mình có thể gây cho tha nhân khi đánh đuổi nó thì nặng nề hơn chính thương tích mình gây cho lòng mình, bằng sự để lòng ghen ghét nó. Đã hẳn, khoa văn chương không được in sâu trong người ta bằng lương tâm, thường bảo người ta không được làm cho tha nhân điều mình không muốn tha nhân làm cho mình.

Chúa bí ẩn thay, chỉ có một mình Chúa là Đấng cao cả, ở trên các tầng trời, trong nơi thinh lặng, và theo quy tắc nhẫn nại của Chúa, Chúa gieo rắc sự mù quáng oán phạt vào các đam mê bất chính. Vì thế, con người hám danh hùng biện đứng trước mặt quan toà, có đông dân chúng tham dự, thì y hết sức đề phòng kẻ lỡ bỏ sót một tiếng gió (như inter omines thay vì inter homines), nhưng y không màng chi đến việc lỡ quá tức giận, mà loại trừ một người anh em khỏi xã hội chăng?
 
 

Đoạn XIX
Thứ giáo dục đó đã ảnh hưởng xấu đến Augustin


30               Con, là đứa trẻ vô phúc, đã nằm ở ngưỡng cửa thứ trường luân lý đó, và cuộc thi đua của văn đài được thực hiện theo một đường lối, làm cho con sợ nói sai văn pháp, hơn là, nếu con sai, sợ đánh ghen các bạn không sai.

Con nói lên các điều ấy, lạy Chúa, và con thú tội với Chúa, là các sự yếu đuối ấy đã làm cho con được tiếng khen của những kẻ, mà, lúc đó, vinh dự đời con là làm đẹp lòng họ. Vì con đã không nhìn thấy vực sâu ô nhục mà con đã bị quăng vào, xa con mắt Chúa .

Vì trước con mắt Chúa, có gì đánh khinh bỉ hơn con! Vì lúc đó, con cũng làm mất lòng cả các người ấy, bằng bao nhiêu tội lừa dối giảng viên, giáo sư và cha mẹ, chỉ vì ham chơi, say mê những vở kịch nhảm nhí, điên cuồng bắt chước các trình diễn đó? Con cũng lỗi phạm trong những vụ trộm vặt ở kho của cha mẹ, hay ở bàn ăn, hoặc vì mê ăn uống, hoặc để có cái gì cho các trẻ, cùng thích chơi như con, để chúng cho con chơi với chúng. Cả trong vụ chơi đó, cũng vì nô lệ tính ham mê được hơn người, nhiều khi con ăn gian để được cuộc. Tuy nhiên, có điều con không muốn chịu đựng và sẽ khích bác dữ dội, nếu con bắt được quả tang một trẻ em gian lận, như chính con đã gian lận với chúng! Và nếu con bị bắt quả tăng và bị khiển trách, thì con lại muốn xung lên hơn là chịu nhận.

Kết luận thần học

Vậy đó có phải là sự vô tội của trẻ con không? Không phải, lạy Chúa, không phải, xin tha phép cho con nói, lạy Chúa Trời con. Vì tất cả các sự này - từ giảng viên và giáo sư về hạt dẻ, quả ban và chim sẻ cho đến quan quyền và vua chúa về vàng bạc, động sản và người nô lệ - không có khác nhau là mấy; thế hệ trẻ đến thế hệ già, cũng như roi vọt rồi đến hình phạt nặng hơn, sự thế xưa nay vốn vậy.

Vậy hẳn là Chúa khen ngợi sự khiêm tốn được hình dung nơi tầm vóc các trẻ nhỏ, khi Chúa phán: "Nước Trời thuộc về những kẻ giống như chúng"?

 

Đoạn XX
Năng thể lý và các thiên tư tinh thần mà người được hưởng từ thời kỳ đó


31               Tuy nhiên, lạy Chúa, con cảm tạ Chúa, là Đấng tạo hoá, là Chúa tể chí cao, chí nhân của vũ trụ, mặc dầu Chúa chỉ muốn cho con là một trẻ nhỏ. Vì lúc đó, con đã hiện hữu, con đã có sự sống, và cảm giác, và lo bảo vệ sự toàn vẹn của con người con, là hình ảnh của Đấng Độc Nhất nhiệm mầu, đã phát sinh ra con. Nhờ ý thức nội tại con duy trì được sự sinh hoạt hoàn hảo của các giác quan, và chính trong những tư tưởng vụn vặt về những đối tượng vụn vặt, mà con vui mừng tìm được chân lý. Con không muốn bị lừa dối; trí nhớ của con lành mạnh; con được học tập ăn nói; tình bạn hữu làm con vui thoả; con trốn tránh sự đau khổ, đê tiện, dốt nát. Có gì trong một sinh vật như con muốn không đáng bỡ ngỡ và lạ lùng hay sao? Nhưng tất cả các sự ấy là ơn huệ của Chúa ban cho con, chứ không phải là của con ban cho mình đâu: Tất cả c1c sự ấy đều tốt lành và tất cả các sự ấy đã làm nên con. Cho nên Đã đã làm nên con là Đấng tốt lành, và chính Người là sự thiện hảo của con, và con ca tụng Người về các ơn lành đã làm nên con, mặc dầu con còn nhỏ bé.

Còn tội lỗi của con là đã không tìm nơi Chúa, mà tìm nơi tạo vật - nơi con và nơi kẻ khác - khoái lạc, cao thượng và chân lý, và, vì thế, con đã rơi vào đau khổ, hỗn loạn và lầm lạc. Con cảm tạ Chúa, lạy Chúa, là sự êm dịu của con, là vinh dự và là hy vọng của con. Con cảm tạ Chúa về những ơn huệ của Chúa; nhưng xin Chúa gìn giữ các ơn huệ đó cho con. Vì như vậy, Chúa sẽ gìn giữ chính mình con, và những ơn huệ Chúa đã ban cho con sẽ được gia tăng và kiện toàn, và con sẽ được sống với Chúa, vì cũng chính Chúa đã ban sự sống cho con.

***********

 

QUYỂN HAI:
TUỔI THANH NIÊN

 

Đoạn I
Những phấn kích đầu tiên


1                 Con muốn ôn lại những hành vi xấu xa quá khứ của con và những hư đốn xác thịt của linh hồn con. Không phải vì con ưa thích chúng, một là để yêu mến Chúa, lạy Chúa Trời con. Vì yêu mến tình thương của Chúa, con làm như vậy: Là ôn lại các đường lối xấu xa của con, trong một ký ức đắng cay, để được nếm sự ngọt ngào của Chúa. Ôi, sự ngọt ngào không lừa dối, sự ngọt ngào diễm phúc và chắc chắn, và đã thu hồi nơi Chúa hữu thể bị phân tán tan tành của con, vì khi lìa bỏ Chúa là Đấng độc nhất, con đã bị chia trí trăm đàng hư ảo. Thực vậy, lúc đó trong tuổi thanh xuân, con hăng say thoả mãn mọi khoái lạc hạ cấp, và dám để cho mình buông theo mọi thứ tình yêu tăm tối và diện mạo con hoá ra tiều tuỵ , thân xác con trở nên thối tha trước nhan thánh Chúa, đang khi con tự mãn với mình và muốn làm đẹp lòng người ta.

 

Đoạn II


2                 Và cái gì làm cho con say mê lúc đó, há chẳng phải là yêu và được yêu hay sao? Nhưng con không giữ mối tương quan giữa tâm hồn với tâm hồn làm đường lối sáng sủa cho tình nghĩa, một để cho nhục dục nhơ nhớp và sự bồng bột của tuổi xuân xông lên những làn khói mù bao phủ và che lấp lòng con, đến nỗi con không biết phân biệt sự sáng sủa của tình yêu và sự tối tăm của nhục dục. Cả hai tình yêu đều bốc cháy lẫn lộn trong con, lôi kéo tuổi xuân khờ dại của con qua những ghềnh dốc đam mê và dìm con xuống vực thẳm các nết xấu.

Cơn thịnh nộ của Chúa đè nặng trên con, mà con không biết. Những xiềng xích sự chết của con kêu la inh ỏi làm cho con trở nên điếc, đó là hình phạt cho tâm hồn kiêu ngạo của con. Và con đi xa Chúa mãi, mà Chúa để vậy. Sự dâm đãng đã làm cho con dao động và xiêu té, phung phí và tiêu tan sức lực, mà Chúa làm thinh.

Ôi, niềm vui thú muộn mằn của con! Lúc đó, Chúa làm thinh và con cứ đi xa Chúa mãi, gieo thêm mầm mống đau thương vô ích, vì thất vọng kiêu căng, vì mỏi mệt không được bình yên.

Chớ gì, lúc đó, có ai hoà nhịp cho đời sống khổ cực của con, dạy cho con biết lợi dụng cho mình những quyến rũ chóng qua mà mỗi sự vật mới lạ gợi lên trong con; đặt một mục đích cho các khoái lạc mà con nhận được nơi chúng, hầu tuổi xuân bồng bột của con như sóng biển gặp được bến hôn nhân, nếu không tìm được bình yên bằng cách nào khác, với mục đích tự nhiên là sinh sản con cái, theo luật Chúa đã dạy, lạy Chúa. Chúa tạo dựng cả nòi giống hay chết của chúng con, Chúa có thể dùng bàn tay êm dịu của Chúa làm nhụt cái gai nhọn đã bị loại khỏi địa đường của Chúa2. Thật vậy, sự toàn năng của Chúa không ở xa chúng con, mặc dầu chúng con xa Chúa.

Hoặc là lúc đó con đã không chăm chỉ hơn để nghe tiếng Chúa từ đám mây phán dạy: "Những người như vậy suyễn chuốc lấy khốn khổ cho thân xác mình. Còn tôi, tôi muốn tránh cho anh em"3. Và "Đối với người nam không vương vấn đến phụ nữ quả là điều tốt"4. Và "người độc thân thì lo việc Chúa, sao cho hài lòng Chúa. Người đã kết bạn thì lo việc đời sao cho hài lòng vợ"?5 Chớ gì con đã để tai nghe những lời ấy hơn! Và như "hoạn nhân vì  Nước Trời"6, con đã được sung sướng hơn, chờ đợi cái hôn của Chúa.

4                 Nhưng khốn thay, đang lúc tình dục sôi nổi, con buông theo sự hăng say của làn sóng bên trong, mà bỏ Chúa và lỗi phạm các giới răn của Chúa, mặc dầu không tránh được đòn vọt của Chúa. Thật ra có người nào tránh được đâu? Vì Chúa hằng ở cạnh chúng con, Chúa nhân từ và nghiêm khắc, Chúa gieo một sự chán nản đắng cay vào mọi thú vui bất chính của con, để cho con tìm kiếm sự vui thú không chán nản. Và ở đâu con có thể tìm được sự ấy, con chỉ tìm được sự ấy trong Chúa, lạy Chúa, vâng, trong Chúa, là Đấng lấy đau khổ làm thầy dạy chúng con7, Chúa đã thương và để chữa lành và giết chết chúng con để chúng con khỏi phải chết xa Chúa8.

Lúc đó con ở đâu và ở chốn lưu đày nào thật xa những vui thú của nhà Chúa, vào năm 16 tuổi xác thịt của con, khi con chịu quyền cái tôi và hoàn toàn vâng phục cơn sốt tình dục, mà sự sỉ nhục của loài người dung túng, còn luật Chúa thì nghiêm cấm? Các người nhà con cũng chẳng nghĩ đến việc lấy cuộc hôn nhân mà cứu vãn tình thế nguy ngập của con, họ chỉ lo cho con học ăn nói thật hay và tập thuyết phục thật giỏi.

 

Đoạn III
Những tháng ở nhưng


5                 Năm ấy, sự học hành của con bị gián đoạn, con phải bỏ Madaure, là thành phố lân cận9, nơi con đã bắt đầu học văn chương và hùng biện. Cha con phải thu góp tiền bạc cần thiết để cho con đi học xa hơn và lâu hơn, tại Cartage. Cha con nghe theo lòng cao vọng hơn là khả năng tài chính, vì người chỉ là một công dân bình thường tại Tagaste mà thôi.

Con kể các việc này cho ai? Không phải là cho Chúa, lạy Chúa Trời con. Nhưng khi nói với Chúa, là con nói cho nòi giống của con, cho nhân loại, cho một phần bé nhỏ nào đó, có thể đọc các tranh sách này. Và chuyện này có ý gì? Có ý cho bất cứ ai đọc đến và cho chính mình con nữa, được nhận thức: Từ vực thẳm sâu nào chúng con phải kêu lên cùng Chúa10, và không có gì đáng Chúa nghe cho bằng một con tim thống hối, và một đời sống hợp đức tin11.

Có ai lúc đó lại không đề cao cha con, là người đã vượt quá khả năng tài sản của mình, để đài thọ phí tổn cho con mình được đi học xa? Biết bao nhiêu công dân khá giả hơn cha con nhiều, mà đâu họ có lo gì đến việc hy sinh như vậy, cho con cái họ? Thế mà cha con lại không hề lo lắng cho biết con sẽ lớn lên thế nào trước mặt Chúa và vấn đề trinh khiết của con ra sao, miễn là con biết nói hay, lạy Chúa, hay đúng hơn "đói thay"12 về văn hoá của Chúa, lạy Chúa, là thầy dạy duy nhất, chân thật và tốt lành cho mảnh ruộng của Chúa là tâm hồn con13.

Vậy năm con lên 16 tuổi, phải ở nhưng, vì gia đình thiếu phương tiện, con không đi học nữa. Con bắt đầu ở nhà với cha mẹ, thì các gai góc của đam mê cũng mọc lên quá đều con, mà không có bàn tay nào nhổ chúng đi cho. Hơn thế nữa, khi đi tắm, cha con thấy con có dấu dậy thì và bắt đầu tuổi xuân giông tố, thì sung sướng, như thế sắp được bế cháu: Ngài hăm hở đi báo cho mẹ con biết; vâng, sự hăm hở say mê làm cho thế gian này quên Chúa là Đấng tạo hoá của mình, và yêu tạo vật của Chúa thay vì Chúa14; sự say mê là hậu quả của một thứ rượu vô hình nơi con tim bại hoại hay chiều về hạ giới. Nhưng trong lòng mẹ con Chúa đã bắt đầu xây dựng đền thờ của Chúa, đặt nền tảng cho nhà tạm của Chúa. Vì cha con lúc đó chỉ là dự tòng, và mới được ít lâu thôi. Vì thế lòng đạo đức của mẹ con đâm ra run rẩy kinh hoàng, và mặc dầu con chưa là tín hữu,người cũng sợ cho con gặp phải những con đường khúc khuỷu đưa người ta quay lưng lại thay vì quay mặt về với Chúa chăng?15.

7                 Thật là khốn cho con! VÀ con dám nói rằng: Chúa đã làm thinh, lạy Chúa, đang khi con lìa Chúa, mỗi ngày một xa hơn? Mà lúc đó thật sự có phải Chúa đã làm thinh với con không? Vậy là của ai mất không phải là của Chúa, những lời mà que mẹ con, là tín hữu của Chúa, Chúa đã lắp đi lắp lại vào tai con? Nhưng không lời nào xuống tới lòng con để được thực hiện. Điều mà mẹ con muốn - và con còn n hớ người đã kín đáo và ân cần nhủ bảo con - là con chớ có làm tà dâm, nhất là chớ có phạm tội ngoại tình với vợ ai!

Con cho đó là những lời khuyên của đàn bà, nghe theo là một tủi nhục. Thật ra, những lời đó là của Chúa, mà con không biết, và con tưởng Chúa làm thinh, chỉ có mẹ con nói. Nhưng qua người, Chúa đã nói với con, và con đã khinh dể Chúa nơi mẹ con, vâng, chính con, là con của người, là con của nữ tỳ Chúa16 và là tôi tớ Chúa. Nhưng con không biết thế, và con đã cắm đầu theo đàng tội lỗi và mù quáng đến nỗi, với các bạn đồng trạc, con lấy làm xấu hổ vì không xấu bằng chúng; vì con nghe chúng khoe những việc đê hèn của chúng; và việc càng xấu, chúng càng hãnh diện; và con cũng muốn làm như chúng, không những cho được thoả thích, mà còn cho được tiếng khen. Có gì đáng chê trách hơn là thói xấu? Thế mà vì sợ chê trách, con đã trở nên đứa xấu nết hơn cả, và khi không làm được những tội ác thật sự, để được bằng những đứa xấu nhất, con đã phải giả đò là đã làm những việc mà thực ra con đã không làm: Con sợ bị khinh thị hơn vì vô tội, bị coi là hèn hạ hơn vì trong sạch hơn!

8                 Với những bạn bè như vậy, con la cà các xóm Babylon và đằm đìa trong bùn nhơ của nó, như trong dầu quế và các thuốc thơm hảo hạng nhất17. Và để cầm chân con trong bùn nhơ đó, kẻ thù vô hình đã dày đạp con và quyến rũ con, là con người dễ bị quyến rũ18. Quả thật, cả mẹ phần xác của con cũng vậy, người đã trốn thoát khỏi trung tâm Babylon19 nhưng còn chậm rãi ở vùng lân cận, người đã khuyên con sống thanh khiết, thế mà người cũng không lo chấm dứt bằng tình yêu hôn nhân, nếu không cắt đứt được, điều mà người đã nghe cha con nói về con, và người đã cảm thấy nó như thứ ôn dịch, mai sau sẽ nguy hại cho con: Người không lo làm việc ấy, vì người sợ dây hôn phối sẽ cản trở hy vọng của con; không phải hy vọng về đời sau, mà mẹ con đặt nơi Chúa, mà là hy vọng văn chương, mà như con biết, cha mẹ con rất ước ao cho con: Cha con, vì hầu như người không nghĩ đến Chúa, còn về con, thì người chỉ có những tư tưởng hư danh; về phần mẹ con, vì người tưởng rằng: Môn học truyền thống đó chẳng những không hại gì cho con, mà còn giúp cho con phần nào để đi tới Chúa.

Con nghĩ như vậy, theo khả năng của con, khi nhớ lại tính nết của cha mẹ con. Người ta thả lòng cho con chơi bời, quá độ nghiêm chỉnh, buông theo mọi thứ đam mê, và các sự đó, nổi lên một thứ sương mù che mắt con không nhìn thấy chân lý quang minh của Chúa, lạy Chúa, và như thế từ bản thể con phát xuất sự gian ác của con20.

THÍCH THÚ LÀM HẠI

 

Đoạn IV
Chuyện ăn trộm


9                 Lạy Chúa, hẳn là luật Chúa phạt tội ăn trộm, và luật đó đã được ghi tạc vào lòng mọi người, thì chính sự gian ác không thể xoá bỏ được: Có đứa ăn trộm nào lại sẵn lòng chịu cho người ta lấy trộm của mình không? Cũng chẳng có người dư giả nào tha thứ cho đứa ăn trộm vì sự túng thiếu thúc đẩy nó. Thế mà con, con đã muốn ăn trộm và đã ăn trộm, không phải vì sự túng thiếu thúc đẩy, mà chì vì nghèo nàn và chán ghét sự công chính và lòng đầy gian ác. Vì con đã ăn trộm của mà con có dự thừa và còn tốt hơn, và con không thích thú về các của con ăn trộm, mà về chính sự ăn trộm và sự tội.

Ở cạnh vườn nho của chúng con, có một cây táo rất sai trái, nhưng về hình dáng và hương vị thì chẳng có gì làm chúng con thèm khát. Thế mà lũ thanh niên mất dạy chúng con, theo thói quen xấu chơi giỡn ở phố cho tới đêm khuya, rồi kéo nhau tới rung cây táo, lấy hết trái mang đi nặng nề, không phải để ăn, mà chỉ để vứt đi cho heo. Nếu chúng con có ăn một phần nào, thì tất cả thích thú của chúng con là vì đã làm một việc cấm đoán mà thôi.

Tâm hồn con là thế đó, lạy Chúa, tâm hồn con là thế đó, mà Chúa đã thương xót nó từ dưới đáy vực sâu. Bây giờ tâm hồn con hãy thưa cho Chúa biết nó tìm cái gì ở đó: Một sự xấu xa vô ích, một sự xấu xa không có lý do nào khác ngoài sự xấu xa. Vì nó xấu xa mà con ưa thích nó; con ưa thích sự hư đi của mình, con ưa thích sự sa đoạ của mình, con không ưa thích cái làm cho con sa đoạ mà là chính sự sa đoạ! Tâm hồn nhơ nhớp và lìa bỏ sự nâng đỡ vững chắc của Chúa, để hư đi, không ưa thích cái gì vì hư đốn, mà ưa thích chính sự hư đốn.
 
 

Đoạn V
Đâu là lý do thông thường của tội lỗi?


10               Quả thật, các sự tốt đẹp, như vàng, bạc vv... đều có sự thú vị của chúng. Xác thì thì hợp với xúc giác và có giá trị ở đó, các vật cung cấp cho các quan năng khác những phản ứng thích hợp. Cả đến danh vọng chóng qua và quyền hành sai khiến và cai trị cũng có sự vẻ vang của chúng, do đó mà sinh ra ham vọng báo thù. Tuy nhiên, trong khi tìm kiếm các sự ấy,người ta không được đi ra ngoài Chúa, lạy Chúa, hoặc với trái với luật Chúa. Chính sự sống, như chúng con đang hưởng ở đời này, cũng có sự quyến rũ của nó vì nó có sự tốt đẹp riêng của nó, và vì nó đều hoà với các sự tốt đẹp khác ở trần gian. Cả đến tình nghĩa giữa loài người là điều êm dịu cho những liên lạc thân ái, làm cho nhiều người chỉ có một tâm hồn.

Chính các sự ấy và các sự khác như vậy nên cớ cho chúng con phạm tội, khi, vì một xu hướng thái quá về các sự đó, là những của hèn kém, chúng con bỏ quên những của tốt hơn và cao thượng, là Chúa, lạy Chúa, là chân lý của Chúa, là lề luật Chúa. Quả thật, các của trần gian có sự quyến rũ của chúng, nhưng không như Chúa của con, là Đấng tạo dựng mọi sự, vì người công chính mừng vui trong Chúa và Chúa là hoan lạc các tâm hồn ngay thẳng21.

11               Vậy khi hỏi cho biết vì lý do nào người ta phạm tội ác, thì thường người ta chỉ tin là đã tìm ra, khi khám phá được nơi tội nhân ước muốn đạt được hay sợ mất đi một trong các của cải, mà chúng con đã gọi là hèn kém. Thật vậy, các của cải đó, mặc dầu so với các của cao quý và diễm phúc, thì thật là đáng khinh chê và hèn mạt, nhưng chúng cũng có sự tốt đẹp và vinh dự của chúng. Như có kẻ phạm tội giết người, thì có thể hỏi tại sao nó phạm tội đó? Là vì nó mê vợ hay của cải của người nó đã giết; hay nó đã muốn ăn trộm để có cái mà sống; hoặc nó sợ người kia lấy trộm của nó; hay vì bị xúc phạm, nó nóng ruột muốn báo thù... Chẳng lẽ nó giết người vô cớ, chỉ vì thích giết người? Ai tin được? Quả thật, người ta cũng kể chuyện một người kia, như điên khùng và rất dữ, vô cớ y thích tỏ ra xấu xa và dữ tợn như vậy. Nhưng sử gia22 cũng đã cho biết một lý do: Y sợ sự ở nhưng làm tê liệt tay chân và tinh thần? Nhưng tại sao vậy, tại sao? Là vì y muốn khi làm chủ được thành Rôma, y sẽ chiếm hữu vinh dự quyền hành, của cải, tự giải thoát mình khỏi sợ hãi pháp luật và mọi khó khăn mà y gặp phải vì kém lý tài và vì ý thức tội lỗi của mình. Cho nên điều mà Catilina ưa thích không phải là chính các tội ác, một là những điều mà các tội ác đó làm cho y đạt được.
fin
 

Đoạn VI
Trong tội trẻ con đó, Augustin ưa thích sự dữ vì là sự dữ


12               Nhưng khốn cho ta, ta yêu cái gì nơi mi, hỡi tội ăn trộm của ta, hỡi tội ác đêm khuya lúc tuổi 16 của ta? Mi đâu có đẹp đẽ gì, vì là tội ăn trộm! Hoặc mi có phải là một cái gì hiện thực, để ta nói chuyện với mi? Các trái chúng con đã ăn trộm thật là đẹp, vì chúng là tạo vật của Chúa, lạy Đấng tốt đẹp tuyệt vời, Đấng tạo dựng mọi sự, là Thiên Chúa tốt lành, là sự tốt lành tuyệt đối và là sự lành đích thực của con. Phải, các trái đó đẹp; nhưng không phải chúng mà tâm hồn chúng con ưa thích. Con có nhiều trái tốt hơn; nên con đã hái chúng chỉ là để ăn trộm mà thôi. Vì vừa hái chúng, con đã vứt chúng đi, con chỉ nếm sự gian ác của con mà lấy làm vui sướng: Nếu có trái nào vào miệng con, thì chính tội của con là tất cả hương vị.

Và bây giờ, lạy Chúa, con tìm xem cái gì đã lôi cuốn con và việc ăn trộm, và thật ra nó không có gì là tốt đẹp: Con không nói đến sự tốt đẹp như gặp thấy trong sự công bình và khôn ngoan, cũng không phải như sự tốt đẹp ở trí khôn nhân loại, ở trí nhớ, các quan năng và đời sống thực vật; cũng không phải như sự tốt đẹp của tinh tú huy hoàng tại chỗ của chúng, của trái đất và biển cả, nơi chứa đầy sinh vật, luôn luôn kế tiếp nhau mà sống; cũng chẳng giống như vẻ đẹp bất toàn và ngoài mặt của các nết xấu, hay lừa dối chúng con.

13               Quả thật, kẻ kiêu ngạo thì bắt chước sự cao thượng của Chúa, nhưng chỉ một mình Chúa là Đấng tối cao mà thôi23. Kẻ ham vọng tìm kiếm gì, nếu không phải là danh dự và vinh quang? Đang khi chỉ có một mình Chúa trên lọi loài đáng được kính trọng và tôn vinh muôn đời. Và những bạo chúa muốn gì, nếu không phải là được thiên hạ sợ hãi; nhưng có ai đáng được kính sợ, nếu không phải là một m2inh Thiên Chúa: Đã có ai, bao giờ, nơi nào, giải thoát được một sự gì khỏi quyền phép của Chúa? Những đứa dâm đãng mơn trớn vuốt ve để được yêu thương; nhưng không có sự gì êm dịu cho bằng tình thương của Chúa, cũng chẳng có gì đáng được yêu mến cách lành mạnh bằng chân lý của Chúa, tốt đẹp và sáng láng hơn mọi sự. Kẻ tò mò làm bộ sốt sắng với khoa học; đang khi Chúa biết hết mọi sự m6ọt cách tuyệt vời. Cả những kẻ dốt nát và ngu ngốc cũng tự khoác cho mình danh nghĩa là đơn sơ và ngay thật; vì người ta không tìm được ai đơn sơ hơn Chúa, và ai có ngay thật bằng Chúa, vì chính việc làm của tội nhân làm hại chúng? Kẻ lười biếng ra vẻ ưa thích sự yên tĩnh, nhưng có sự yên tĩnh đích thực nào ngoài Chúa? Kẻ sống xa hoa muốn được coi như những người thoả mãn và đầy đủ; nhưng chính Chúa là sự sung mãn và là nguồn mạch vô tận những khoái lạc bất hủ. Kẻ sống phung phí mạo nhận danh nghĩa con người quảng đại, nhưng chính Chúa là Đấng ban phát mọi ơn lành một cách rất quảng đại. Kẻ hà tiện muốn có nhiều của cải, nhưng Chúa có hết mọi sự. Kẻ ghen tỵ cạnh tranh về ư thế, nhưng có ai ưu thế hơn Chúa? Kẻ giận dữ ham báo thù, nhưng có ai báo oán công bằng hơn Chúa? Kẻ lo lắng bảo đảm an toàn cho những gì nó yêu quý, run sợ trước những nguy cơ bất thường và bất ưng, nhưng đối với Chúa, làm gì có sự bất thường, làm gì có sự bất ưng? Hay ai có thể lấy được khỏi Chúa điều Chúa yêu; hay tìm đâu ra an toàn ngoại trừ nơi Chúa? Kẻ buồn bã hao mòn vì đã mất những của cải xưa nay làm thoả mãn tính tham lam của nó, vì nó cũng muốn được như Chúa, là không thể bị ai lấy mất của gì!

14               Như vậy, linh hồn phạm tội ngoại tình khi lìa bỏ Chúa mà đi tìm ở ngoài Chúa những sự, mà nó chỉ tìm được trong sạch và tinh tuyền, bằng cách trở lại với Chúa mà thôi. Những kẻ tìm xa Chúa và chống lại Chúa đều bắt chước Chúa một cách ngược đời. Nhưng khi bắt chước Chúa như vậy, họ chứng tỏ Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ, và như vậy, người ta không thể có cách nào lìa hẳn được Chúa.

Vậy con đã ưa thích cái gì trong việc ăn trộm này và con đã bắt chước Chúa cách tầm bậy tầm bạ như thế nào? Có phải con đã lấy làm thích thú lỗi luật Chúa bằng mánh lới, vì không thể bằng sức mạnh, không? Vì là nô lệ, con đã muốn giả tạo cho mình một sự tư do hư ảo, bằng cách mù quáng bắt chước sự toàn năng của Chúa để vô can làm một việc cấm đoán không? Đây thật là đứa đầy tớ trốn chủ mình và đi theo một bóng tối. Ôi hư hoại, ôi đời sống thác loạn và vực sâu sự chế! Điều không được phép đã có thể làm cho con thích thú, chỉ vì là điều không được phép hay sao?24

 

Đoạn VII
Augustin nhớ lại tội mình mà không sợ hãi, vì biết chúa đã thứ tha


15               Con sẽ đền đáp Chúa làm sao25 về sự kiện là trí khôn con nhớ lại các sự ấy mà linh hồn con không sợ hãi gì? Lạy Chúa, con yêu mến Chúa, con cảm tạ Chúa và con tôn vinh danh Chúa26, vì Chúa đã tha thứ ngần ấy việc xấu xa và gian ác của con. Con quy vào ơn Chúa và lòng nhân từ của Chúa, là Chúa đã làm tan biến các tội lỗi con như băng giá27. con cũng quy vào ơn Chúa tất cả những sự xấu mà con đã không làm vì có tội nào mà con không thể phạm, vì con ưa thích cả tội ác vô ích nữa?

Và con thú thật là Chúa đã tha tất cả cho con, các tội con đã tự động lỗi phạm, và các tội mà nhờ ơn Chúa con đã không phạm. Có người nào, suy nghĩ đến sự yếu đuối của mình, mà dám gán cho sức riêng mình đức trinh khiết và sự vô tội của mình, đến nỗi họ mến Chúa ít hơn, như thể họ ít cần đến lòng nhân từ của Chúa, làm cho Chúa tha thứ tội lỗi của các kẻ trở lại cùng Chúa không? Vậy kẻ nào đã được Chúa kêu gọi và đã nghe lời Chúa, đã tránh được những tội đọc thấy ở đây, như con nhắc lại và thú nhận về mình, thì đừng có cười con, vì đã được chữa khỏi bệnh, như thầy thuốc đã làm cho họ không phải ngã bệnh, hay đúng hơn, khỏi phải bệnh nặng hơn; họ hãy mến Chúa như vậy, và hơn nữa, vì chính Đấng mà họ thấy đã giải thoát con khỏi những bạc nhược của tội lỗi, họ cũng thấy đã cứu họ khỏi mắc phải các tội lỗi đó.

 

Đoạn VIII
Phân tích tâm lý về sự vui sướng trong việc đồng phạm


16               Khốn thân con, lúc đó con đã được lợi lộc gì trong các việc ác ôn mà bây giờ nhớ lại con phải xấu hổ28, nhất là việc ăn trộm. Trong việc này, con đã ưa thích chính sự ăn trộm, chứ không gì khác; mà vì chính nó là hư vô, nên con càng là đứa khốn nạn hơn nữa! Tuy nhiên con đã không làm việc đó một mình - con nhớ lúc đó tâm trạng con là như vật - một mình thì hẳn là con sẽ không phạm tội đó. Cho nên, con cũng ưa thích sự đồng loã với những đứa cùng phạm tội với con. Và như vậy, không phải là con không ưa thích gì ngoài việc ăn trộm; hẳn là thế, con không ưa thích gì khác, vì cả sự đồng loã này cũng là hư vô.

Vậy thực tế là làm sao? Ai sẽ dạy cho con biết, nếu không phải là Đấng soi sáng lòng con29 và thấu suốt sự tối tăm của nó hay sao? Cái gì làm cho con có ý tưởng tìm tòi, lý luận và suy xét như vậy, vì nếu khi đó con ưa thích các trái cây con đã lấy trộm, và ước ao xài chúng, thì con cũng có thể một mình, nếu là đủ sức, làm điều gian ác đó, để thoả mãn dục vọng của con, và không cần đến sự a dua của các tâm hồn đồng phạm để khích thích ham vọng của con? Nhưng vì con không ưa thích chính cái tội mà nhiều đứa cùng phạm.

 

Đoạn IX


17               Tâm trạng đó là thế nào? Hẳn là xấu xa và khốn cho con30 có tâm trạng đó. Nhưng tâm trạng đó là thế nào? Ai hiểu được sự tội?31. Đây là một trò cười làm chúng con thích thú, là đánh lừa được những kẻ không ngờ chúng con làm được như vậy và tức bực lắm. Vậy tại sao, con lại thích thử đến thế về việc con không làm một mình? Hay là cũng vì không ai cười một mình? Hẳn là không dễ, nhưng cũng có những lúc, một vật gì hay một tư tưởng nào quá lố xảy đến, làm cho người ta phải tức cười, dù ở một mình, dù khi không có ai hiện diện. Nhưng về phần con, nếu có một mình, hẳn là con sẽ không phạm tội ăn trộm đó, nhất định là không khi nào con phạm, nếu có một mình.

Lạy Chúa, con trình bày trước nhan thánh Chúa ký ức sống động của hồn con. Nếu một mình, con sẽ không làm việc ăn trộm, trong đó cái ưa thích của con không phải là của ăn trộm, mà là việc ăn trộm: Nếu có một mình, thì con sẽ không ưa thích một chút nào, và cũng chẳng phạm tội ấy. Ôi tình nghĩa quá thù địch, sự quyến rũ tinh thần không thể hiểu được, sự ham mê tác hại phát xuất từ sự đùa giỡn và chơi nghịch, ưa thích làm hại kẻ khác mà không được lợi gì cho mình, cũng chẳng vì đam mê trả thù ai, mà chỉ cần có đứa xướng lên: "Ta hãy đi, ta hãy làm", và người ta lấy làm xấu hổ vì sự trơ trẽn của mình!

Đoạn X

18               Ai giải toả được mối tình quanh co khúc khuỷu này? Đó là một thứ nhục nhã, con không muốn nghĩ đến nó nữa, con không muốn xem thấy nó nữa. Con chỉ muốn Chúa, là sự công chính và là sự trinh khiết, đẹp đẽ và chiếu giãi những ánh sáng làm nên cao thượng và thoả mãn không cùng. Ở nơi Chúa là sự bình an và là đời sống yên tĩnh. Kẻ đi tới Chúa là đi vào niềm vui mừng của chủ mình32; nó sẽ không phải sợ hãi và sẽ được hoàn toàn tốt lành trong Đấng tốt lành tuyệt đối. Con đã sa ngã xa Chúa, lạy Chúa; con đã lưu lạc xa sự nâng đỡ của Chúa, lúc tuổi thanh xuân, và đã trở nên cho mình con một miền đói kém33.

**********

 

QUYỂN BA:
AUGUSTIN Ở CARTAGE

 

Đoạn I
Ham mê cảm giác


1                 Lúc con đã tới Cartage, và khắp nơi chung quanh con sôi sục một vạc tình yêu ô nhục. Con chưa yêu và con muốn yêu, và do một khát vọng thâm sâu, con còn trách mình chưa khát vọng đủ. Con tìm một đối tượng để yêu, con thích yêu và con ghét đời sống an toàn, không có cạm bẫy, vì tâm hồn con đói khát của ăn bề trong, là chính Chúa, lạy Chúa con, mà con không đói về cái đó, con không đói của ăn bất hoại - không phải vì con đã no nê, mà vì càng thiếu thốn con càng chán ngán. Vì thế mà con yếu đuối và đầy chốc lếch1 buông trôi ra ngoài, mê tham một cách khốn nạn những mơn trớn của các thực tại cảm giác. Nhưng nếu các thực tại đó không có linh hồn, hẳn là người ta không yêu chúng được.

Yêu và được yêu sẽ trở nên êm dịu cho con hơn, nếu con được hưởng thân xác của kẻ con yêu. Cho nên con làm nhơ nhớp nguồn mạch tình nghĩa bởi những ô uế của nhục dục, và che phủ sự quang minh của nó bởi mây mù hoả ngục của dâm đãng. Đã trở nên xấu xa và hèn mạt, thế mà, vì tính khoe khoang quá lố, con lại tỏ ra là người nhã nhặn và văn minh lịch sự. Con cũng đã lao mình vào tình yêu và ước ao mắc vào đó. Lạy Chúa con, lạy Đấng thương xót con, lòng nhân lành Chúa đã hoà bao nhiêu cay đắng vào sự êm dịu của con? Vì con đã được yêu và đã bí mật mắc vào xích khoái lạc và đã vui vẻ để cho mình bị vướng mắc vào màng lưới khốn nạn, để rồi bị đòn với những chiếc roi sắt nóng bỏng: Ghen tỵ, ngờ vực, sợ hãi, giận dữ, và cãi lộn2.

 

Đoạn II
Ham mê kịch tuồng; cốt yếu của vui thú xem kịch


2                 Con say mê kịch tuồng, chứa đầy những sự khốn nạn của con và những nhiên liệu cho lửa dục tình của con. Nhưng tại sao con người ta thích động lòng thương khi xem những cảnh tượng ai oán và bi đát, mà chính họ không muốn gặp phải? Tuy nhiên, khi xem kịch, họ muốn cảm thấy sự đau đớn (của nạn nhân trong kịch) và sự đau đớn đó làm cho họ vui thích? Đó há chẳng phải là một sự sai lầm khốn nạn hay sao? Người ta càng vướng mắc đam mê đó, thì càng dễ cảm động hơn. Tuy nhiên, khi người ta gặp hoàn cảnh đó, thì người ta quen gọi là khốn khó; mà khi người ta thương hại kẻ khác gặp phải, thì người ta lại gọi là có lòng từ bi thương người. Nhưng thứ từ bi gì vậy đối với những hoàn cảnh tưởng tượng để biểu diễn? Quả vậy, người ta không khích lệ khán giả cứu giúp, mà chỉ mời họ động lòng thương. Và họ càng động lòng thương nhiều, họ càng hoan nghênh tác giả của vở kịch đó. Nếu việc trình diễn các hoạn nạn cổ kích hay tưởng tượng đó không làm cho khán giả động lòng thương, thì họ bỏ ra đi, miệng không ngớt chê bai và chỉ trích; còn nếu nó làm cho họ động lòng thương, thì họ ở lại, chăm chú và vui sướng.

3       Như vậy, người ta ưa thích nước mắt và đau khổ. Hẳn là ai cũng muốn sự vui mừng; hay, vì không ai muốn sự đau khổ, nhưng lại muốn thương hại, mà vì thương hại kèm theo đau khổ, nên vì lý do duy nhất đó, đau khổ được yêu thương, hay sao?

Tình nghĩa là nguồn mạch lòng thương hại đó. Nhưng nó chảy đi đâu? Tại sao nó chảy vào cái suối nhựa thông nóng bỏng, vào vực thẳm khoái lạc đen tối, trong đó nó tự ý biến đổi, bỏ mất vẻ sáng của thiên quốc cua mình, đổi hướng trở nên sa đoạ vậy? Vậy phải loại bỏ tâm tình thương hại hay sao? Không phải thế! Cho nên có lúc đau khổ đáng được yêu thương. Nhưng hãy giữ mình khỏi dâm ô, hỡi linh hồn tôi, với sự che chở của Chúa tôi, của Chúa các tổ phụ chúng tôi, đáng được ngợi khen và chúc tụng đến muôn đời3, hãy giữ mình khỏi dâm ô!

Bây giờ con vốn có tình trắc ẩn; nhưng lúc đó, ở kịch trường, con chia sẻ sự vui của các tình nhân khi họ vui thú với nhau trong ô nhục, tuy đó chỉ là tưởng tượng và biểu diễn; khi họ lạc mất nhau, con cảm thấy như một nỗi buồn trắc ẩn và những cảm kích khác nhau đó làm cho vui thú. Ngày nay con thương hại đứa ô vui sướng trong ô nhục hơn là đứa tưởng mình bị thiệt thòi một khoái lạc nguy hiểm và bị mất một hạnh phúc đê hèn. Hẳn là tình thương hại này đúng hơn, nhưng sự đau khổ trong đó không làm cho người ta vui thích. Vì mặc dầu thương người khốn khổ là thi hành nhiệm vụ bác ái, nhưng kẻ có lòng thương xót chân thật thì ước ao không có dịp để phải thương xót như vậy.

Nếu sự hảo tâm và ác ý có thể đi đôi với nhau (đó là điều không thể có), thì mới có thể là người vừa thực sự và thành khẩn thương xót, lại vừa ước ao cho có những kẻ khốn khổ, để mà thương xót! Cho nên sự đau khổ có lúc được chấp nhận, nhưng không hề bao giờ được yêu mến. Chính Chúa cũng vậy, lạy Chúa, Chúa yêu các linh hồn, Chúa thương xót họ một cách vô cùng trong sạch và bất hủ hơn chúng con mọi đàng, vì sự đau khổ của họ không làm cho Chúa bị tổn thương. Và ai có khả năng được như vậy?4.

4                 Nhưng khốn cho con lúc đó, con ưa thích những cảm kích đau thương, và con tìm xem những đề tài đau khổ, trong khi xem thấy nghịch cảnh của tha nhân, cảnh tưởng tượng và biểu diễn, thì hoạt động của đào kép càng làm cho con chảy nhiều nước mắt, con càng ưa thích và càng say mê. Sự ấy có lạ gì, vì, như con chiên khốn nạn, lạc xa đoàn chiên của Chúa, và không chịu sự canh gác của Chúa5, con đã mắc phải thứ ghẻ lở ghê tởm? Do đó, mà con yêu đau khổ, không phải thứ đau khổ đã thâm nhập sâu xa trong con - vì con không ưa thích phải chịu những gì mà con thích xem - nhưng là thứ đau khổ người ta kể lể và tưởng tượng, chỉ mơn trớn, gãi cạo dao thịt con: Tuy nhiên, cũng như khi người ta lấy móng tay mà gãi, người ta đã làm cho con trầy da, nung mụn, và chảy mủ thối tha.

Sống trong hoàn cảnh đó, lạy Chúa, có phải là sống không (đời của con là thế đó, lạy Chúa, đó có phải là một đời sống không?).

 

Đoạn III
Augustin sinh viên "bọn phá phách"6


5                 Lòng thương xót trung thành của Chúa xa xa bay lượn trên con. Con bị phân tán và hư đi, trong trăm ngàn tội ác. Con đã bỏ Chúa và chạy theo sự tò mò bất chính, nó đã đưa con xuống vực thẳm bất tín, làm nô lệ lưu manh của ma quỷ. Con lấy những việc tội lỗi của con mà cúng tế nó. Và trong mọi sự ấy, Chúa đã đánh đòn con. Trong một buổi lễ trọng giữa thánh đường của Chúa, con còm dám ước ao và mối lái cho được hưởng hoa trái sự chết: Do đó Chúa phạt con nặng đòn hơn, nhưng không thấm gì với tội con. Ôi lạy Chúa, Chúa thương con vô cùng, Chúa xa nơi ẩn náu khỏi những nguy hại kinh hồn, mà con đang phiêu lưu trong đó, với tính tự kiêu tự đại, mỗi ngày mỗi xa Chúa hơn, ưa thích đường lối của con hơn đường lối của Chúa, ưa thích tự do của đứa tôi đòi trốn chủ!

6                 Các môn học của con được gọi là vinh dự, có môi trường hoạt động là toà kiện tụng, con muốn được nổi bật, thì càng lắm mánh khoé càng chóng thành công. Con người mù quáng là dường nào! Lấy sự mù quáng của mình làm vinh dự. Lúc đó con đã được nhất ở trường hùng biện và tính kiêu ngạo khoe khoang làm con vui sướng. Tuy nhiên, lạy Chúa, Chúa biết rõ, con hết sức giữ mình, hoàn toàn xa lánh những việc phá phách của tụi phá hoại - danh từ xấu xa ma quỷ đó được coi như một chứng từ cho sự lịch thiệp - con đã sống giữa tụi đó một cách trinh tiết của kẻ bất trinh, vì con không giống như chúng. Con ở với chúng và có lần con lấy tình nghĩa với chúng làm vui thích, mặc dầu luôn luôn con ghét hành động chúng, những hành động vô cớ nạt nộ, đàn áp, chế nhạo những người mới đến, còn sợ hãi, để hưởng những thích thú ranh mãnh đó. Việc chúng làm có khác gì việc của ma quỷ? Còn có danh từ nào chính xác hơn danh từ "phá phách"? nhưng chính chúng lại bị phá hoại và hư đi trước, bởi các thần gian dối, bí mật chế nhạo chúng và đưa chúng vào các cạm bẫy, mà chúng đã muốn dùng để chế nhạo và lừa dối kẻ khác.

MỐI DAO ĐỘNG TINH THẦN ĐẦU TIÊN

 

Đoạn IV
Hortensius


7                 Với những bạn bè như vậy, trong lứa tuổi non dại, con học các sách về hùng biện, và con muốn được nổi bật về môn đó, với mục đích đáng chê trách và phù vân, là sự khoái lạc về phù hoa nhân loại. Theo chương trình học thường lệ, thì lúc đó con học tới sách của tên Cicéron nào đó, mà thường mọi người thán phục văn chương hơn là tâm địa của y. Sách này có một bài khuyến khích học triết lý và tên sách đó là Hortensius.

Nhưng sách này đã biến đổi cảm giác của con; nó hướng kinh nguyện của con về với Chúa, lạy Chúa; nó làm cho nguyện vọng và ước muốn của con ra khác hẳn. Bất thần, mọi hy vọng hư ảo của con trở nên vô giá trị và với một lòng sốt sắng lạ lùng con ước ao sự khôn ngoan bất tử và con bắt đầu chỗi dậy để trở lại với Chúa7. Vì không phải để mài giũa cái lưỡi của con, và xem ra con mua sách đó với tiền của mẹ con, vì lúc đó con đã ? tuổi và cha con đã mất được hai năm; không phải để mài cái lưỡi của con, mà con đã mua sách đó, nó cũng không chinh phục con vì cách nó nói, mà vì những điều nó nói8.

8                 Ôi, con khao khát dường nào, lạy Chúa, con khao khát từ bỏ các sự trần gian, để bay lên với Chúa, là dường nào! Và con không biết Chúa muốn gì về con? Vì sự khôn ngoan ở nơi Chúa9. Nhưng yêu mến sự khôn ngoan, thì tiếng Hy Lạp gọi là "????" (triết lý). Việc đọc sách đó đã đốt lên trong con ngọn lửa mến yêu đó. Có những người lấy triết lý mà lừa dối và dùng danh từ cao quý, đẹp đẽ và vinh dự đó để dồi phấn tô son các lạc thuyết của họ. Và hầu hết những người khôn như vậy ở thời đó và thời trước, đã được tác giả Hortensius chỉ trích và phê phán, và như vậy, đã xác nhận lời cảnh cáo hữu ích mà Thần Linh Chúa đã ban bố qua người tôi tớ lành thánh thiện của Chúa: "Hãy coi chừng, đừng để ai lấy triết lý giả dối lường gạt anh em, thể theo truyền thống người phạm hoặc theo nhân tố trần gian, chứ không theo Đức Kitô. Vì tất cả sự viên mãn của bản tính Thiên Chúa đều ở trong Người một cách hữu hình"10.

Lúc đó, Chúa rõ, Chúa là sự sáng láng của lòng con, mặc dầu con chưa biết lời nói đó của thánh tông đồ, nhưng điều con ưa thích nhất trong lời khuyến cáo đó, là nó kích thích con, thúc đẩy con, thiêu đốt con phải yêu mến, tìm tòi, thủ đắc, chiếm hữu và nắm chắc lấy, không phải học thuyết này hay môn phái kia, mà chính sự khôn ngoan, bất cứ là thế nào. Chỉ còn một sự làm chậm trễ ngọn lửa đó, là không có thánh danh Chúa Kitô trong đó. Vì thánh danh đó, lạy Chúa, theo lòng từ bi của Chúa11, thánh danh của Đấng cứu chuộc con, là Con Chúa, lòng thơ ấu của con đã được sốt sắng bú trong sữa mẹ và gìn giữ tận đáy lòng con, cho nên, nếu không có danh thánh đó, thì bất cứ sách nào, văn hoa, thanh nhã và chính xác đến đâu, cũng không hoàn toàn thoả mãn được con.

 

Đoạn V
Augustin chán nản khi đọc Thánh Kinh


9                 Vậy con quyết tâm chăm chỉ đọc Thánh Kinh để biết sách đó thế nào? Và con thấy như thế này, là sách đó không rõ ràng cho kẻ kiêu ngạo, mà cũng chẳng sáng sủa cho trẻ con; nhưng như cái gì mà cửa vào thì thấp, tiến bước thì lên cao mãi, và luôn có mầu nhiệm bao phủ; mà con không phải thứ người có thể bước vào, hay là cúi đầu thích nghi với bước tiến đó. Nhưng điều con nói hôm nay không giống với cảm nghĩ của con lúc mà con để ý đọc Thánh Kinh. Con cho sách đó không xứng đáng để con so sánh với uy thế của sách Cicéron. Vì kiêu ngạo con khinh chê sự đơn sơ của Kinh Thánh và trí khôn con không thấu đáo được bề sâu của sách đó. Vì thật ra sách đó đã được chép để cùng tiến với trẻ thơ. Mà con thì không thèm trở nên trẻ thơ và cho thái độ kiêu ngạo khoe khoang của mình là cao thượng.

AUGUSTIN VÀ BÈ RỐI MANES

 

Đoạn VI
Ban đầu, cái gì lôi kéo Auguin và bè rối đó?


10               Như vậy, con đã sa vào nhóm những người kiêu ngạo và điên cuồng, quá mê xác thịt và nói nhiều; trong miệng họ chứa rò lưới của quỷ ma12 và một thứ cạm bẫy làm bằng một thứ pha trộn các vần của thánh danh Chúa và tên Đức Giêsu Kitô và tên của Đấng bầu chữa ủi an của chúng con là Chúa Thánh Thần13. Các danh thánh đó không ngớt ở cửa miệng chúng, nhưng chỉ là một âm thanh nhỏ; một tiếng động hư ảo của lưỡi chúng; lòng chúng không có chân lý. Và chúng thường nói: "Chân lý và chân lý" và chúng nói chân lý cho con nhiều lắm, nhưng chân lý không hề ở trong chúng, mà là chúng nói những điều sai lầm, chẳng những về Chúa, là chân lý thật, mà còn về các nguyên tố của thế gian này, là tạo vật của Chúa: Trên phạm vi này, cả khi các triết gia nói sự thật, con đã phải trổi vượt chúng, vì lòng mến Chúa, lạy Chúa con, ôi sự tốt lành tuyệt đối, sự đẹp đẽ trên hết mọi sự đẹp đẽ.

Ôi chân lý, chân lý, ngay lúc đó, từ đáy lòng con đã khao khát Chúa, đang khi chung quanh con, nhiều lần và nhiều cách, chúng vang dội tên Chúa, bằng những diễn từ và bằng bao pho sách khổng lồ! Và của ăn mà chúng cung cấp cho con đang đói Chúa, thì không phải là Chúa, mà là mặt trời, mặt trăng, công trình tốt đẹp của Chúa, nhưng là công trình của Chúa, chứ không phải Chúa, cũng chẳng phải là những công trình tốt đẹp nhất của Chúa. Vì công trình tốt đẹp nhất của Chúa là các loài thiêng liêng, quý hơn các vật hữu hình, dù là sáng láng và ở trên trời đi nữa.

Nhưng con đói khát không phải các vật thiêng liêng đó, mà chính Chúa. Ôi chân lý, trong đó không có biến thiên cũng chẳng có bóng dáng sự thay đổi. Cho đến lúc đó, người ta cho con ăn những quái vật huy hoàng đó; nhưng con thà để lòng yêu thích mặt trời là điều có thật cho mắt con, còn hơn là những điều giả dối, qua con mắt mà lường gạt tâm hồn. Tuy thế, con tưởng chúng là Chúa, nên con đã ăn, nhưng không ham muốn gì, vì miệng con không cảm thấy Chúa, như Chúa có thật - mà Chúa cũng chẳng có gì là bịa đặt hư vô đó - nên chúng không nuôi dưỡng con, mà còn  làm cho con trở nên kiệt quệ hơn.

Của ăn lúc ngủ rất giống của ăn lúc thức, nhưng đâu có nuôi kẻ ngủ, vì họ ngủ? Nhưng các vật này không giống Chúa chút nào, ôi chân lý, như lúc này Chúa nói với con, vì chúng là những vật thể tưởng tượng, vật thể giả dối, không có thực tại như các vật có thật, mà mắt chúng con xem thấy ở trên trời hay ở dưới đất này: Chúng con trông thấy các vật này cũng như các súc vật và các con chim trông thấy vậy, và chúng có thực hơn là khi chúng con chỉ tưởng tượng ra chúng. Đàng khác, chúng con ở gần thực tại khi chúng con chỉ tưởng tượng ra chúng, hơn là chúng dựa vào chúng mà giả thuyết ra những vật thể lớn hơn, vô cùng, là những vật thực ra không hiện hữu chút nào. Lúc đó người ta đã nuôi con với những ảo tưởng như vậy, mà thực ra chúng không dinh dưỡng được con.

Nhưng Chúa, ôi tình yêu của con, sự yếu đuối của con dựa vào Chúa để được mạnh mẽ; Chúa không phải là các vật thể mà chúng con nhìn thấy, dù là ở trên trời; Chúa cũng chẳng phải là những vật thể mà chúng con không nhìn thấy được ở đó, vì Chúa đã dựng nên chúng, nhưng đã không kể chúng vào hàng các vật thể cao quý nhất của Chúa. Vậy Chúa xa cách các ảo ảnh xưa của con là dường nào, ảo ảnh của các vật không hề có chút nào! Ao ảnh không hiện thực bằng hình ảnh của vật có thực; hình ảnh này không hiện thực bằng chính các vật đó, tuy chúng không phải là Chúa. Nhưng Chúa cũng không phải là linh hồn, là sự sống của các vật thể, cho nên sự sống của vật thể hiện thực hơn các vật thể, mà Chúa là sự sống của các linh hồn, sự sống của các sự sống, Chúa tự mình sống và Chúa không thay đổi, Chúa là sự sống của linh hồn con!

11               Vậy đối với con lúc đó, Chúa ở đâu, và xa cách chừng nào? Và con lang thang xa Chúa, bị cấm đoán cả những bã đậu, mà con cho heo ăn lúc đó14. Những truyện biến ngôn của giáo sư văn chương và thi sĩ còn tốt hơn những cạm bẫy đó! Vì câu thơ, bài phú và kịch Mêđê bay, hẳn là có ích hơn năm nguyên tố được nguỵ trang khác nhau để đối phó với năm hang tối tăm15. Các điều đó không có thật và giết chết kẻ tin theo. Vì từ câu thơ, bài phú, con còn rút ra được một món ăn chắc chắn16; còn kịch Mêđê bay, dầu có phải ca ngâm, con cũng không bảo đảm là có thật; nếu có nghe kẻ khác ca ngâm, con cũng không tin. Còn những điều điên cuồng đó, con lại tin. Thật là khốn nạn cho con! Qua bao nhiêu cấp bậc, con đã sa xuống đáy vực sâu17? Hẳn là vì khi thiếu thốn, khát khao chân lý, con đã tìm kiếm Chúa, lạy Chúa, - con xin thú tội với Chúa, là Đấng đã thương xót con, khi mà con chưa thú nhận Chúa - vì con đã tìm kiếm Chúa, không theo sự nhận xét của trí khôn - nhờ đó Chúa muốn cho con người vượt trổi con vật - mà theo cảm giác của xác thịt. Nhưng Chúa ở trong con, sâu hơn thâm tâm con và hơn trí tuệ con. Con đã gặp phải người phụ nữ táo bạo, ngông cuồng, mà Salomon đã trình bày như một hình bóng: Y thị ngồi trên ngai trước cửa nhà và nói: "Hãy vui thoả ăn bánh lấy trộm và hãy nếm sự ngọt ngào của nước ăn cắp"18. Y thị đã quyến rũ con, vì thấy con sống quá bề ngoài, với cái nhìn của con mắt xác thịt, nhai đi nhai lại những gì con đã ăn, do sự hướng dẫn của cái nhìn đó.

 

Đoạn VII
Tại sao lý lẽ của bè rối Manès đã chinh phục được Augustin?


12               Lúc đó con không biết có một thực tại khác, mới là đúng thực, và như bị kích thích, con đã đi về phía các kẻ khả tiếu, đã lường gạt con, khi chúng hỏi con: "Sự dữ bởi đâu đến? Thiên Chúa có bị giới hạn bởi một thân xác không? Người có tóc, có móng tay không? Có nên coi là công chính những kẻ có nhiều vợ một lúc, những kẻ giết người, lấy súc vật cúng tế không?". Các vấn nạn đó làm cho con bối rối, vì ngu dốt và đang khi quay lưng về chân lý, con đã tưởng mình đi tới chân lý, vì lúc đó, con không biết sự dữ là thiếu sự lành, sự thiếu thốn đi tới hư vô19. Và làm sao con biết được, vì mắt con chỉ để và thể xác và trí khôn con chỉ để vào ảo ảnh?

Lúc đó con chưa biết Thiên Chúa là thần linh, Người không có các chi thể theo chiều dài, chiều rộng, và hữu thể của Người không thành khối lượng, vì mọi khối lượng đều bé nhỏ ở từng phần hơn là ở toàn thể; mặc dầu nó là vô cùng, thì ở một phần, được giới hạn trong một không gian nhất định, nó cũng bé nhỏ hơn là toàn khối vô cùng của nó, và nó không là tất cả ở trong mọi nơi như thần linh, như Thiên Chúa. Còn ở trong chúng con, cái gì làm cho chúng con hiện hữu, và cái gì làm cho Kinh Thánh bảo chúng con là hình ảnh Thiên Chúa20, thì con không biết gì hết.

13               Lúc đó con cũng không biết sự công chính đích thực bề trong, không đoán xét theo thói quen, một theo luật rất thẳng thắn của Thiên Chúa toàn năng. Luật đó quy định luân lý cho các xứ sở và các thời đại, tuỳ theo các xứ sở và các thời đại, tuỳ theo không gian hay thời gian. Chính theo luật đó mà được coi là công chính Abram, Isaác, Giacóp và tất cả những người đã được chính miệng Thiên Chúa ban khen; nhưng các ngài lại bị coi là tội nhân bởi những kẻ dốt nát, xét đoán theo toà án loài người21 và bắt toàn thể nhân loại phải sống theo kinh nghiệm hẹp hòi của họ. Họ có khác gì người kia, không biết gì về binh pháp và cách sử dụng các bộ phận của nó, mà lấy áo giáp đội đầu, lấy mũ trận xỏ chân và chê trách là chúng không thích hợp với mình. Hoặc như người nọ, trong một buổi chiều đã được tuyên bố là nghỉ lễ, lại tức bực thấy không được bán hàng, vì lẽ ban sáng được bán mà ban chiều lại không được bán! Hoặc như người kia, thấy trong một gia đình, có nô lệ được vận dụng những đồ vật, mà người nô lệ hầu bàn không được đụng tới, hay là thấy có việc được làm sau tàu ngựa, mà không được làm trong phòng ăn, thì tức bực vì lẽ: Dưới một mái nhà, trong cùng một gia đình, mà khắp nơi và mọi người không được làm việc như nhau vậy!

Cũng thế, những kẻ tức bực khi thấy rằng: Thời xưa kẻ lành được phép làm những điều, mà đời nay họ không được phép nữa, và, vì những lý do tạm bợ, Thiên Chúa đã truyền cho kẻ này điều này, cho kẻ kia điều nọ, và cả hai cùng vâng theo một sự công chính. Họ cũng thấy rằng: Trong một con người, trong một ngày, trong một nhà, có điều hợp cho chi thể này, mà không hợp cho chi thể khác; có điều bắt đầu được phép, sau một giờ lại không được phép nữa; trong một nơi, một việc nào đó được phép và buộc phải làm mà ở nơi gần kề thì lại bị cấm và bị phạt! Như vậy, có phải sự công chính biến hoá và hay thay đổi không? Không phải, một là thời thế, mà sự công chính điều khiển, không đi cùng nhịp, vì là thời thế. Thật vậy, con người ta, mà đời sống tại thế vắn vỏi, không biết lấy tư tưởng mà dung hoà các sự kiện của thời xưa và của các dân khác - mà họ không có kinh nghiệm - với các sự kiện mà họ có kinh nghiệm. Vì trong một thân thể, trong một ngày, hay trong một nhà, họ cũng dễ nhận thấy điều gì thích hợp với chi thể nào, với giờ nào, với nơi nào, hay với người nào? Như vậy, có trường hợp họ chống đối, có trường hợp họ tuân theo.

14               Các chân lý này, lúc đó con không biết và cũng chẳng quan tâm đến; các sự chân thật đó ở khắp nơi đập vào mắt con, mà con không thấy. Khi ngâm thơ con không được tự tiện gieo bất cứ vần nào ở đâu, một phải tuỳ âm thanh mà gieo vần; lại trong một câu thơ không chấp nhận một thứ vần ở mọi chỗ. Tuy nhiên luật dạy làm thơ không phải ở mỗi nơi mỗi khác, mà là một luật chung cho mọi nơi. Thế mà con không nhìn thấy rằng: Sự công chính mà các người hiền, người thánh tuân theo, cũng kết thành một luật duy nhất, rất cao quý tốt đẹp, tất cả các quy tắc nó ban bố, nó không thay đổi về điểm nào, nhưng đối với những thời đại khác nhau, nó cung cấp và ban bố quy luật thích nghi, chứ không tất cả một trật như nhau. Và vì mù quáng, con đã chỉ trích các tổ phụ đạo đức, chẳng những đã sử dụng hiện tại theo luật và sự linh ứng của Thiên Chúa, mà còn tiên báo tương lai theo như Thiên Chúa đã mạc khải cho.

 

Đoạn VIII
Các nguyên tố cố định và các nguyên tố thay đổi của luân lý


15               Có khi nào hay ở đâu, mà việc kính mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và thương yêu tha nhân như chính mình22 lại là điều bất chính không? Cho nên những việc xấu xa (flagitia: 23) trái với tính tự nhiên, như các tội lỗi của người Sođoma, thì khắp nơi và luôn luôn là những việc gớm ghê và đáng phạt. Nếu hết mọi dân tộc làm các việc đó, thì đều bị tội như vậy, do luật của Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng con người, không phải để họ lạm dụng về mình như vậy. Chính trật tự xã hội, ở giữa Thiên Chúa và loài người, cũng bị xúc phạm khi sự sa đoạ của dâm dật làm hoen ố bản tính của nó do Thiên Chúa tác thành.

Còn những việc xấu xa trái với phong tục nhân loại, phải được xa lánh, căn cứ vào sự khác biệt của phong tục: Không một công dân hay ngoại kiều nào, vì phóng túng mà lỗi hiệp ước được củng cố do thói quen hay luật pháp của một đô thị, một dân tộc; mọi sự bất xứng của một chi thể đối với toàn thể đều là ghê tởm. Nhưng khi Thiên Chúa ban bố điều gì trái với thói tục hay hiệp ước nào đó - mặc dầu ở đó chưa hề xảy ra như vậy - thì người ta cũng phải làm theo, phải làm lại nếu đã quên bỏ, phải thiết lập nếu chưa làm. Thật vậy, nếu vua kia trong nơi người cai trị, có truyền điều gì, dù trước đó, chưa có ai hay chính người chưa truyền như vậy, thì vâng theo lệnh ngài không trái với các nguyên tắc xã hội của nơi đó, trái lại, không vâng theo lệnh ngài mới là trái với các nguyên tắc đó, vì vâng lệnh vua chúa mình là hiệp ước chung của xã hội loài người. Huống chi người ta không được do dự vâng theo tất cả những gì Thiên Chúa truyền dạy vì Người là chúa tể toàn thể tạo vật. Cũng như trong phẩm trật của xã hội loài người, thì quyền trên được đặt ra cho quyền dưới vâng phục, Thiên Chúa có quyền tuyệt đối trên hết mọi loài.

16               Về tội gian ác (facinus) cũng vậy, là tội kèm theo ham vọng làm hại tha nhân, bằng nhục mạ, hay bằng bạo lực và cả hai; hoặc để báo thù, như thù địch với nhau; hoặc để chiếm hữu của tha nhân, như vụ cướp người đi đường; hoặc để tránh một sự dữ, như khi sợ kẻ thù; hoặc vì ghen tị, như kẻ khổ sở ghen tức người sung sướng, hay kẻ sung sướng sợ kẻ khác bằng mình, hay là buồn vì họ đã bằng mình; hoặc chỉ nguyên vì ham mê thấy tha nhân đau khổ, như những khán giả các cuộc chơi ở đấu trường, hay là những kẻ thích chế giễu và lường gạt tha nhân.

Đó là những mối tội chính yếu; chúng đâm rễ từ trong ham mê cai trị, nhìn xem hay cảm thức24, hay trong một, hay trong hai, hay trong cả ba ham mê đó một trật. Sống khốn nạn như vậy là phạm đến ba và bảy giới răn, đến thập huyền cầm25, đến 10 giới răn của Chúa, lạy Chúa chí cao, chí nhân! Nhưng có tội xấu xa nào tới được Chúa, là Đấng không gì hủ hoá được? Hoặc có tội gian ác nào xúc phạm được Chúa, là Đấng không gì làm hại được? Nhưng Chúa oán phạt tội lỗi mà chính con người phạm đến mình, vì cả khi phạm đến Chúa, họ làm hại linh hồn họ. Và sự gian ác của họ tự lừa dối họ26, bằng cách hủ hoá và làm ra xấu bản tính, mà Thiên Chúa đã tạo dựng và sắp đặt trật tự, vì họ sử dụng trái phép các sự vật họ được dùng, hoặc vì một ước vọng ham mê bất chính, họ đã sử dụng trái với bản tính27. Họ cũng phạm đến Chúa bằng cách chống lại Chúa qua tư tưởng và lời nói, bằng cách "đạp mũi nhọn của Chúa"28; hoặc khi họ táo bạo bỏ các giới hạn của xã hội loài người, lấy làm thích thú tạo nên những hiệp hội riêng tư, những đảng phái khác biệt, tuỳ theo như họ ưa thích hay họ phản đối. Và việc đó xảy ra khi người ta lìa bỏ Chúa, ôi nguồn mạch sự sống, là tạo hoá và chủ tể duy nhất và đích thực của vũ trụ; khi, do kiêu ngạo, chỉ nghe mình, họ yêu một phần trong toàn thể, và coi đó là toàn thể, toàn thể lừa dối.

Như vậy, là nhờ lòng đạo đức khiêm cung mà người ta trở lại với Chúa. Và Chúa chữa chúng con khỏi thói xấu và vì lòng lân tuất29 đối với tội lỗi của những kẻ tự thú, Chúa nghe lời kêu van than thở của các nô lệ bị xiềng xích30 và Chúa tháo gỡ các xiềng xích mà chúng con tự tạo cho mình, miễn là chúng con đừng có giương cái sừng31 tự do giả dối chống lại Chúa nữa, bằng sự ham mê chiếm hữu  nhiều hơn, với nguy cơ mất hết, bằng sự yêu riêng mình hơn mến Chúa, là thiện hảo tuyệt đối.

 

Đoạn IX


17               Nhưng bên cạnh các tội xấu xa và tội gian ác và bao nhiêu tội lỗi khác, còn có những tội lỗi của các kẻ tiến bộ trên đường nhân đức. Xét cho đúng, thì người ta trách họ về phương diện luật trọn lành; nhưng người ta khen họ về hy vọng hoa trái tương lai, như lúa xanh báo hiệu mùa gặt tốt. Có những việc giống như tội xấu xa hay tội gian ác, mà lại không phải là tội, vì không phạm đến Chúa, là Thiên Chúa chúng con; cũng chẳng phạm đến cộng đồng xã hội, như khi người ta tìm kiếm của ăn thích hợp cho nhu cầu đời sống, cho hoàn cảnh, thì không biết có gọi được là ham mê chiếm hữu không? Hoặc khi một chính quyền hợp pháp trừng trị để sửa dạy tội nhân, thì không biết có kèm theo sự ham mê làm hại tha nhân không?

Cho nên có nhiều hành vi xem ra đáng trách trước mặt người đời, thì lại được Chúa chứng tỏ chấp nhận; có nhiều việc được người đời khen ngợi, lại bị Chúa chứng tỏ lên án. Vì nhiều khi việc làm bề ngoài thì khác, mà ý tứ của kẻ làm lại khác, cũng như sự trùng hợp của hoàn cảnh mà chúng con không biết. Nhưng khi bất thần Chúa truyền dạy việc khác thường và bất ngờ, mặc dầu trước kia Chúa đã cấm, và tạm thời Chúa không cho biết lý do của mệnh lệnh, và mệnh lệnh đó đi ngược với các hiệp ước xã hội của một nhóm người, thì ai dám nghi ngờ là không phải tuân theo lệnh Chúa? Chỉ có xã hội công bình, khi nó phục vụ Chúa mà thôi. Nhưng phúc cho những kẻ được biết Chúa đã truyền dạy. Vì các việc của tôi tớ Chúa làm sẽ để thực hiện điều cần cho hiện tại, hoặc để tiên báo tương lai.

 

Đoạn X


18               Vì không biết các nguyên tắc đó, con đã cười chê các tôi tớ thánh thiện và các tiên tri của Chúa. Và khi cười chê các ngài, con đã làm gì, nếu không phải là để Chúa chê cười con, là kẻ đã từ từ qua các cấp bậc bị đưa tới những chuyện ngớ ngẩn, như tin rằng: Quả vả bị hái và cây vả sinh ra nó phải khóc bằng nước mắt sữa; nhưng nếu một thành hữu32 ăn quả đó - miễn là không mắc tội hái nó - thì chính là các thiên thần, hơn nữa, các "mảnh" Thiên Chúa, mà người đó hoà trộn trong bụng mình và tiết lộ ra ngoài, khi than thở cầu xin và khi ợ ra: Những mảnh Thiên Chúa tối cao và chân thật đó sẽ bị trói buộc mãi mãi, trong quả cây, nếu không được giải thoát nhờ hàm răng và bao tử của thánh nữa! Và khốn cho con đã tin rằng: Con phải thương xót hoa quả trái đất hơn con người, mà các hoa quả phải phục vụ. Nên, nếu kẻ đói khát xin ăn, mà không phải là người của bè Manès, thì con tưởng cho kẻ đó ăn là đáng tội mất đầu!
 
 

Đoạn XI
Giấc chiêm bao của bà Monica


19               Và từ trên cao, Chúa đã giơ tay33 kéo linh hồn con ra khỏi vực sâu tăm tối đó34, đang khi mẹ con, là nữ tì trung tín của Chúa khóc lóc trước mặt Chúa về con nhiều hơn các người mẹ khóc con mình đã chết. Vì nhờ tinh thần đức tin, mà người đã lãnh nhận nơi Chúa, người thấy con đã chết. Và Chúa đã nghe lời người, lạy Chúa. Chúa đã nghe lời người và đã không khinh chê nước mắt, mà người đã đổ ra tưới mặt đất dưới chân người, khắp nơi người cầu nguyện: Chúa đã nghe lời người... Vì bởi đâu mà có giấc chiêm bao, để Chúa yên ủi người, đến nỗi người lại thoả thuận cho con sống cùng nhà, ăn cùng bàn với người? Ban đầu, người không muốn điều đó, vì gớm ghét và ghê tởm những xúc phạm do lạc thuyết của con gây nên35. Vậy trong giấc chiêm bao người đã thấy mình đứng trên một cái thước gỗ36; một thanh niên sáng rực đi tới người, vui vẻ và tươi cười với người, đang khi người buồn rầu chán nản. Thanh niên hỏi người về lý do sự buồn rầu đó và nước mắt hằng ngày, để dạy bảo người, như sự đó thường xảy đến, chứ không phải để được người dạy cho. Người đã trả lời là người khóc sự hư đi của con. Thì thanh niên truyền cho người hãy yên tâm, và bảo người hãy để ý mà nhìn xem: Người ở đâu, con cũng ở đó. Người nhìn xem và thấy rằng: Con đứng gần người trên cùng một cái thước.

Bởi đâu có cuộc chiêm bao đó, nếu không phải là vì Chúa đã để tai nghe lòng dạ người sao37? Ôi, Thiên Chúa tốt lành và toàn năng! Chúa chăm sóc từng người chúng con, như thể Chúa chỉ chăm sóc có một mình nó. Và Chúa chăm sóc mọi người, như từng người một.

20               Bởi đâu, còn có điều này nữa, là khi người kể chiêm bao đó cho con nghe, thì con đã cố cho người hiểu theo ý nghĩa là: Chính ra người sẽ không mất hy vọng, một ngày kia sẽ như con lúc đó, thì lập tức và không chút do dự, người đáp: Không phải thế! Thiên thần không bảo má: Con ở đâu má cũng ở đó; mà bảo: Má ở đâu, con cũng ở đó!

Lạy Chúa, con xin thú với Chúa ký ước của con, như con nhớ được, và như con thường nói. Lúc đó con cảm động về câu trả lời của Chúa qua miệng của người mẹ chăm sóc của con, về sự bình tĩnh của người trước sự giải thích sai lầm và giả mạo của con, về sự mau mắn của người đã nhìn thấy điều phải thấy - mà con thì không thấy, trước khi người nói ra - vâng, con cảm động về các sự ấy hơn là về chính cuộc chiêm bao, đã tiên báo rất lâu về trước cho người phụ nữ đạo đức, - để yên ủi người về những phiền muộn hiện tại - một sự vui mừng sẽ xảy đến cho bà rất lâu về sau.

Vì phỏng chín năm trời trôi qua, con phải lăn lộn trong bùn sâu38, trong tăm tối của lầm lạc. Nhiều lần con đã cố chỗi dậy, thì lại bị sa lầy nặng hơn trước. Tuy nhiên, người mẹ goá thanh sạch, đạo đức và tiết độ, như những người Chúa yêu thương, dù đã có một hy vọng mãnh liệt, nhưng không kém kiên trì khóc lóc và thở than, bà không ngớt, trong mỗi giờ cầu nguyện, than van với Chúa về số phận của con; và lời nguyện của người bay lên trước nhan thánh Chúa39; nhưng Chúa còn để cho con lăn lộn và vùng vẫy trong đêm tối đó.

 

Đoạn XII
Một triệu chứng khác


21               Chúa còn cho con một đáp từ khác, mà con còn nhớ. Thật ra, con bỏ qua nhiều sự để chóng đi tới những sự thúc giục con xưng tụng Chúa, lại con cũng quên nhiều sự nữa.

Vâng, Chúa đã cho con một đáp từ khác qua thầy tư tế của Chúa, đó là một giám mục đã được giáo dục trong Hội Thánh Chúa và từng trải Thánh Kinh. Khi mẹ con xin ngài nói chuyện với con và bác bỏ các sai lầm của con, dạy con bỏ sự dữ và học sự lành - mẹ con vốn làm như vậy, mỗi khi gặp được người nào có khả năng (soi sáng cho con) - Đức giám mục đã từ chối, với sự khôn ngoan mà sau này con mới hiểu. Vậy người đã trả lời cho mẹ con là con chưa thể dạy được, vì còn đầy tự phụ về bè rối mới mẻ, lại cùng đã một vài lần, dùng những vấn nạn xảo quyệt, làm cho một số người ít học thức bị hoang mang - như mẹ con kể cho ngài biết - ngài bảo: "Nhưng hãy để hắn như vậy. Chỉ cầu xin Chúa cho hắn: Nhờ việc đọc sách nhiều hắn sẽ khám phá ra tất cả sự lầm lạc và bất kính của lạc thuyết ấy". Đồng thời người kể cho mẹ con nghe là khi người còn nhỏ, mẹ người bị bè rối Manès mê hoặc, đã trao người cho chúng, và chẳng những người đã đọc hầu hết các sách của chúng, mà còn chép lại nữa; nhưng rồi, chẳng cần phải tranh luận hay thuyết phục gì, người đã nhận ra là bè rối đó đáng phải xa lánh. Và người đã xa lánh nó. Mặc dầu người đã kể như vậy, mẹ con chưa muốn tin, còn van nài và khóc lóc vin ngài gặp con và tranh luận với con. Ngài phải tức mình mà rằng: "Xin bà để tôi yên, tôi cam đoan với bà là đứa con của những nước mắt như vật không thể hư đi được"40
 
***************

 

QUYỂN BỐN: CUỘC ĐỜI LẦM LẠC

 

Đoạn I
Chín năm trong bè rối Manès


1                 Trong suốt chín năm trời - từ 19 đến 28 tuổi - con vừa bị mê hoặc vừa đi mê hoặc kẻ khác, vừa bị gạt vừa đi gạt kẻ khác, tuỳ theo các thứ đam mê của con, mà công khai dưới chiêu bài bày nghề tự do, và bí mật với danh nghĩa giả tạo của tôn giáo; chỗ này con là nạn nhân của tính kiêu ngạo, chỗ kia con là trò cười cho sự mê tín; cả hai đều là hư ảo; một đàng con theo đuổi danh vọng hão huyền của quần chúng, cho đến những cuộc vỗ tay ở kịch trường, những cuộc thi đua thơ phú, những cuộc tranh đấu lấy triều thiên bằng rơm rạ, những trò trẻ con ở rạp hát, những đam mê vô độ. Đàng khác, con tìm kiếm sự thanh tẩy khỏi các nhơ nhớp đó bằng cách đi mang của ăn cho những người được gọi là tuyển chọn, là thánh hữu, để họ chế biến các của ấy trong bao tử của họ thành những thiên thần, những thiên chúa, hòng giải thoát chúng con. Con đã theo đuổi những ý kiến và thực hiện những hành vi như vậy, với các bạn hữu đã bị con mê hoặc, cùng với con.

Mặc cho những kẻ kiêu ngạo chưa bị Chúa quật ngã và dày xéo, để được cứu rỗi, chê cười con, lạy Chúa! Phần con, con thú nhận những ô nhục của con cho vinh danh Chúa. Xin Chúa tha phép cho con, với ký ước hiện tại, duyệt qua một vòng các lầm lạc quá khứ của con và hiến dâng lên Chúa một hy lễ tạ ơn1. Vì không có Chúa, thì con là gì đối với con, nếu không phải là một kẻ dẫn đường tới vực thẳm? Hoặc con là gì khi mạnh khoẻ, nếu không phải là kẻ được uống sữa Chúa, được ăn mình Chúa, là của nuôi không hề hư nát, hay sao? Và con người là gì, bất cứ người nào, vì là người? Mặc cho những kẻ khoẻ mạnh và quyền thế, hãy chê cười chúng con; phần chúng con, là kẻ yếu đuối và khó nghèo, chúng con xưng tụng vinh danh Chúa.

 

Đoạn II
Thiện ý trong giáo huấn


Trong những năm ấy, con dạy tu từ và bị đam mê khuất phục, con bán nghề thuyết phục. Tuy nhiên, lạy Chúa, Chúa biết, con ưa có những môn sinh tốt, theo ý nghĩa thông thường của danh từ tốt; và không mảy may có ý lường gạt chúng, con đã dạy chúng cái nghề lường gạt, mà chúng sẽ sử dụng không phải để làm mất đầu của kẻ vô tội, mà có lần để cứu vớt cái đầu của tội nhân. Phần Chúa, lạy Chúa, từ xa Chúa nhìn thấy con lao đao trên một khu đất trơn, và trong làn khói dày đặc Chúa phân biệt tia sáng thiện ý, mà con bày tỏ trong các bài dạy những kẻ yêu chuộng hư ảo và tìm kiếm giả dối, và con cũng đồng phường với chúng.

 

Đứng đắn trong hỗn loạn


Trong các năm đó, con sống với một phụ nữ, không do một cuộc hôn phối được gọi là hợp pháp, mà do tính hăng say vô định và điên rồ của con, con đã bắt chị ấy, nhưng con chỉ có một mình chị ấy, và con đã trung thành với chị ấy; tuy nhiên, do kinh nghiệm bản thân trong vụ đó, con đã thấy rõ sự khác biệt giữa cuộc hôn nhân tự nguyện, nhằm mục đích lưu truyền sự sống và những khế ước của tình yêu xác thịt, cũng sinh con cái, nhưng trái với ý muốn của cha mẹ, mặc dầu khi chúng đã sinh ra, thì buộc cha mẹ phải yêu thương chúng.

 

Chán ghét ma thuật


3                 Con cũng nhớ là khi con muốn tranh giải về một cuộc thi thơ kịch, thì không biết có thầy bói nào cho người đến hỏi con cho biết: Con muốn cho anh ta bao nhiêu tiền, để được thắng cuộc? Con đã trả lời là con gớm ghét ghê tởm hành vi bỉ ổi đó, và cho dù triều thiên đó bằng vàng bất hủ đi nữa, con cũng không để cho họ hy sinh một con ruồi, để con được thắng cuộc. Vì người đó định lấy súc vật mà cúng tế và muốn nhờ của lễ đó cầu cho con được sự ủng hộ của ma quỷ. Nhưng không phải vì trung trinh với Chúa, lạy Chúa lòng con2, mà con đã cự tuyệt việc xấu đó đâu. Vì lúc đó, con chưa biết mến Chúa. Con chỉ biết nghĩ đến những sự hoà hoa thể xác mà thôi. Và tâm hồn nào luyến tiếc những ảo ảnh đó há chẳng phải là thất tín với Chúa3, tin cậy vào sự giả dối và chăn nuôi gió4 hay sao? Đã hẳn, con không muốn người ta cúng tế ma quỷ cho con, nhưng sống trong sự mê tín (của bè rối Manès) chính con lại tự hiến tế cho ma quỷ: Chúng lấy sự sai lầm của con làm sung sướng và để chê cười con?

 

Đoạn III
Thích thuật chiêm tinh


4                 Cho nên, con đã không từ bỏ việc thực tình hỏi han các nhà ảo thuật, mà người ta gọi là nhà số học, vì con thấy như họ không cúng tế, không cầu khẩn một thần nào, cho việc bói toán của họ. Tuy nhiên, lòng được chân thật của Kitô hữu, hợp với nguyên tắc của mình, loại bỏ và lên án việc chiêm bốc.

Thật là điều tốt lành là phải xưng tụng Chúa, lạy Chúa5, và thưa Chúa rằng: Xin thương xót con, xin chữa linh hồn con, vì con đã phạm tội nghịch cùng Chúa6; và thay vì lợi dụng lòng khoan dung của Chúa để mà tha hồ phạm tội, thì phải nhớ lại lời Chúa phán: "Ngươi đã được lành, đừng phạm tội nữa, kẻo ngươi lại bị khốn khổ hơn trước"7.

Chúng cố huỷ diệt tất cả giáo huấn cứu độ đó, khi nói rằng: "Những lý do phạm tội từ trời chuyển đến cho ngươi, không thể chống lại được". Hay lời này: "Thần Venus đã làm như vậy, hay thần Saturnes hay thần Mars". Nói thế là để cất trách nhiệm cho con người - chỉ là xác thịt và máu me và thối tha kiêu ngạo - và đổ tội cho Đấng tạo hoá và chủ tể trời và các tinh tú. Và Đấng ấy là ai, nếu không phải là Chúa chúng con, là Đấng hiền từ và là nguồn mạch sự sống chính, Chúa sẽ trả cho mỗi người, tuỳ theo việc họ làm8. Và Chúa không khinh chê tâm hồn tan nát khiêm cung9.

 

Được giác ngộ nửa chừng


Thời đó có một người sành sõi10, rất giỏi về nghề y dược và rất nổi tiếng trong nghề đó. Với danh nghĩa là tổng đốc, chính tay ông đã đặt vòng hoa dành cho kẻ chiến thắng cuộc thi đó, trên cái đầu bệnh hoạn của con. Nhưng ông làm việc đó không phải với tư cách là y sĩ. Vì chính Chúa mới là Đấng chữa bệnh hoạn ấy, Chúa là Đấng chống cự kẻ kiêu ngạo và ban ơn cho kẻ khiêm nhường11. Tuy nhiên, qua cả ông già này, Chúa có thôi nâng đỡ con đâu, hay Chúa có từ chối chăm sóc linh hồn con đâu? Vì vậy mà con trở nên quen thân với ông và hết sức chăm chú theo dõi cuộc đàm thoại của ông - tuy không có văn vẻ gì cả, nhưng với những tư tưởng hoạt bát - cuộc đàm thoại của ông rất thú vị và có giá trị. Khi qua câu chuyện của con, ông biết là con chăm chỉ đọc các sách của các nhà chiêm tinh, thì, với một giọng điệu hiền từ như một người cha, ông khuyên con vứt các sách đó đi, và đừng phí phạm cho việc vô giá trị và vô ích đó sự lo lắng vất vả, cần thiết cho những việc hữu ích. Ông nói là ông đã học môn đó đến nỗi trong tuổi thanh niên, ông đã muốn lấy đó làm nghề để nuôi thân. Và, nếu ông đã hiểu được Hippocrate12, thì hẳn là ông đã có thể hiểu được các sách đó: Tuy vậy, ông đã vứt bỏ chúng và theo học y khoa, không ngoài lý do nào khác là vì ông đã khám phá thấy chúng hoàn toàn giả dối, và đã làm con người đứng đắn, ông không muốn kiếm ăn bằng cách lừa bịp thiên hạ. Ông nói tiếp: "Phần chú, cho được tạo nên một địa vị trong xã hội, chú đã có nghề dạy tu từ; còn cái hư ảo này chú chỉ học vì tính hiếu kỳ tự nhiên mà thôi, chứ không phải vì nhu cầu sinh sống. Thì chú lại càng nên nghe tôi về việc đó, vì một thời gian tôi đã hết sức đào sâu  khoa chiêm tinh đó để chỉ muốn sinh sống bằng nghề đó mà thôi". Con đã vặn lại ông: "Tại sao lại có nhiều điều họ tiên báo, mà sao đúng thế?". Ông đã trả lời theo khả năng của ông, ông cho đó là việc may rủi, tràn lan trong thiên nhiên. Vì như trong bất cứ trang sách của một thi sĩ nào, nói về chuyện gì đâu đâu, với những ưu tư khác hẳn, nhưng nếu có ai muốn bói, thì thường cũng tìm được một câu thơ đáp ứng lạ lùng với điều mình hỏi. Cho nên ông tiếp: "Không lạ gì, nếu có một linh hồn nhân loại, dù không ý thức được những gì xảy ra nơi mình, có thể không do khoa học, mà do một năng khiếu cao siêu nào đó, tự nhiên phát ra một lời đáp ứng với công việc và cử chỉ của kẻ hỏi mình".

Đó là những lời nhắn nhủ mà Chúa đã lo liệu ban cho con do ông già, hay đúng hơn qua ông già, và in vào ký ức con một đường lối cho cuộc sưu tầm tương lai của con vậy. Vì lúc đó chính ông già và người bạn rất thân của con, là Nebritius, một thanh niên rất tốt, rất trong sạch, luôn chế giễu tất cả loại khoa chiêm tinh đó, cũng không thể thuyết phục được con từ bỏ nó. Vì thế giá của các tác giả các sách đó ảnh hưởng mạnh trên trí khôn con. Và con chưa từng tìm thấy một bằng chứng nào chắc chắn như con muốn, để bày tỏ một cách chối cãi được rằng: Những điều xác thực mà các nhà chiêm tinh được hỏi han mà nói ra, đều do may rủi hay số mệnh, chứ không do phương pháp quan sát các tinh tú đâu.

BÀI THƠ VỀ TÌNH BẠN

 

Đoạn IV
Bạn từ nhỏ


7                 Trong các năm đó - là thời kỳ con bắt đầu dạy học ở đô thị sinh quán của con - con có một người bạn đồng môn rất nghĩa thiết, cùng tuổi với con: Cả hai đều mới bắt đầu tuổi xuân. Từ nhỏ, anh cùng lớn lên với con, chúng con cùng đi học với nhau, cùng chơi với nhau. Nhưng anh chưa phải là bạn hữu của con như sau này; mặc dầu về sau tình bạn của chúng con cũng chưa phải là tình bạn thật. Chỉ có tình bạn thật khi Chúa dán nó giữa những người gắn bó với Chúa, do bác ái, được đổ vào lòng chúng con, nhờ Chúa Thánh Thần được ban cho chúng con13. Tuy nhiên, đối với chúng con, tình bạn đó rất êm dịu, được nung nấu nhờ những ưa thích nồng nàn như nhau. Vì con đã làm anh bỏ đức tin chân thật, mà tuổi xuân của anh chưa nắm vững được thật sự và sâu xa, để quay sang những chuyện mê tín và nguy hiểm, đã làm cho mẹ con phải khóc vì con. Cùng với con, lòng trí anh đang đi vào đàng lạc, và con không thể sống mà không có anh. Thì này, Chúa theo sát những kẻ trốn Chúa, ôi Thiên Chúa hay báo oán14, đồng thời là nguồn mạch thương xót. Chúa muốn chúng con trở lại với Chúa bằng những nẻo đường lạ lùng. Thì đây, Chúa cất người ấy khỏi đời này, đang khi anh chưa được một năm sống trong tình nghĩa với con, một tình nghĩa êm dịu cho con hơn hết mọi sự êm dịu của đời con.

 

Cái chết của người bạn


8                 Khi cử căn cứ vào kinh nghiệm riêng của mình, ai có thể ca tụng Chúa cho đủ?15 Lúc đó, Chúa đã làm gì, lạy Chúa, và vực thẳm các phán quyết của Chúa ai có thể dò thấu được?16 Vậy, khi anh ấy bị sốt lâu ngày, nằm bất tỉnh, đẫm mồ hôi, nguy tử; vì hết hy vọng sống, người ta đã rửa tội cho anh, mà anh không biết gì hết; con cũng để vậy, vì tin chắc rằng: Hồn anh sẽ nắm giữ những gì con đã ghi tạc vào anh, chứ không phải điều mà người ta làm trên thân xác vô cảm thức của anh. Nhưng hậu quá trái ngược đã xảy đến. Vì anh khoẻ lại và khỏi bệnh; thì lập tức thoạt khi con có thể nói chuyện với anh - điều đó xảy ra ngay khi anh có thể, vì con không rời anh, chúng con cần nhau quá - con đã thử chế giễu trước mặt anh, tưởng anh cũng sẽ cùng với con chê cười thứ phép rửa tội ma anh đã chịu khi không cảm thức gì hết, vì lúc đó anh biết là anh đã chịu phép rửa tội rồi. Nhưng anh tỏ vẻ ghê gớm con như một kẻ thù, và với một giọng cương quyết lạ lùng và đột ngột, anh cho con biết là: Nếu con còn muốn là bạn hữu của anh, thì con phải chấm dứt những lời nói như vậy. Con sửng sốt và bối rối, con kìm hãm mọi xúc động, đợi cho anh được tĩnh dưỡng và có đầy đủ sức khoẻ, con sẽ có thể hành động với anh như con muốn. Nhưng Chúa đã cất anh khỏi những ý đồ điên dại của con, để được gìn giữ nơi Chúa, làm niềm yên ủi cho con: Một ít ngày sau, anh bị sốt lại, và từ trần.

 

Augustin đau đớn quá chừng!


9                 Nỗi thương tiếc đó làm u ám lòng con17 và tất cả những gì con trông thấy đều như chết cho con. Con chỉ nhìn thấy cái chết khắp nơi. Đối với con, quê hương trở thành hình khổ, nhà cha mẹ nên chốn sầu não quái kỳ, và những gì, trước kia con chia sẻ với anh, bây giờ không còn anh, thì trở nên hình khổ dữ dằn cho con. Mắt con tìm anh khắp nơi, mà không được thấy; con ghét mọi sự, vì chúng không có anh và cũng chẳng thể nói được cho con: "Này anh sắp đến", như khi anh còn sống và vắng mặt. Con trở thành một bí mật lớn cho con và con hỏi linh hồn con: Tại sao thổn thức và ấm ức trong con quá vậy?18 Thì nó không biết trả lời cho con. Và nếu con bảo nó: "Hãy trông cậy Chúa", thì nó không nghe, và nó có lý, vì con người rất thân thiết của con đã mất, thì hiện thực hơn và tốt lành hơn cái ảo tưởng mà con bảo nó cậy trông. Chỉ còn nước mắt là điều êm dịu cho con, nó thay thế người bạn của con, làm vui sướng lòng con19.

 

Đoạn V
Mầu nhiệm của nước mắt


10               Giờ đây, lạy Chúa, các sự ấy đã qua đi, và thời gian đã xoa dịu vết thương của con. Con có thể nghe Chúa, là chân lý, được không? Có thể kề tai lòng con gần miệng Chúa, để Chúa nói cho con biết: Tại sao nước mắt lại là điều êm dịu cho những kẻ khốn khổ vậy? Hay là Chúa, mặc dầu ở khắp nơi, Chúa vứt xa Chúa sự khốn khổ của chúng con và Chúa cứ ở nội tại, đang khi chúng con bị xiêu bạt theo kinh nghiệm của đời sống? Tuy  nhiên, nếu chúng con không kêu khóc tới tai Chúa, thì chúng con không còn hy vọng gì nữa. Vậy bởi đâu hái được hoa trái êm dịu từ sự đắng cay của đời sống, là rên rỉ, khóc lóc, thở than, phàn nàn? Nó êm dịu, có phải tại chúng con hy vọng Chúa nghe lời không? Điều đó đúng về kinh nguyện, vì có sự ước ao đi tới Chúa. Nhưng có đúng trong khi con thương tiếc mất bạn và đau khổ không? Vì con không hy vọng anh ấy sống lại, và nước mắt con cũng chẳng kêu cầu sự ấy, một chỉ than thở, khóc lóc mà thôi. Vì con khốn khổ và đã mất vui. Hay là chính sự khóc lóc, là điều cay đắng, mà vì chán ghét các sự trước kia là sung sướng, và bây giờ trở nên ghê gớm, mà hoá ra vui chăng?

 

Đoạn VI
Đời sống trở nên đáng ghét


11               Nhưng tại sao, con nói đến các sự ấy? Vì không phải là lúc đặt câu hỏi với Chúa, mà là thú tội với Chúa. Lúc đó con thật là khốn nạn, và mọi tâm hồn đều khốn nạn khi bị ràng buộc bởi tình yêu các sự vật hay chết và cảm thấy một sự xâu xé khi mất chúng. Lúc đó nó mới cảm thấy sự khốn nạn, mà nó đã mắc phải trước khi mất chúng. Tình trạng của con lúc đó là thế: Con khóc lóc một cách rất sầu thảm và con nghỉ ngơi trong sự sầu thảm20. Con khốn nạn như thế và con quý mến anh bạn của con. Mặc dầu con muốn đổi đời, nhưng không muốn mất nó, cũng như đã không muốn mất anh bạn của con; và con không biết con có ưng thuận chết cho anh, như câu chuyện có thật hay bịa đặt mà người ta kể về Oreste và Pylade, là cả hai cùng muốn chết với nhau, vì họ coi việc không được cùng sống với nhau còn tệ hơn cái chết. Nhưng con không biết có cảm tưởng gì trái hẳn lại đã nảy ra trong con, là vừa rất chán sống, lại vừa sợ chết. Con tin rằng: Con càng yêu anh ấy, thì càng ghét và sợ cái chết, như một kẻ thù độc ác, đã cất anh ấy khỏi con, và con tưởng nó sẽ nuốt hết mọi người, vì nó đã có thể nuốt được anh ấy. Theo như con nhớ, thì lúc đó con hoàn toàn là như thế.

Lạy Chúa, đây lòng con, đây đáy lòng con! Xin Chúa nhìn xem ký ức của con, Chúa là hy vọng của con, là Đấng thanh tẩy con khỏi những tình yêu nhơ nhớp đó, hướng dẫn con mắt con nhìn về Chúa, tháo gỡ chân con khỏi mọi l11i rò21. Con ngạc nhiên thấy các người khác sống, vì anh bạn mà con yêu mến như thể không chết được, thì lại đã chết. Con còn ngạc nhiên hơn nữa, vì thấy mình là anh ta thứ hai, mà còn sống, khi anh ta đã chết! Thi sĩ kia đã nói rất đúng về người bạn mình, khi ông gọi bạn là một nửa linh hồn ông22. Vì con cảm thấy linh hồn con và linh hồn bạn con chỉ là một linh hồn ở trong hai thân xác, và vì thế, con ghét sống, vì không muốn sống một nửa; có lẽ cũng vì thế mà con sợ chết, kẻo kẻ con yêu mến như vậy, phải chết hoàn toàn chăng?23

 

Đoạn VII
Bỏ Tagaste đi Cartage


12               Thật là điên, không biết yêu con người theo hoàn cảnh nhân loại của nó! Thật là dại, không chịu đựng số phận của con người cho kiên nhẫn! Khi ấy con điên dại như vậy đó. Cho nên con mới nóng nảy, than van, khóc lóc, băn khoăn, mất bình an, và hết suy tính. Vì con mang một tâm hồn bị thương tích máu me, nó không chịu cho con mang nó nữa,và con không biết đặt nó ở đâu?24 Nó không tìm được bằng an trong các rừng cây mát mẻ, hay trong các cuộc dạo chơi, ca hát, hay trong những phong cảnh thơm tho xinh đẹp, hay trong các bữa ăn thịnh soạn, hay trong sự khoái lạc của loan phòng và giường nệm, hay trong cả các sách vở và thi phú. Mọi sự làm con ghê sợ, kể cả ánh sáng, và tất cả những gì không còn như xưa kia, đều làm cho con chê ghét và chán nản, ngoại trừ sự than van và khóc lóc: Vì chỉ trong đó con mới tìm được chút bình an. Nhưng thoạt khi muốn kéo tâm hồn con ra khỏi chỗ đó, là như có một khối đau khổ đè nặng trên mình con.

Lạy Chúa, chính lẽ ra tâm hồn con phải tìm đến Chúa để được nâng đỡ và cũng không có thể, nhất là khi con nghĩ đến Chúa, thì đối với con, Chúa không phải là cái gì chắc chắn và hiện thực. Thật ra đó không phải là Chúa, mà là một ảo tượng và sự lầm lạc của con làm chúa con. Nếu con cố đặt tâm hồn con vào chúa đó, để được nghỉ yên, thì nó trượt qua hư vô rồi lại rơi xuống trên mình con và chính con trở thành nơi vô phúc cho con, nơi mà con không thể ở được, cũng chẳng trốn khỏi được. vì tim con trốn đâu cho khỏi tim con? Con chạy đâu cho khỏi chính mình con? Con làm sao thoát được sự theo đuổi của chính mình?

Tuy nhiên, con đã trốn khỏi quê hương con. Vì mắt con ít tìm tòi anh bạn ở nơi nó không quen nhìn thấy anh. Vậy con đã bỏ thành Tagaste mà đến Cartage25.

 

Đoạn VIII
Thời giờ yên ủi


13               Thời giờ không lười biếng, cũng chẳng qua đi cách vô ích trước giác quan của chúng con: Nó gây nên những việc lạ lùng trong tâm hồn. Thời giờ tới và lui, từ ngày này qua ngày nọ26, và khi tới lui như vậy, nó gieo vào con những hy vọng khác và những kỷ niệm khác; và dần dần nó chữa con khỏi những thứ khoái lạc xưa và làm mất nỗi đau khổ cũ; nhưng thay thế vào đó, nếu không phải là những đau khổ khác, thì ít là những duyên do cho những đau khổ khác. Vì bởi đâu mà nỗi đau khổ ấy đã thâm nhập quá dễ dãi tận đáy lòng con, nếu không phải là tại con đã thổ lộ tâm tình con trên bãi cát, khi yêu một người sẽ phải chết, mà coi như không bao giờ phải chết, hay sao?

 

Sự yên ủi của các bạn hữu


Con được nâng đỡ và hồi phục rất nhiều là nhờ ở sự yên ủi của các bạn hữu khác; cùng với họ, thay vì mến Chúa, con đã yêu điều con yêu, tức là một hư cấu khổng lồ, một chuyện bịa đặt dài dòng, mà sự mơn trớn hủ bại làm hư hỏng tâm hồn chúng con, đang (tuổi) ưa thích những chuyện bùi tai27. Mà chuyện này lại không chết đi cho con, mặc dầu khi có một người bạn nào chết đi chăng nữa. Còn có nhiều điều khác nơi họ làm mê say tâm tình ???? nữa như: Chuyện trò cười cợt với nhau và tỏ tình hào hiệp cho nhau; như cùng nhau đọc những sách hay, đùa giỡn với nhau, tôn trọng lẫn nhau; thỉnh thoảng bất đồng ý kiến nhau,nhưng không cay cú, như người ta thường có với mình vậy, và chính sự bất đồng ý kiến rất hoạ hiếm đó làm nổi bật sự đồng tâm nhất trí thường xuyên với nhau; như dạy bảo và học hỏi lẫn nhau; như nhớ mong người vắng mặt, vui vẻ đón nhận người mới đến: Các dấu hiệu ấy và các dấu hiệu khác giống như vậy, từ tâm hồn những kẻ yêu và được yêu lại, được biểu lộ qua miệng, lưỡi, con mắt và trăm ngàn cử chỉ rất nhã nhặn khác, thật là như những ngọn lửa nung nấu các tâm hồn, làm cho nhiều người hoà hợp nên một.

 

Đoạn IX


14               Đó là điều được yêu mến nơi bạn hữu và được yêu đến nỗi lương tâm con người sẽ cho là lỗi phạm, nếu không yêu kẻ yêu mình, hay nếu không lấy tình yêu đáp lại tình yêu, mà không đòi hỏi gì nơi thân xác kẻ được yêu, ngoại trừ cử chỉ yêu thương. Do đó, mà có tang tóc, khi người bạn chết, và những buồn rầu ảm đảm, và sự ngọt ngào trở nên cay đắng cho tâm hồn bị nó thâm nhập và sự mất sống của kẻ chết làm chết kẻ còn sống.

Phúc cho kẻ mến Chúa28, kẻ yêu bạn mình trong Chúa và kẻ yêu kẻ thù mình vì lòng mến Chúa29. vì chỉ có kẻ đó là không mất người yêu quý nào, vì kẻ ấy yêu quý mọi người trong Đấng không thể mất được. Đấng ấy là ai, nếu không phải là Thiên Chúa chúng con, lạy Chúa, là Đấng dựng nên trời và đất30 và tràn ngập chúng, vì Chúa đã dựng nên chúng khi tràn ngập chúng, hay sao? Chẳng ai mất Chúa, nếu không phải là kẻ bỏ Chúa. Và vì bỏ Chúa thì nó đi đâu hay trốn đâu, nếu không phải là bỏ lòng nhân từ của Chúa, để rơi vào cơn thịnh nộ của Người hay sao? Vì trong khi bị phạt, ở đâu mà nó không thấy luật Chúa? Và luật Chúa là chân lý, và chân lý là Chúa31.

VỀ CÁI ĐẸP TÁC PHẨM ĐẦU CỦA AUGUSTIN

 

Đoạn X
Bám vào tạo vật là lừa dối mình


15               Lạy Chúa thiên binh, xin cho chúng con trở lại với Chúa và tỏ cho thấy thánh nhan Chúa, thì chúng con sẽ được cứu rỗi32. Vì tâm hồn con người quay về bất cứ phía nào, nó cũng sẽ gặp đau khổ, nếu nó bám vào sự vật nào khác ngoài Chúa, dù là sự vật rất tốt đẹp, nhưng ngoài Chúa và ngoài bản thân. Vì các sự vật đó cũng không có, nếu chúng không bởi Chúa mà ra: Chúng sinh ra và chết đi; và khi sinh ra, chúng như bắt đầu hiện hữu và phát triển, để thành toàn; và khi đã thành toàn, chúng già nua và chết: Tất cả không đi tới chỗ già nua mà tất cả đều phải chết. Cho nên, khi chúng sinh ra và hướng về hiện hữu, chúng càng phát triển mau lẹ để sống còn, thì chúng lại càng chóng đi tới chỗ không còn nữa. đó là hoàn cảnh của chúng. Chúa chỉ ban cho chúng bấy nhiêu thôi; vì là những vật cấu thành, chúng không thể hiện hữu tất cả cùng một lúc, một là, do các sự vật qua đi và xuất hiện liên tiếp, chúng làm nên một toàn thể, mà chúng chỉ là những thành phần. Thì chính lời nói của chúng con cũng được diễn tiến là nhờ các tiếng nói kế tiếp nhau. Vì nếu tiếng này làm xong nhiệm vụ phát âm, mà không rút lui, để cho tiếng khác kế vào, thì không thể có một lời nói đầy đủ được.

Linh hồn con hãy ngợi khen Thiên Chúa33 về những sự vật tốt đẹp đó, lạy Chúa, là Đấng tạo thành muôn vật; nhưng mi đừng nhờ ngũ quan mà để cho mình bị gắn chặt vào chúng, bằng thứ keo sơn tình ái. Vì chúng đi theo con đường của chúng, để không còn nữa, và chúng xâu xỏ ai với những ước muốn nguy hiểm; vì chính mi cũng muốn sống và ta nghỉ yên trong những sự vật mi yêu. nhưng trong chúng không có nơi yên nghỉ, vì chúng không ở yên: Chúng lưu động hoài, và ai dùng quan năng xác thịt mà theo kịp chúng? Hoặc ai chiếm đoạt được chúng, ngay khi chúng ở trước mặt mình? Vì quan năng xác thịt thì chậm chạp, vì là quan năng xác thịt, đó là số phận của nó. Nó đủ lực cho công việc mà nó được tạo dựng, nhưng nó không đủ lực để cầm giữ những sự vật qua đi mau chóng, từ khởi điểm được ấn định cho tới cùng đích đã được chỉ cho. Vì nơi Ngôi Lời của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng muôn loài, chúng đã được mệnh lệnh: "Từ đây tới đó!".

 

Đoạn XI


Hỡi linh hồn tôi, chớ khoe khoang và đừng để cho những lời khoe khoang của mi làm rác lỗ tai tâm hồn mi34. Của mi, hãy nghe chính Ngôi Lời kêu gọi mi trở lại; và trong Người có nơi yên nghỉ, tĩnh mịch vô cùng, nơi mà tình yêu không bị bỏ rơi, nếu chính nó không bỏ rơi trước. Kìa, hãy xem các sự vật này qua đi, để cho sự vật khác thay thế, và tất cả các thành phần đó làm nên vũ trụ hạ giới này, Ngôi Lời Thiên Chúa tự hỏi: "Còn Ta, Ta có đi đâu không?" Linh hồn tôi hãy đặt nơi Người nhà ở của mi, hãy phó thác cho Người tất cả những gì mi đã nhận được bởi Người, ít là vì đã quá mỏi mệt bởi bao lừa dối. Hãy phó thác cho chân lý tất cả những gì mi đã nhận được ở chân lý, và mi sẽ không mất mát gì; trái lại, ở nơi mi những gì là tàn tạ sẽ lại được tươi nở, mọi suy nhược sẽ được phục hồi35, mọi hư hỏng sẽ được sửa chữa, đổi mới và kết hợp chặt chẽ với mi; chúng sẽ đứng vững với mi để được trường tồn gần Thiên Chúa, là Đấng luôn luôn đứng vững và trường tồn36.

17               Sao mi hư đốn thế, để đi theo xác thịt mi? Mi trở lại để chính nó phải theo mi mới phải. Những gì mi nhờ nó mà cảm thức được, chỉ là thành phần, và mi không biết được toàn thể (vũ trụ), mà chúng chỉ là những nguyên tố cấu thành, thế mà chúng cũng làm cho mi say mê chúng. Nhưng giả thử, giác quan của mi có khả năng bao quát được toàn thể vũ trụ, và, để nên hình phạt cho mi, nó không bị hạn chế vào từng nguyên tố mà thôi, thì hẳn là mi cũng ước ao cho hết mọi sự vật hiện hữu qua đi trước mặt mi, để mi được thoả mãn về toàn thể. Vì, như khi ta nói chuyện, mi cũng nhờ giác quan đó mà nghe được, hẳn là mi không muốn cho các tiếng nói dừng lại cả, một phải qua đi, để tiếng khác kế vào, thì mi mới nghe được tất cả câu chuyện. Về các nguyên tố cấu thành một toàn khối nào cũng vậy, các nguyên tố cấu thành đó không hiện diện cả một lúc: Toàn khối làm mi thoả thích hơn là từng phần, nếu mi có thể cảm thức được như thế. Nhưng còn tốt đẹp hơn các sự ấy xa lắm, là Đấng đã dựng nên tất cả, và chính Người là Thiên Chúa chúng ta, và Người không qua đi, vì không có gì kế tiếp được Người.

 

Đoạn XII
Hạnh phúc thật chỉ ở nơi Chúa


18               Hồn tôi hỡi, nếu các vật thể làm mi ưa thích, mi hãy nhân đó mà ngợi khen Thiên Chúa, và hướng tình yêu của mi về Đấng đã tác thành ra chúng, kẻo mi làm mất lòng Người, trong những sự vật mi ưa thích. Nếu các tâm hồn làm cho mi ưa thích, mi hãy yêu họ trong Thiên Chúa, vì chính họ cũng hay thay đổi, và họ chỉ tìm được ổn định, khi họ cố định nơi Người mà thôi. Chẳng vậy, họ sẽ qua đi và hư mất. Vậy mi hãy yêu họ trong Chúa, và hãy kéo về với Chúa những tâm hồn nào mi có thể kéo được, và hãy bảo họ: "Chúng ta hãy mến Chúa, chính Người đã tạo dựng các sự vật và Người không ở xa ta"37. Vì Người không tạo dựng chúng rồi bỏ đi, nhưng chúng bởi Người mà có thì chúng lại ở trong Người. Vậy Người ở đâu? Người ở nơi nào cảm thấy mùi chân lý. Người ở tận đáy tâm hồn, nhưng xa Người là tâm hồn lầm lạc. Hỡi tội nhân, hãy trở lại với tâm hồn mình38 và hãy kết hợp với Người, là Đấng đã dựng nên các ngươi. Hãy cố định nơi Người, thì các ngươi sẽ được yên nghỉ. Các ngươi đi đâu, vào những nơi hiểm dốc vậy? Các ngươi đi đâu? Sự lành mà các ngươi ưa thích bởi Chúa mà ra: Nhưng bao lâu nó hướng về Người, thì nó là tốt lành và êm dịu; nhưng nó sẽ trở nên cay đắng vì người ta đã bất công từ bỏ Thiên Chúa để yêu tạo vật của Người, đó là công bằng. sao các ngươi cứ đi và còn đi mãi trên các con đường khó khăn và vất vả vậy?39 Không có sự bình an ở nơi mà các ngươi tìm kiếm. Hãy tìm điều các ngươi đang tìm, nhưng nó không ở nơi các ngươi đang tìm kiếm. Các ngươi tìm đời sống hạnh phúc trong miềm sự chết: Nó không ở đó! Vì làm sao sống có hạnh phúc được ở nơi không có sự sống?

19               Chính sự sống của chúng ta đã hiện xuống đây40 và đã gánh lấy sự chết của chúng ta, và đã giết nó bằng sự sống dồi dào của Người. Và đã rống lên như tiếng sét, Người kêu gọi chúng ta hãy bỏ nơi đây mà trở lại với Người, trong chính thâm cung và Người đã xuất hiện, để đến với ta, trước hết là trong cung lòng thanh khiết, nơi nhân tính là xác thịt hay chết của ta đã kết hôn với Người, để không còn hay chết nữa; và từ đó: "Như một tân lang, Người ra khỏi loan phòng; như một cuộc?????????, Người hớn hở rảo bước đường vinh"41. Người đã không trì hoãn, mà đã chạy mau và kêu gọi bằng lời nói, bằng việc làm, bằng đời sống, bằng sự chết, bằng việc xuống âm phủ và lên trời, phải, Người kêu gọi chúng ta trở lại với Người. Rồi Người biến đổi con mắt chúng ta, để chúng ta trở lại với lòng mình42 và tìm thấy Người. Người đã trẩy đi, nhưng này Người đang ở đây43. Người đã không muốn ở lâu với chúng ta,nhưng Người không bỏ chúng ta. Người đã lui vào nơi mà Người đã không hề bỏ, vì thế gian đã do Người tác tạo44, và Người đã ở trong thế gian này để cứu vớt tội nhân45. Linh hồn tôi tuyên xưng danh Người, và Người cứu chữa rồi, vì nó đã xúc phạm đến Người46. Hỡi con người, cho đến bao giờ, lòng còn chai đa?47 Sự sống đã hạ mình xuống với ngươi, mà ngươi không vươn mình lên và sống hay sao? Nhưng lên đâu, khi ngươi ở trên cao và đã há miệng chọc trời?48 Hãy hạ mình xuống để vươn lên tới Thiên Chúa. Vì ngươi đã bị té nhào khi vươn lên chống lại Thiên Chúa.

Hồn tôi ơi, hãy nói các điều này cho chúng, để chúng khóc lóc trong thung lũng nước mắt49, và như vậy, mi lôi kéo chúng đến Thiên Chúa với mi, vì nhờ Thánh Linh Thiên Chúa mi nói các điều này cho chúng, nếu mi nói cách sốt sắng, do lửa bác ái thông cho.

 

Đoạn XIII
Vấn đề đẹp


20               Về các điều ấy, lúc đó con chưa biết; con ưa thích cái đẹp hạ cấp và con đi vào vực thẳm. Lúc đó con bảo các bạn hữu con: "Chúng ta yêu gì, nếu không phải là cái đẹp? Vậy đẹp là gì? Cái gì thu hút chúng ta và gắn bó chúng ta với sự vật mà chúng ta yêu? Vì nếu ở nơi chúng không có cái duyên dáng và nhan sắc, thì nhất định chúng không thu hút được chúng ta". Con đã để ý nhận xét và con đã thấy là trong các vật thể, một đàng là cái đẹp do sự điều hoà của toàn thể, đàng khác là cái xứng hợp do sự thích nghi với sự vật khác, như một chi thể hợp với thân mình, một chiếc giày hợp với chân người đã thử nó, vv... Suy tư đó đã phát xuất trong trí óc con, tự đáy lòng con, và con đã viết một bộ sách về "đẹp đẽ và thích hợp", con tưởng nó gồm hai hay ba quyển; có Chúa biết rõ, lạy Chúa; vì con không nhớ nữa, con không còn bộ sách đó, và tại sao nó thất lạc, con cũng không hay?

 

Đoạn XIV
Sách đó được đề tặng ông Hiérius


21               Lạy Chúa Trời con, cái gì đã xui khiến con đề tặng sách đó cho Hiérius, một nhà hùng biện ở thành Roma? Con chưa thấy mặt ông, nhưng con đã quý mến ông, vì ông rất có tiếng là học thức, lại con đã được nghe mấy lời phát biểu làm con thoả mãn. Hơn thế nữa, con quý mến ông vì thấy thiên hạ quý mến ông và khen ngợi ông, người ta bỡ ngỡ thấy một người Syri như ông, ban đầu chỉ học văn chương Hy Lạp, mà về sau lại nổi tiếng Latin rất hay; ông còn biết nhiều điều về khoa triết học nữa. con người được khen lao và yêu quý, mặc dầu vắng mặt. Vậy có phải tình yêu đó phát xuất từ cửa miệng kẻ khen lao đi vào lòng kẻ nghe không? Hẳn là không, mà tình yêu của người này đốt lên tình yêu của người nọ. Vì thế mà người ta yêu kẻ được khen, khi người ta tin rằng: Lời khen đó phát xuất từ một con tim thành thực, nghĩa là tình yêu đã nói lên lời khen ngợi.

22               Như vậy, lúc đó, con yêu người ta theo sự phán đoán của loài người, chứ không theo sự phán đoán của Chúa, lạy Chúa, nơi Chúa không một ai bị lừa.

Nhưng sao con lại không khen ông ấy như người ta khen một kẻ đánh xe ngựa giỏi, một người săn thú vật được công chúng nhiệt liệt hoan nghênh, mà lại phải theo một cách thức khác xa và phải thận trọng, và chính con cũng muốn được khen lao và quý mến như thế? Thật vậy, con không muốn được khen lao và quý mến như những người diễn kịch, mặc dầu chính con cũng khen lao họ và ưa thích họ; nhưng con chuộng sự ẩn tích hơn là được lừng danh kiểu đó, sự ghen ghét hơn là những cảm tình như vậy. Tại sao, trong cùng một tâm hồn, có sự phân phối các khối tình yêu khác nhau như vậy? Điều con yêu nơi kẻ khác, và trái lại con ghét nơi con, mà làm sao con lại không chê bỏ và loại bỏ nó, vì cả hai chúng con cũng là người mà? Như người kia khen con ngựa tốt, mà chính y lại không muốn làm ngựa, cho dù việc đó có thể được, nhưng không thể nói như vậy về người diễn kịch, vì y cùng bản tính với chúng con. Vậy con yêu nơi người ta điều mà con không ưa thích nơi con, mặc dầu con cũng là người, hay sao? Con người thật là một vực thẳm, mà các sợi tóc đã được Chúa đếm cả, lạy Chúa, và không một sợi nào hư đi nơi Chúa50: Tuy nhiên, các sợi tóc của nó dễ đếm hơn là tình tứ của nó và các cảm kích của con tim nó.

23               Vậy giáo sư hùng biện này thuộc loại những người mà con ước ao bắt chước; và tính kiêu ngạo làm cho con lầm lạc và đi theo mọi chiều gió51; nhưng Chúa đã điều khiển con cách rất kín nhiệm; làm sao con biết được và làm sao con thú nhận với Chúa cách chúng con được rằng: Con yêu ông ta vì tình yêu của những người khen ông, hơn là về chính những điều mà họ khen ông? Vì nếu, thay vì khen ông, các người này lại chỉ trích và chê bai ông, và khi chỉ trích chê bai, họ cũng kể lại các điều ấy, thì hẳn là con hết sốt sắng phấn khởi về ông, và chắc chắn là không có sự gì thay đổi ở thực tại và ở chính con người ông, chỉ có sự thay đổi ở tình cảm của những người kể chuyện về ông thôi. Một tâm hồn yếu đuối, chưa bám chắc vào chân lý, thì sa lầy như thế đó! Tuỳ theo dư luận phát xuất từ con tim qua cửa miệng quần chúng, nó bị đưa đẩy, quanh đi, quẩn lại, đâm ra tối tăm, không còn nhận ra chân lý. Mà chân lý vốn ở trước mặt chúng con.

Lúc đó con rất lo lắng làm cho nhân vật đó biết đến tác phẩm và công việc của con: Nếu được ông tán thành, thì con sẽ phấn khởi lắm; nhưng nếu ông không tán thành, thì con sẽ bị xúc phạm đến con tim, con tim trống rỗng, chưa được sự chắc chắn của Chúa ban cho. Thế mà về cái đẹp đẽ và cái thích hợp, là tài liệu cuốn sách con đề tặng ông ấy, con lấy làm thích thú xem xét chúng dưới cái nhìn chiêm niệm của con, và con cho đó là tuyệt diệu, không cần phải có ai khen ngợi với con.

 

Đoạn XV
Đại khái nội dung bộ sách đó


24               Nhưng lúc đó con chưa nhìn thấy căn nguyên của việc lớn lao đó trong kỹ thuật của Chúa, ôi Đấng toàn năng, chỉ một mình Chúa làm được những việc lạ lùng52. Trí khôn con chỉ rảo qua các hình thể vật chất53 Và con định nghĩa về đẹp đẽ là cái gì tự nó là phải; và con minh chứng sự khác biệt đó bằng những tỷ dụ rút ở thế giới vật chất. Rồi con quay sang bản thể linh hồn, nhưng những thiên kiến của con về các thực tại thiêng liêng không để cho con nhận ra chân lý. Sức mạnh của chân lý đáng thẳng vào mắt con, làm cho tâm hồn con hồi hộp, nhưng con bác bỏ các thực tại vô hình, mà quay hồn con về những sự vật có chu vi, màu sắc và khối lượng; và vì không thể thấy được những sự như vậy trong linh hồn con nên con tưởng con không thể trông thấy linh hồn con được54. Lúc đó con ưa thích sự an bình trong nhân đức và ghét sự bất hoà trong nết xấu, và con nhận thấy sự hợp nhất trong nhân đức và sự chia rẽ trong nết xấu; và trong sự hợp nhất đó, con tưởng nhìn thấy hồn hữu lý và yếu tính của chân lý và của sự tối thiện, còn trong sự chia rẽ của sinh hoạt vô lý kia, thì, vô phúc cho con, con tưởng nhận ra không biết là bản thể và bản tính nào của sự tối ác, và sự tối ác đó không những là một bản thể, mà còn là một sinh hoạt55, tuy không bởi Chúa mà ra, lạy Thiên Chúa con, bởi Chúa mà có mọi sự56.

Con gọi tối thiên là "đơn tử" vì là nguyên tố thiêng liêng, vô tính; còn tối ác là "nhị tố", vì thế mà có giận dữ trong tội ác, dâm đãng trong phóng túng; đang khi đó con không biết mình đã nói gì? Vì chưa biết cũng chưa ai dạy cho biết, là sự dữ không phải là một bản thể, và chính trí khôn chúng con không phải là một sự thiện tối thượng và bất biến.

Vì cũng như người ta phạm tội ác57, khi tự tâm hồn, là mạch giao động, phát xuất một cảm kích xấu, làm cho mình đâm ra kiêu căng và hung dữ; cũng như người ta làm điều xấu, khi không chế ngự tình yêu của mình, để nó nuôi dưỡng các đam mê xác thịt; cũng vậy, khi lý trí trở nên hủ bại, thì các sai lầm và tư tưởng lệch lạc nhiễm độc đời sống. Lúc đó tâm hồn con là thế, bởi con không biết rằng: Có một ánh sáng khác phải soi cho nó, để nó được tham dự vào chân lý, vì chính nó không phải là yếu tính của chân lý. Chính Chúa sẽ soi sáng chiếc đèn (trí khôn) của con, lạy Chúa; lạy Chúa con, Chúa sẽ soi cảnh tối tăm của con58, và hết thảy chúng con đã nhận lãnh tất cả từ sự sung mãn của Chúa59. vì Chúa là ánh sáng đích thực, đã đến trong thế gian, soi cho mọi người60, và nơi Chúa không có biến đổi hay bóng dáng sự vận chuyển nào hết61.

26               Nhưng lúc đó, con cố vươn lên tới Chúa, thì Chúa lại xua đuổi con xa Chúa, để con được nếm mùi sự chết, vì Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo62. Thật vậy, còn gì kiêu ngạo hơn là, do một sự điên khùng kinh khủng của con, con dám mạo nhận rằng: Tự bản tính, con cũng như Chúa? Vì là loài hay thay đổi, và, con biết rõ thế, nếu muốn thành một người khôn thì con phải đi từ kém tốt đến tốt hơn; thế mà con lại muốn tin rằng: Chúa cũng hay thay đổi, hơn là tin rằng: Bản thể con không như bản thể Chúa63. vì thế mà Chúa xua đuổi con và Chúa chống lại sự ngoan cố tự phụ của con. Con chỉ tưởng tượng đến những hình thể vật chất; và tuy là xác thịt, con lại tố cáo xác thịt, và là hơi thở qua đi64, con chưa trở lại với Chúa, và cuộc chạy lang thang đã đưa con tới những sự vật không có trong Chúa, không có trong con, không có trong thế giới vật thể. Những sự ấy không do chân lý của Chúa tạo dựng, một là do ảo mộng của con bày đặt ra, phỏng theo các vật thể. Thế mà con đã nói với các kẻ bé nhỏ, tín hữu của Chúa, đồng hương của con - lúc đó con bị lưu đày xa họ mà không hay - vậy như một người điên nói nhảm, con đã bảo họ rằng: "Vậy tại sao linh hồn sai lầm được, bởi vì Thiên Chúa đã dựng nên nó mà?". Và con không muốn người ta trả lời cho con: "Vậy tại sao Thiên Chúa sai lầm được?". và con muốn chủ trương rằng: Bản thể bất biến của Chúa nhất định phải sai lầm, hơn là nhìn nhận rằng: Bản thể hay thay đổi của con đã tự ý đi lệch lạc và đã hấng lấy sự sai lầm, như một hình phạt vậy.

27               Con có phỏng 26 hay 27 tuổi, khi viết bộ sách đó65. Con đọc đi đọc lại các hư cấu hoàn toàn vật chất đó, làm bùi tai lòng con; con cũng lắng tai nghe âm điệu bề trong của Chúa, khi suy gẫm về cuốn "Đẹp đẽ và thích hợp, và con muốn đứng trước tôn nhan Chúa, để nghe Chúa và được sung sướng vì tiếng nói của Tân lang66. Nhưng không thể được, vì các tiếng kêu của lầm lạc kéo con người ra ngoài và cái trọng lượng của sự kiêu ngạo lôi con xuống vực thẳm. Vì Chúa không cho tai con được vui mừng hoan lạc, hoặc cho xương con được reo lên, vì nó chưa bị nghiền nát67.

 

Đoạn XVI
Augustin dễ hiểu các phạm trù của Aristote


28               Có ích gì cho con, lúc chừng 20 tuổi đầu, được cầm cuốn sách của Aristote, nhan đề là "Mười phạm trù"68, con đã đọc một mình và đã hiểu được ngay? Thế mà khi đọc tiếng "phạm trù", giáo sư của con ở Cartage và nhiều thầy khác có tiếng là thông thái, phải phùng má, rung giọng, khêu gợi trong con sự khắc khoải mong chờ không biết sẽ có cái gì vĩ đại và thần linh nào đó? Sau con có nói với những người tự thú là ít hiểu về các phạm trù, mặc dầu nhờ những giáo sự rất giỏi, chẳng những giải thích bằng lời nói, mà còn nhờ vào những hình vẽ trên cát nữa. thế mà họ cũng chẳng có thể nói cho con được điều gì hơn là con đã biết khi đọc sách đó một mình.

Con cho đó là sách đã nói khá rõ về bản thể, ví dụ về con người, và về những tuỳ thể, thuộc về các bản thể, ví dụ như về hình thù con người, tầm vóc nó thế nào, đo được mấy thước; về họ hàng của nó, là anh em của ai, nó định cư ở đâu, nó sinh ra khi nào, nó đứng hay ngồi, đi giày hay mang vũ khí, hoạt động hay thụ động?... Và tất cả các đặc tính vô kể mà người ta nhận thấy được, hoặc trong 9 loại con vừa kể mấy thứ là tỉ dụ, hoặc trong chính loại bản thể.

Sách đó và nhiều sách khác đã làm lu mờ nơi Augustin quan niệm đích thực về Thiên Chúa

29               Các sự đó ích gì, khi chính chúng lại báo hại con? Vì tưởng rằng: Mười phạm trù bao gồm mọi sự vật hiện hữu, con đã cố tìm hiểu về Chúa, lạy Chúa, là Đấng đơn thuần và bất biến lạ lùng, con đã hiểu về Chúa như thể Chúa cũng lệ thuộc vào sự cao cả và tốt đẹp của Chúa, như thể các phạm trù đó ở trong Chúa cũng như trong một chủ thể, như trong một vật thể; té ra, chính Chúa là sự cao cả và sự tốt đẹp của Chúa. Trái lại, một vật thể không to và không đẹp, vì là vật thể, vì dù nó kém to và kém đẹp, nó vốn là vật thể. Cho nên, nhưng gì con đã nghĩ về Chúa đều là giả tạo, chứ không phải là chân lý, và là sự giả tạo của con khốn nạn, chứ không phải là một quan niệm chắc chắn của Chúa diễm phúc. Thật vậy, Chúa đã ra lệnh, và lệnh đó đã được thi hành nơi con, là trái đất phát sinh gai góc cho con69 và con phải vất vả mới kiếm được của ăn.

30               Và ích gì con con, tự đọc và hiểu được tất cả các sách con có thể đọc về nghệ thuật, được gọi là nghề tự do, đang khi con là đưa nô lệ gian ngoa của các đam mê xấu? Con vui thích về những gì là chân thật và chính xác trong các sách đó, mà không biết chúng bởi đâu đến. Vì con quay lưng vào ánh sáng, và quay mặt vào các sự vật được soi sáng; bởi đó, con nhận thấy các sự vật trong ánh sáng, mà chính mắt con không được soi sáng. Tất cả những gì liên hệ đến nghệ thuật ăn nói và biện luận, đến hàm nghĩa của các biểu trưng, đến nhịp nhàng, đến hoà điệu, con hiểu được dễ dàng và không cần thầy dạy bảo. Chúa biết sự ấy, lạy Chúa Trời con, vì trí khôn lanh lẹ và sắc sảo là một ơn huệ Chúa ban cho con. Nhưng con đã không lấy gì để tế lễ Chúa70. cho nên nó đã không lợi ích cho con mà còn báo hại con nhiều. Con đã đòi cho được phần gia tài tốt nhất của con, nhưng con đã không gìn giữ tài lực của con gần Chúa71, một đã trẩy đi phương xa72, phung phí nó cho gái giang hồ, là các đam mê. Vậy ích gì cho con có một gia tài tốt đẹp, mà không khéo sử dụng? Vì con không nhận thấy những khó khăn mà các khoa học đó đã gây cho những trí khôn sắc sảo và chịu khó, trừ khi con cố giải thích các vấn đề đó cho họ, thì mới thấy người sáng trí nhất trong bọn họ, là kẻ không đến nỗi quá chậm chạp theo dõi sự giải thích của con.

31               Những sự ấy ích gì cho con, là kẻ tưởng rằng: Chúa là một vật thể sáng láng và bao la, lạy Chúa, là chân lý, và con là một mảnh được tách ra từ vật thể đó, và bây giờ con không hổ thẹn, tuyên xưng lòng nhân từ Chúa73 đối với con và kêu cầu Chúa, lạy Chúa Trời con, vì lúc đó con đã không hổ thẹn tuyên bố trước công chúng những điều phạm thánh và, như con chó sủa, la lối om sòm chống lại Chúa74. vậy ích gì cho con có một trí khôn lanh lẹ đối với các khoa học và giải thích được bao đoạn sách khúc mắc, mà không cần đến sự giúp đỡ của một giáo sư nhân loại nào hết? Vì đối với giáo lý cứu rỗi, thì con rơi vào những lầm lạc xấu xa, nhục nhã và phạm thánh? Còn đối với các kẻ bé nhỏ của Chúa, thì trí khôn chậm chạp đâu có phải là một thiệt hại lớn lao, vì chúng không lìa xa Chúa, chúng được yên ổn trong tổ ấm75 của Giáo Hội Chúa, để được đâm đủ lông, và nuôi dưỡng cánh các ái, nhờ lương thực của một đức tin lành mạnh?

Ôi, lạy Chúa chúng con, chớ gì chúng con được trông cậy vào bóng cánh của Chúa, xin Chúa hãy che chở76 và ẵm bế chúng con. Chính Chúa sẽ ẵm bế chúng con; Chúa đã ẵm bế chúng con từ nhỏ bé và Chúa sẽ ẵm bế chúng con cho đến bạc đầu77. Vì sức chúng con khi hợp với Chúa thì trở nên mạnh mẽ, còn riêng mình chúng con, thì chỉ là yếu đuối. Sự lành của chúng con luôn luôn ở nơi Chúa, và vì chúng con bỏ Chúa mà đi, nên lầm lạc. Lạy Chúa, chớ gì từ nay chúng con trở lại với Chúa, để khỏi bị hư đi. Sự lành của chúng con tồn tại vĩnh viễn nơi Chúa, vì chính Chúa là sự lành của chúng con. Chúng con không sợ rằng: Khi trở lại, chúng con không tìm lại được nơi cu trú, vì chúng con đã bỏ ra đi; nhưng khi vắng chúng con, nơi cư trú của chúng con không bị sụp đổ, vì đó là sự vĩnh cửu của Chúa!

*******************

 

QUYỂN NĂM: ĐƯỢC TỈNH NGỘ VỀ THUYẾT MANÈS

 

Đoạn I
Cầu xin Chúa cứu vớt các tội nhân


1                 Xin Chúa hãy chấp nhận của lễ tuyên xưng từ "bàn tay" miệng lưỡi con, mà Chúa đã hình thành và thúc giục tuyên xưng danh Chúa1. Xin hãy chữa trị các xương cốt con2, để, chúng nói lên: "Giavê, nào ai giống được như Người"?3 Kẻ thú tội với Chúa chẳng học cho Chúa biết được điều gì xảy ra trong mình nó, vì một tâm hồn đóng kín đến đâu, cũng không che mắt Chúa được, và sự cứng cỏi của con người không đẩy lui được bàn tay Chúa; Chúa sẽ làm cho nó ra mềm mại, khi Chúa muốn, hoặc bằng tình thương, hoặc bằng oán phạt, và không một ai lẩn tránh được sự nóng nảy của Chúa4.

Hồn con ước ao ngợi khen Chúa5, để mến Chúa, và tuyên xưng lòng nhân từ Chúa6, để ngợi khen Chúa. Toàn thể tạo vật không ngừng và khôn lời khen ngợi Chúa, mọi thần khí ngợi khen Chúa qua miệng lưỡi của những kẻ quan sát chúng; ngõ hầu hồn chúng con ra khỏi cơn mỏi mệt hướng về Chúa, bằng cách dựa vào công trình của Chúa và qua chúng mà tới Chúa, là Đấng đã tạo dựng nên chúng, một cách diệu kỳ. nơi Chúa mới có bổ dưỡng và sức mạnh thật.

 

Đoạn II


2                 Những kẻ lo sợ và gian ác, hãy đi xa và trốn khỏi mặt Chúa!7 Nhưng Chúa trông thấy chúng và phân biệt các "ý đồ" đen tối của chúng, và này đây, toàn thể tạo vật đều tốt đẹp, có cả chúng trong đó, nhưng chính chúng thì xấu xa8. Chúng đã làm gì hại Chúa? Hoặc chúng đã làm gì tổn thương đến Nước Chúa, vốn công bình và toàn vẹn từ trời cao đến tận cùng trái đất? Chúng đã trốn đi đâu, khi trốn tránh tôn nhan Chúa? Hoặc ở nơi nào Chúa không tìm thấy chúng? Chúng đã trốn đi để khỏi thấy Chúa nhìn thấy, nhưng vì mù quáng, chúng đã đụng phải Chúa - vì Chúa không bỏ rơi một vật nào Chúa đã tạo dựng9 - vì bất công, chúng đã đụng phải Chúa và chúng đã bị phạt một cách công bình; muốn thoát khỏi lòng nhân từ của Chúa, chúng đã đụng phải đức công bình của Chúa và sa vào sự nghiêm khắc của Chúa. Rõ ràng là chúng không biết rằng: Chúa ở khắp mọi nơi, không một chỗ nào cầm hãm được Chúa, và chỉ một mình Chúa là hiện diện cả với những kẻ tránh xa Người. Vậy, họ hãy trở lại và tìm kiếm Chúa, vì Chúa không bỏ rơi tạo vật của Chúa, như họ bỏ rơi Đấng tạo hoá của họ. Họ hãy trở lại và tìm kiếm Chúa. Và này đây, Chúa đang ở trong lòng họ, trong lòng những kẻ thú tội với Chúa, phủ phục dưới chân Chúa và khóc lóc trong lòng Chúa, sau những bước đường gian khổ10: Chúa nhân từ sẽ lau nước mắt cho họ11; họ sẽ khóc nhiều hơn, nhưng sẽ vui mừng trong nước mắt; vì Chúa, lạy Chúa, Chúa không phải là một người có xác thịt máu me, mà là Chúa đã tạo dựng nên họ, bây giờ Chúa tái tạo họ và yên ủi họ. Phần con, lúc đó con ở đâu, khi tìm kiếm Chúa? Còn Chúa, lúc đó, Chúa ở trước mặt con, mà con thì ở xa cách chính mình con, con không tìm thấy con nữa, huống chi tìm thấy Chúa!

 

Đoạn III
Faustus đến Cartage


Trước tôn nhan Chúa của con, con xin trình bày về năm 29 tuổi của con. Lúc đó có một giám mục thuộc bè rối Manès vừa tới Cartage, tên là Faustus12, thật là một cái tròng lớn của ma quỷ13 và đã có nhiều người mắc phải, bởi cái bùa mê khéo nói của ông. Mặc dù con đã khen ông khéo ăn nói, nhưng con đã phân biệt lời nói với các chân lý, mà con ước ao học hỏi; và con không để ý đến phẩm chất của cái bình đựng, nghĩa là đến văn thể, cho bằng đến các món ăn khoa học mà Faustus, con người nổi tiếng trong bọn họ, có thể cung cấp cho con. Vì người ta đã báo cho con biết ông ta rất sở trường về mọi môn học rất cao thượng và nhất là thông thạo về những môn học tự do.

 

Bói toán và khuyết điểm của khoa học loài người


Vì con đã đọc nhiều sách của triết gia và nhớ giáo huấn của họ, nên con đã so sánh với các hư cấu dài dòng của bè rối Manès, thì con cho những điều họ nói là khá đúng: Các triết gia đó đã có nhiều khả năng hiểu biết được vũ trụ, mặc dầu họ không khám phá được chúa tể của vũ trụ14. vì Chúa là Đấng cao siêu, lạy Chúa, và Chúa đoái nhìn những kẻ khiêm cung, con người tự đại, Chúa chỉ từ xa thoáng biết15. Chúa chỉ gần bên những tấm lòng thống hối16. Kẻ kiêu ngạo sẽ không tìm thấy Chúa, mặc dầu, với cái tài lực hiếu kỳ, họ đếm được các vì sao và các hạt cát; họ đo lường được các vùng thiên nhai, theo dõi được lối đi của các tinh tú.

4                 Nhờ trí khôn và tài năng Chúa đã ban cho, họ tìm hiểu các sự bí mật đó, và họ đã khám phá được khá nhiều, đã báo trước nhiều năm về những vụ nhật thực và nguyện thực sẽ xảy ra vào ngày nào, giờ nào, ở độ nào; và kế toán của họ không có sai; và biến cố đã xảy ra như họ đã tiên báo. Họ lại ghi chép các định lý đã khám phá được; ngày nay người ta còn đọc được và căn cứ vào đó mà tiên báo: Năm nào và tháng nào trong năm, và ngày nào trong tháng, và giờ nào trong ngày, và ở độ nào trên mặt trăng, mặt trời, sẽ có nhật, nguyện thực; và biến cố sẽ xảy ra như đã báo trước.

Những người không biết các vấn đề đó thì lấy làm lạ lùng sửng sốt; còn kẻ hiểu biết thì hoan hỉ và kiêu căng. Và vì kiêu căng bất kính, họ đi thụt lùi và thiếu hụt ánh sáng bao la của Chúa, cho nên họ biết trước được nhật thực, đang khi đó họ không nhìn thấy nhật thực của họ, - vì họ đã không sưu tầm với một tinh thần đạo đức, nhờ đó mà họ có tài năng để sưu tập các khoa học - và khi nhận ra rằng: Chính Chúa đã tạo nên họ, họ cũng không dâng mình cho Chúa, để Chúa bảo vệ công trình Người đã tác tạo; họ không tự hiến tế cho Chúa, như thể chính họ đã làm nên họ; họ không hy sinh cho Chúa, tựa loài chim, các cuộc tiến xa của họ, hoặc tựa loài cá, các sự hiếu tri làm cho họ rảo khắp các nẻo bí hiểm của vực thẳm, hoặc tựa loài vật ngoài đồng17 các say mê xác thịt của họ, để Chúa, lạy Chúa, là ngọn lửa thiêu đốt18, Chúa thiêu huỷ các đam mê nguy tử của họ, và tái tạo họ cho được sống đời đời.

5                 Nhưng họ đã không biết "con đường"19 là Ngôi Lời của Chúa, Chúa đã nhờ Người tạo nên những sự mà họ đếm được, và chính họ là kẻ đếm các sự ấy, và giác quan giúp họ nhận ra các sự họ đếm, và trí khôn nhờ đó họ đếm được. còn sự khôn ngoan của Chúa thì không đếm được20. chính Con duy nhất của Chúa đã trở nên sự khôn ngoan, công chính và thánh thiện cho chúng con21. Người đã được kiểm tra giữa chúng con và đã nộp thuế cho Césare. Họ đã không biết con đấng này, nhờ đó họ bỏ được mình mà xuống tới Người, và qua Người mà lên tới Người. Họ không biết con đường này và họ tưởng họ cũng ở trên cao và sáng láng như tinh tú, thì này đây, họ đã bị xô đẩy xuống đất và tâm hồn điên dại của họ đã ra tối tăm. Họ nói nhiều điều xác đáng về tạo vật, nhưng không lấy tinh thần đạo đức mà cứu xét, cho nên họ không tìm thấy chân lý, là hoá công các tạo vật. Hoặc nếu họ có tìm thấy, thì khi nhận biết Thiên Chúa, họ đã không tôn kính Người như Thiên Chúa, hoặc không cảm tạ Người. Họ chia trí trong những ảo tưởng của họ; họ xưng mình là khôn, bằng cách tự gán cho mình những sự thuộc về Chúa, và do đó, trong một sự mù quáng xiên xẹo, họ cố gán cho Chúa những điều thuộc về họ, mà Chúa là sự chân thật; họ đổi vinh quang của Thiên Chúa bất hủ ra giống hình ảnh của con người hủ bại, của chim chóc, của súc vật và rắn rết; họ đổi chân lý của Chúa ra sự gian dối; họ tôn kính và phục vụ tạo vật hơn Đấng hoá công22.

 

Thuyết Manès thiếu khoa học


6                 Tuy nhiên, con còn nhớ nhiều điều xác thực họ đã kết luận được do việc quan sát tạo vật, và con đã nhận thấy có một tổng hợp hữu lý dựa trên kế toán và trật tự thời gian, và trên các chứng cứ nhìn thấy được của các vì sao. Con đã so sánh các sự đó với giáo huấn của bè Manès, vì bè này đã viết rất nhiều điều lố lăng về vấn đề này23, nhưng ở đó con không nhìn thấy lý do của các biến cố hạ chí và công chí, của nhật thực và nguyện thực, hay của một biến cố nào mà con đã học được trong các sách triết học đời. Họ bảo con phải tin; nhưng tín ngưỡng đó không phù hợp với phương pháp đã được chứng minh bằng kế toán và bằng con mắt của con, nó lại rất khác biệt nữa!

 

Đoạn IV


7                 Lạy Chúa, là Chúa chân lý24, có phải kẻ nào biết các điều ấy là đã làm đẹp lòng Chúa không? Vậy khốn cho con người biết tất cả các sự ấy, mà không biết Chúa; nhưng phúc cho kẻ biết Chúa, mặc dầu không biết các sự ấy. Còn kẻ vừa biết Chúa, vừa biết các sự ấy, thì không phải vì các sự ấy mà được phúc hơn, mà chỉ được phúc vì một mình Chúa mà thôi, nếu khi đã biết Chúa, họ tôn kính Chúa cho xứng đáng và cảm tạ Chúa, và không chia trí trong những ảo tượng của họ25.

Thật vậy, như kẻ biết mình được chiếm hữu một cây kia và cảm tạ Chúa đã cho mình được sử dụng nó - mặc dầu không biết nó cao mấy thước hay lan rộng bao nhiêu - thì hẳn là có giá trị hơn kẻ đo được bề cao cây ấy và tính được các cành của nó, mà không được chiếm hữu nó, cũng chẳng nhận biết và yêu mến Đấng đã dựng nên nó; cũng vậy, đối với một tín hữu, tất cả kho tàng thế gian là của nó, nó như không có gì, mà có hết mọi sự26, khi nó gắn bó với Chúa, là Đấng mọi loài phải quy phục - mặc dầu nó không biết gì đến các đường vòng của chòm sao Gấu lớn, Gấu nhỏ - thì phải là điên dại mới nghi ngờ rằng: Nó không có giá trị hơn kẻ biết đo bầu trời, tính các vì sao, cân các nguyên tử, mà không đếm xỉa gì đến Chúa, là Đấng đã an bài mọi sự cho có mực thước, hệ số, và trọng lượng27.
 
 

Đoạn V


8                 Nhưng ai đã xin con không biết một đảng viên Manès nào viết về những đề tài, mà người ta không cần biết cho được học sự đạo đức? Vì Chúa đã bảo con người: "Này, đạo đức là khôn ngoan". Manès có thể không biết gì về đạo đức, mà biết rõ ràng về khoa học. Nhưng vì y không biết rõ về khoa học, mà còn cả dám tạo báo giảng dạy khoa học, cho nên rõ ràng là y chẳng biết gì về đạo đức. Vì hư vinh là tuyên dương các tri thức về vũ trụ của mình, dù là chính xác; còn đạo đức là tôn vinh danh Chúa về các tri thức đó. Như vậy Manès đã đi lạc đường: Việc ông nói nhiều về các khoa đó, cho thấy rõ - với sự xác nhận của các nhà trí thức đích thực - trình độ kiến thức của ông như thế nào trong các vấn đề bí ẩn hơn? Ông không muốn người ta ít tôn trọng ông, ông còn cố gắng cho người ta tin là Chúa Thánh Thần, Đấng yên ủi và ba nhiều ơn cho các tín hữu Chúa, đích thân hiện diện trong ông, cùng với đầy đủ quyền năng của Người28. Cho nên khi ông bị bắt quả tang là nói sai về trời, về sao, về sự vận chuyển của mặt trời và mặt trăng - cho dù các điều đó không hệ trọng đến đạo lý - thì đủ thấy rõ sự táo bạo của ông là phạm thánh, vì chẳng những ông tuyên bố những điều ông không biết, mà còn những điều giả dối nữa, với một giọng điệu kiêu ngạo điên cuồng, đến nỗi dám gán những lời nói đó cho mình như một Ngôi vị Thiên Chúa vậy!

9                 Vậy khi con nghe biết một anh em Kitô hữu nào không biết các vấn đề khoa học đó, mà nói lộn xộn, thì con nhẫn nại coi người đó suy tư làm sao? Con tưởng điều đó không hại gì cho y, một khi y không tin điều gì bất xứng về Chúa, lạy Chúa, là Đấng tạo thành muôn vật29, mặc dầu lỡ ra y không biết vị trí và bản tính của các tạo vật hữu hình. Nhưng sẽ có hại cho y nếu y tưởng rằng: Các điều đó liên hệ mật thiết đến giáo lý cứu rỗi, và y dám cố chấp tuyên cố những điều y không biết. Nhưng cả những kẻ yếu đuối như vậy, khi đức tin còn thơ ấy, vốn được bác ái như người mẹ, nâng đỡ cho đến khi con người mới đạt tới bậc thành toàn và không còn có thể tròng trành trôi dạt theo mọi chiều gió đạo lý nữa30.

Còn ????????? con người đã dám tự xưng là tiến sĩ, là thầy dạy, là hướng đạo, là thủ lãnh của những kẻ mà y làm cho tin rằng: Kẻ theo y không phải là theo một người tầm thường, mà là theo Thần Linh của Chúa, về con người đó, ai mà không cho sự điên cuồng quá lộ của y là đáng khinh bỉ và khai trừ, nhất là khi y đã bị bắt quả tang nói bậy?

Tuy nhiên, con chưa rõ ràng chắc chắn rằng: Người ta có thể đưa vào giáo huấn của ông mà giải thích được sự tuần hoàn dài ngắn của ngày, đêm và chính sự kế tiếp của ngày, đêm, các cuộc nhật thực, nguyện thực và cả những điều tương tự mà con đã đọc ở các sách khác, đến nỗi, dầu có cắt nghĩa được, con cũng chưa chắc là thực tế sự vật xảy ra như vậy. Nhưng con thích dựa vào thần thế của ông mà tin, vì lý do sự thánh thiện người ta tin nơi ông.

 

Đoạn VI
Augustin gặp Faustus


10               Trong khoảng 9 năm trời, với một tâm hồn lêu lỏng, con nghe theo bè rối Manès, và với một ước ao nồng nhiệt, con chờ đợi Faustus đến. Vì những bạn đồng đạo khác, mà con gặp được và không giải đáp được những vấn nạn của con, đã khoe với con là khi Faustus đến và thảo luận với con, ông sẽ giải đáp một cách rất dễ dàng và minh bạch các điều ấy, và cả những điều khó hơn, nếu con đề nghị với ông.

Vậy ông đã đến. Con nhận thấy ông là một người có duyên và nói năng vui vẻ. Những cuộc nói chuyện thường xuyên với đạo hữu của ông trở nên hấp dẫn hơn trước nhiều. Nhưng ông chước tửu rất nhã nhặn, với những chén cốc quý báu, sẽ giãn khát con làm sao đây? Tai con đã chán nghe các chuyện đó, cho nên đối với con, chúng không tốt hơn vì khéo kể hơn; và cũng không thật hơn vì nói hay hơn; Faustus không có tâm hồn thông thái hơn vì có một mặt niềm nở và lời nói văn hoa hơn. Vậy những kẻ đã khoe ông với con không phải là những người phán đoán giỏi, cho nên, họ thấy ông nói hay là họ tưởng ông khôn ngoan thông thái.

Con cũng biết có một hạng người nghi ngờ chân lý và không muốn tin, nếu người ta trình bày cho họ một cách văn hoa và lưu loát31. Phần con, lạy Chúa, do những đường lối lạ lùng và bí nhiệm, Chúa đã dạy con; và nếu con tin rằng: Chúa đã dạy con là vì lời dạy đó chân thật, vì ngoài Chúa ra, không có ai là thầy dạy chân lý, bất cứ nó phát hiện ở đâu và từ nơi nào. Vậy con đã được Chúa dạy bảo cho biết là một điều không được coi là thật vì được người ta nói ra một cách hùng hồn, hoặc coi là dối, vì môi mép phát âm hiệu khó nghe, lại một điều không phải là thật vì nói lên một cách mộc mạc, cũng không phải là dối vì được nói với một văn thể hoa mỹ; nhưng khôn hay dại cũng ví như của ăn tốt hay xấu; và với văn thể hoa mỹ hay thô sơ cũng ví như với đồ đựng thanh nhã hay quê kệch, người ta có thể đựng được cả hai thứ của ăn.

11               Vậy ham vọng làm con chờ đợi Faustus lâu  như vậy đã được thoả mãn, vì thấy ông hăng say tranh luận, khéo lựa chọn những danh từ thích hợp để trình bày tư tưởng của ông. Con đã lấy làm thoả mãn về ông và cùng với nhiều người, và còn hơn nhiều người khác, con đã khen ngợi và đề cao ông. Nhưng con phàn nàn là trong cuộc hộp họp đông thính giả như vậy, con không thể nêu ra cho ông và chia sẻ với ông những thắc mắc của con, như trong một cuộc đàm đạo thân mật, ai nấy có thể lần lượt hỏi và thưa. Vậy thoạt khi có dịp, con đã hội kiến với ông, cùng các bạn hữu, vào lúc mà cuộc tranh luận với nhau không có gì là bất tiện. Con đã nêu ra một số thắc mắc của con, và đầu tiên con đã nhận thấy, về nghệ thuật tự do, Faustus chỉ biết có văn pháp (grammaire) và một cách thông thường mà thôi. Nhưng vì ông đã đọc mấy bài diễn thuyết của Cicéron, một số rất ít sách của Sénèqua, vài cuốn thơ phú và sách của bè Manès, được viết bằng một thứ La ngữ khá trôi chảy; lại vì ông có kinh nghiệm giảng dạy hằng ngày, cho nên ông đã thành một nhà hùng biện, mỗi ngày một trở nên vui vẻ và hấp dẫn, nhờ sự biết lợi dụng thiên tài và duyên dáng tự nhiên của mình.

Con nhớ như thế có đúng không, lạy Chúa, là Đấng thẩm phán lương tâm con? Con mở lòng và trí nhớ của con ra trước nhan thánh Chúa32, Đấng đã hướng dẫn con theo sự quan phòng mầu nhiệm của Chúa và đã phanh phui trước mặt con33 các lầm lạc xấu xa của con, để con nhìn thấy và ghen ghét.

 

Đoạn VIII


Vậy sau khi biết khá đủ là ông thiếu khả năng trong phạm vi mà trước đây con tưởng ông rất giỏi, thì con bắt đầu mất hy vọng rằng: Ông có thể khai thông và giải đáp được những thắc của con. Đã hẳn, ông ta có thể không biết các vấn đề đó, mà có một lòng đạo đức chân thật, nhưng miễn là ông không thuộc bè Manès mới được. Thật vậy, các sách của họ đầy dẫy những chuyện hoang đường tràng giang đại hải, về trời và về tinh tú, về mặt trời và mặt trăng: Điều mà con ước ao là Faustus có thể giải thích các việc đó cho con một cách minh bạch, với những chứng cứ của kế toán, mà con đã đọc ở các sách khác, để con có thể thấy rằng: Các biến cố đó xảy ra như các sách của Manès đã chép, hay ít là đã được các sách đó biện minh một cách thoả đáng; nhưng con tin rằng: Ông ta không có khả năng làm được việc đó.

Tuy nhiên, con đã nêu các thắc mắc của con để ông cứu xét và thảo luận; nhưng ông đã khiêm tốn và khôn khéo chối từ gánh nặng đó, vì ông biết mình ông bất lực và ông không hổ thẹn thú nhận điều đó. Ông không như những người lẻo mép đã làm cho con phải chán nản, vì họ cố nhào sọ con, mà chẳng nói được cái gì cho ra cái gì hết. Còn ông, ông có tinh thần, mặc dầu không hướng về Chúa34, nhưng rất thận trọng. Vì biết rõ sự bất lực của mình, ông không dám lao đầu vào cuộc tranh luận mạo hiểm, mà tiến thoái lưỡng nan; do đó mà con có cảm tình với ông hơn35. Sự dè dặt của một tâm hồn tự giác thì cao đẹp hơn khoa học mà con muốn biết. Và trong các vấn đề khó hơn và tế nhị hơn, con đều thấy ông ta có thái độ như vậy.

13               Như vậy, sự hăng say học hỏi giáo thuyết của Manès đối với con đã bị xẹp xuống, và con còn thất vọng hơn về các tiến sĩ khác của họ, khi mà người nổi tiếng nhất đã tỏ ra bất lực như vậy, trước bao nhiêu điều thắc mắc của con. Tuy nhiên, con tiếp tục đi lại với ông, vì thấy ông hăng say với văn chương, mà nhân danh là giáo sư tu từ tại Cartage, lúc đó, con dạy thanh niên. Cùng với ông, con đọc những sách mà ông ham biết, vì đã được nghe nói đến, hoặc những sách mà chính con tưởng là thích hợp với tâm trạng của ông. Đàng khác, tất cả sự cố gắng của con để tiến tới trong bè phái này đã bị xẹp xuống, ngay khi con biết được con người của ông này, nhưng con không hoàn toàn cắt đứt liên lạc với họ36, một là vì chưa tìm được cái gì tốt hơn, con đành lòng phải tạm ở lại trong hoàn cảnh, mà con đã mù quáng rơi vào, đừng kể có một ánh sáng mới nào soi cho con, để có một chọn lựa tốt hơn.

Như vậy, ông Faustus này, đã được coi như cái lưới của tử thần37 cho nhiều người, thì, dù không muốn cũng chẳng hay, ông đã bắt đầu tháo gỡ cái lưới mà con đã mắc. Vì, lạy Chúa, trong sự quan phòng huyền diệu của Chúa, tay Chúa đã không rời bỏ linh hồn con. Và từ con tim mướt máu, mẹ con đêm ngày đã lấy nước mắt tế lễ Chúa thay cho con. Và Chúa đã hành động cách lạ lùng đối với con. Vâng, Chúa đã hành động như vậy, lạy Chúa con. Vì "Giavê dẫn bước con người, và vui thoả con đường nó theo"38. Vả chăng, làm sao chúng con có thể được cứu rỗi, nếu tay Chúa không tái tạo những gì Chúa đã tác thành.

AUGUSTIN Ở ROMA

 

Đoạn VIII
Lý do trẩy đi Roma


14               Vậy Chúa đã hành động đối với con, để thuyết phục con đi Roma, dạy học ở đó hơn là ở Cartage.

Và cái gì đã quyết định cho con như vậy, con sẽ không quên xưng tụng cho sáng danh Chúa, bởi vì, trong việc này, chúng con phải tưởng niệm và cao rao những ý định nhiệm mầu rất cao siêu của Chúa và lòng từ bi hằng sẵn sàng cứu giúp của Chúa đối với chúng con.

Vậy con đã muốn đi Roma, không phải vì lương bổng nhiều hơn, và địa vị cao hơn,  như các bạn khuyên con việc đó đã hứa với con - cho dầu lúc đó các sự kiện này cũng mơn trớn lòng con - nhưng lý do chính yếu và hầu như duy nhất là vì con nghe biết ở đó thanh niên học hành nghiêm chỉnh hơn và được chế ngự dưới một kỷ luật khắt khe hơn, không để cho chúng trơ tráo úa vào lớp học không phải giáo sư của chúng, và giáo sư cũng không hề để cho chúng vào lớp, nếu không có phép của ông. Trái lại, ở Cartage, sự phóng túng của sinh viên thật là nhuốc nha và hỗn độn: Chúng trơ tráo xông vào lớp học và điên cuồng phá rối trật tự, mà mỗi giáo sư đã thiết lập để mưu lợi ích cho sinh viên. Chúng làm nhiều điều vô lễ, với một sự ngu ngốc lạ lùng và đáng bị pháp luật trừng trị, nếu không có thói quen che chở. Thói quen đó cho thấy rõ chúng khốn nạn dường nào. Vì chúng làm điều chúng cho là được phép, mà luật pháp đời đời của Chúa không hề cho phép. Chúng tưởng được làm mà không bị phạt, đang khi chính sự mù quáng xui chúng làm như vậy đã là một hình phạt, và đang khi chúng phải khốn khổ bội phần hơn là chúng làm cho người ta phải khổ.

Cho nên, những thói tục đó, khi còn là sinh viên, con đã không muốn chấp nhận; thì khi làm giáo sư, con phải chịu đựng nơi kẻ khác và vì thế con thích đi đến nơi, mà những người có kinh nghiệm cho biết là không có thói xấu như vậy. Thật ra, chính Chúa, ôi hy vọng và phần gia nghiệp của con trên đất sinh linh39, chính Chúa muốn cho con đổi chỗ ở vì phần rỗi linh hồn con, nên Chúa đã cho con cảm thấy mũi nhọn ở Cartage, để kéo con ra khỏi đó, và Chúa đã nêu ra cho con những hấp dẫn ở Roma, để lôi kéo con sang đó. Chúa đã làm việc ấy qua trung gian những kẻ yêu chuộng một đời sống dở chết: Ở chỗ này họ làm những điều cản dở, ở chỗ kia họ hứa cho con những của phù vân; và để sửa chữa nước bước40 của con, Chúa đã lợi dụng sự gian ác của họ và của con. Vì những kẻ xáo trộn sự yên tĩnh của con đều bị mù quáng bởi một sự điên rồ ô nhục, và những kẻ mời gọi con chấp nhận hoàn cảnh mới, chỉ nghĩ đến những sự dưới đất41; phần con, thì chán ghét sự khốn khổ có thực ở Cartage, lại ước ao một hạnh phúc giả tạo ở Roma.

 

Nỗi buồn của bà Monica


Nhưng lý do tại sao con bỏ Cartage và đi Roma, Chúa biết, lạy Chúa mà Chúa không chỉ cho con, cũng chẳng cho mẹ con biết? Người rất phàn nàn về việc con trẩy đi và đã theo con ra tới biển. Người bám sát lấy con, để giữ con lại, hoặc cùng trẩy đi với con. Nhưng con đã đánh lừa người, vin cớ là không muốn rời một người bạn đang chờ gió thuận để ra khơi. Con đã nói dối mẹ con, một người mẹ tốt lành như vậy! Và con đã đi thoát. Cả về tội này, lòng từ bi của Chúa cũng đã tha thứ cho con, gìn giữ con khỏi nước biển, đang khi con mắc đầy dẫy những nhơ nhớp gớm ghê, để đưa con tới nước ân sủng của Chúa và được thanh tẩy, hầu làm khô ráo những làn nước mắt của mẹ con, mà hằng ngày, vì con, người đổ ra tưới trên mặt đất trước mặt người để dâng lên Chúa.

Nhưng, người từ chối trở lại nhà, nếu không có con, nên con đã phải khó khăn lắm để thuyết phục người hãy canh thức đêm đó trong nhà nguyện kính thánh Cyprianô, ở gần tàu của chúng con. Nhưng chính đêm đó, con đã lén trẩy đi, còn người ở lại, cầu xin và khóc lóc.

Với ngần ấy nước mắt, người đã xin Chúa điều gì, lạy Chúa, nếu không phải là đừng để cho con vượt biển hay sao? Nhưng theo ý định cao siêu của Chúa, Chúa đã nhận điều cốt yếu trong lời nguyện của người, mà không đếm xỉa gì đến điều người xin hôm đó, để làm cho con đạt tới điều người cầu xin hằng ngày.

Gió thổi, buồm giương và rồi chúng con hết thấy bờ biển, nơi đây, sáng hôm sau, mẹ con phải buồn rầu đến phát điên, vì phàn nàn than thở đến điếc tai Chúa, mà Chúa chẳng màng chi. Vì Chúa đã lợi dụng sự quyến rũ đam mê để chất dứt các đam mê của con; còn sự luyến tiếc quá tình cảm của mẹ con phải lãnh nhận một trận đòn đau khổ đích đáng. Vì người muốn cho con luôn ở với người như kiểu các bà mẹ, mà còn mạnh hơn các bà mẹ khác bội phần; mà người không biết bao nhiêu vui sướng Chúa dành cho người, do sự vắng mặt của con? Người không biết thế, cho nên người khóc lóc và than van, và những khổ cực đó chứng tỏ người kế nghiệp Evà, rên rỉ tìm kiếm đứa con đã rên rỉ sinh ra42. Tuy nhiên, sau khi đã tố cáo tội lừa dối và gian ác của con, người lại tiếp tục cầu xin Chúa cho con và trở lại đời sống bình thường, còn con thì đi Roma.

 

Đoạn IX


16               Này đây, con được đón tiếp ở đó bằng một trận đòn bệnh hoạn phần xác, và con bắt đầu đi về âm phủ43, mang theo hết mọi tội lỗi, mà con đã phạm đến Chúa, đến mình con, và đến tha nhân; tội lỗi rất nhiều và thêm nặng cho cái xích tội tổ truyền, đã làm cho hết thảy chúng con phải chết trong Ađam44. Vì lúc đó, chưa một tội nào của con đã được Chúa thứ tha trong Đức Kitô. Và Chúa Kitô chưa dùng thánh giá của Người để xoá bỏ các mối hằn thù45 mà tội lỗi con đã gây ra giữa Chúa và con. Vì làm sao Người có thể xoá bỏ chúng được với cây thập giá của một hình nộm, theo như con tin lúc đó con coi cái chết phần xác của Chúa Kitô là giả tạo thế nào, thì cái chết của linh hồn con là có thật như vậy; và cái chết của thân xác Chúa là có thật thế nào, thì sự sống của linh hồn con là giả tạo như vậy: Vì con không tin điều đó.

Tuy nhiên, cơn sốt gia tăng, con sắp chết và hư đi. Nếu con ra đi lúc đó, con sẽ vào đâu, nếu không phải là vào lửa46, chịu những cực hình xứng đáng với các tội ác của con, theo đúng trật tự Chúa đã thiết lập, hay sao? Việc này, mẹ con không biết, nhưng dù vắng mặt, người vốn cầu nguyện cho con. Còn Chúa, Chúa hiện diện khắp nơi người ở, Chúa đã nghe lời người, và con ở đâu Chúa cũng thương xót con, cho con được lành mạnh hồn xác, trong khi tâm hồn phạm thánh chưa được lành.

Vì trong cơn nguy hiểm như vậy, con đã không ước ao phép thánh tẩy của Chúa. Khi còn bé, con tốt hơn nhiều, vì con đã kêu xin mẹ đạo đức của con cho con chịu phép thánh tẩy, như con đã nhắc đến và đã xưng tụng Chúa47. vậy con đã lớn lên trong tủi nhục và đã điên cuồng chế giễu các lời khuyên bảo của linh mục Chúa, là Đấng đã không để cho con, trong tình trạng đó, phải chết 2 lần48, là điều sẽ làm cho tâm hồn mẹ con bị một thương tích không khi nào khỏi được. vì con không biết kể sao cho xiết lòng người âu yếm con dường nào, và người lo lắng sinh con về phần hồn con gấp bội việc sinh con về phần xác!49

17               Cho nên con không biết người sẽ được chữa lành làm sao, nếu cái chết của con xảy ra trong tình trạng đó đâm vào lòng trìu mến của người? Và bằng ấy kinh nguyện, lắp đi lắp lại không ngừng, sẽ đi đâu? Hẳn là hướng về một mình Chúa mà thôi! Nhưng về phần Chúa, lẽ nào Chúa lại khinh chê tâm hồn tan nát khiêm cung50 của người mẹ goá trinh khiết và tiết độ, năng làm việc bố thí, vâng lời chịu luỵ các thánh của Chúa, không bỏ qua ngày nào không dâng của lễ trên bàn thờ Chúa, đều đều, mỗi ngày hai lượt, sáng và chiều, đến nhà thờ Chúa, không phải để nghe những chuyện nhảm nhí và những kể lể của bà già, mà để nghe lời Chúa và để Chúa nghe lời cầu xin của người? Lẽ nào Chúa khinh chê nước mắt của kẻ cầu xin Chúa, không phải cho được vàng, bạc, hay của gì chóng qua và hay hư nát, mà là phần rỗi linh hồn của con mình? Chính ơn Chúa đã tạo nên bà như vậy, lẽ nào Chúa lại khinh chê bà và từ chối không cứu giúp bà? Hẳn là không, lạy Chúa; mà trái lại, Chúa sẽ đáp ứng, sẽ nghe lời bà và sẽ hành động theo từng giai đoạn như Chúa đã ấn định trước. Con không dám có ý tưởng là Chúa lừa dối bà trong các thị kiến và các đáp từ, mà con đã nhắc lại - không phải tất cả - mà bà còn trung thành ghi nhớ trong lòng, và luôn luôn, trong khi cầu nguyện, bà dâng lên Chúa, như thể đã được Chúa thị thực rồi51. Vì lòng nhân từ Chúa tồn tại muôn đời52, bằng lời hứa, Chúa đã khứng trở nên kẻ mắc nợ của những người đã được Chúa tha hết nợ cho.

 

Đoạn X


Vậy Chúa đã chữa con khỏi bệnh đó; Chúa đã cứu vớt người con của nữ tì Chúa53, về phần xác trước đã, để rồi ban cho nó một ơn tế độ tốt hơn và chắc chắn hơn.

 

Augustin vốn liên lạc với bè Manès


Lúc đó ở Roma, con vốn liên lạc với các thánh giả hiệu và lừa dối; không phải chỉ nguyên với các thánh giả - một trong số đó đã cho con ở trọ, lúc lâm bệnh và khi được lành - mà với tất cả các kẻ được họ gọi là "tuyển chọn".

Vậy cho đến thời đó, con vốn tưởng rằng: Không phải chúng con phạm tội, một là con không biết cái bản tính ngoại lai nào phạm tội trong chúng con. Tính kiêu ngạo của con lấy làm thích thú vì ở ngoài sự tội, và, khi con làm điều gì xấu, thì lại không thú nhận là con đã làm, để Chúa chữa trị linh hồn con, vì đã phạm đến Chúa54, nhưng con lại thích chữa mình và tố cáo không biết cái gì khác, ở trong con, mà không phải là con. Tuy  nhiên, đó là con tất cả, và sự gian ác của con đã chia rẽ con làm hại con như vậy. Và đó là tội càng khó chữa, vì con không cho mình là tội nhân; sự gian ác ghê tởm của con là muốn cho Chúa, ôi Thiên Chúa toàn năng55, bị thất bại trong con, để con phải thiệt hại, hơn là muốn cho Chúa thắng thế con, để con được cứu rỗi!

Vậy lúc đó, Chúa chưa đặt vệ phòng bên miệng con và cho canh giữ ở cửa môi con, để con khỏi chiều theo những lời gian ác, hòng chữa mình, hùa theo những người tác quái. Vì thế, con hãy còn liên lạc với kẻ được tuyển chọn của họ56. Nhưng con bắt đầu thất vọng không thể tiến triển được gì trong giáo thuyết sai lầm đó, và bao lâu chưa tìm được cái gì tốt hơn, con đã quyết định tạm duy trì nó, nhưng một cách lơ là và lạnh nhạt.

 

Những cám dỗ hoài nghi


19               Trí con cũng nảy ra tư tưởng này là các triết gia, được gọi là nhà hàn lâm57, khôn hơn các triết gia khác, khi chủ trương rằng: Phải hoài nghi hết mọi sự và quả quyết rằng: Con người không thể biết được điều gì là chân thật. Vậy lúc đó con cho lý thuyết của họ là chính xác, hợp với dư luận quần chúng; đã hẳn, con chưa hiểu ý tứ của họ ra sao?

 

Tại sao Augustin chưa tuyệt giao với bè Manès?


Con cũng không xao lãng việc trấn áp lòng tín nhiệm quá đáng của chủ nhà con trọ đối với các chuyện hoang đường ghi chép dài dòng trong các sách của bè rối Manès. Tuy nhiên, con vốn tỏ tình thân thiện với họ, hơn là với những người khác, không thuộc bè phái đó. Con không còn bênh vực họ với sự hăng hái ngày xưa, nhưng sự thân thiện với họ - vì có một số lớn ẩn náu ở Roma - làm cho con lơ là tìm kiếm điều gì khác; nhất là lúc đó, con đã hết hy vọng tìm được chân lý trong Giáo Hội Chúa, lạy Chúa trời đất, Đấng tạo thành muôn vật, hữu hình và vô hình58, vâng, chân lý mà họ đã che khuất mắt con. Và con rất lấy làm xấu hổ không dám tin rằng: Chúa có hình dung xác thịt loài người, và cũng bị giới hạn về kích thước thể xác như các chi thể của chúng con. Vì lúc đó, khi con nghĩ tưởng đến Chúa con, thì con chỉ biết hình dung Người như một khối vật thể - vì con cho là không có gì hiện hữu mà không như vậy cả - đó là lý do chính yếu và hầu như duy nhất sinh ra sự sai lầm tất nhiên của con.

20               Vì thế, mà lúc đó, con cũng tin tưởng rằng: Có một bản thể sự ác như vậy, nó có khối lượng riêng, xấu xa và ghê tởm, hoặc dày đặc mà bè rối Manès gọi là đất; hoặc mỏng mảnh và tinh vi, như một khí thể: Mà họ tưởng tượng là thần dữ, len lỏi trong thế gian59. vì lòng đạo tuy còn sơ sài của con buộc con phải tin rằng: Thiên Chúa thiện hảo đã không dựng nên bản tính ác, nên con đặt hai khối đối lập nhau, cả hai đều là vô cùng, nhưng khối ác hẹp hòi hơn, khối thiện rộng lớn hơn. Và từ nguyên lý tai hại đó sinh ra các sự sai lầm phạm thánh khác của con.

Thật vậy, khi tâm hồn con muốn nại đến đức tin công giáo thì nó cảm thấy như bị đẩy lui, vì điều nó nghĩ tưởng không phải là đức tin công giáo. Con tưởng kẻ có lòng đạo hơn, thì phải tin là Chúa vô giới hạn trong mọi phần, lạy Chúa con, - Đấng mà con phải ca tụng lòng nhân từ đối với con - chỉ một phần làm cho Chúa đối lập với sự ác, thì con buộc lòng phải nhìn nhận là Chúa bị giới hạn; còn hơn là tưởng Chúa bị giới hạn trong mọi phần, theo hình dạng một thân thể loài người. Con cũng tưởng tốt hơn, thì phải tin là Chúa đã không dựng nên cái gì là ác - lúc đó, vì u mê, con tưởng sự ác chẳng những là một bản thể, mà còn là một vật thể, vì con nghĩ thần khí chỉ là một vật thể tinh vi, nhưng tràn lan trong không gian - còn hơn là tin rằng: Bản tính sự ác, như con tưởng tượng, bởi Chúa mà ra. Con cũng tưởng chính Đấng Cứu chuộc chúng con, là Con duy nhất của Chúa, đã phát xuất từ khối lượng sáng láng của Chúa, để cứu chúng con, và hết mọi sự con gán cho Người, đều phát xuất từ ảo tưởng của con. Cho nên, con nghĩ bản tính của Người như vậy không thể phát sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, mà không bị pha trộn với xác thịt. Nhưng pha trộn mà không bị ô nhiễm, là điều con không tưởng tượng được. cho nên con sợ tin Người nhập thể, thì sẽ bị bó buộc phải tin Người bị ô nhiễm bởi xác thịt chăng?

Ngày nay, những nhà đạo đức học của Chúa sẽ cười con, nhưng họ sẽ thông cảm và thương hại con, nếu họ đọc sách Tự Thuật của con; vì lúc đó con là như vậy.

 

Đoạn XI


21               Con lại thấy  những chỉ trích của bà Manès về Kinh Thánh của Chúa không thể nào bác bẻ được. nhưng có lần con cũng muốn đưa ra một vài điểm đặc biệt cho một người nào rất thông thạo về các sách đó, để xem họ nghĩ sao?
Vì những bài diễn từ và tranh luận công khai của ông Elpidius nào đó60 chống lại bè rối Manès, thời con còn ở Cartage, đã bắt đầu làm cho con lung lạc, khi ông nêu ra những câu Kinh Thánh không dễ chống lại được. và con thấy đáp từ của bè Manès thì yếu ớt. Vả chăng, họ lại không tuyên bố công khai, mà chỉ nói riêng với chúng con rằng: Bản văn Tân Ước đã bị sửa chữa, con không biết bởi những người nào muốn ghép luật Maisen vào đức tin Kitô giáo? Vả chăng, chính họ cũng chỉ đưa ra những bản văn đã bị sửa chữa61. Nhưng vì con chỉ biết nghĩ tưởng đến những khối vật thể, chúng đè nặng trên con đến chết nghẹn, và ngột ngạt dưới trọng lượng của chúng, con không còn được thở bầu khí trong suốt và thanh sạch của chân lý Chúa.
 
 

Đoạn XII


22               Vậy con sốt sắng quay vào công việc mà con đến Roma để thực hiện, tức là dạy tu từ. Trước hết con tụ tập tại nhà con ở một ít môn sinh, để chúng biết con và nhờ chúng, thiên hạ biết con.

Nhưng này, con được biết là ở Roma có những thói tục mà con đã không phải chịu ở Phi châu. Vì thật ra, người ta cho con biết là những cuộc phá phách quen thuộc của những thanh niên mất dạy không có ở đây. Nhưng trái lại, họ thêm rằng: "Để khỏi trả tiền giáo sư, nhiều sinh viên hùa nhau kéo đi thầy khác: Đó là bọn thất tín, quý tiền bạc hơn sự công bình".

Lúc đó, tâm hồn con cũng ghét tụi ấy, nhưng không là sự ghen ghét hoàn toàn62. vì lý do làm con ghét chúng có khi là sự thiệt hại mà chúng gây cho con, hơn là việc bất hợp pháp mà chúng gây cho kẻ khác.

Tuy nhiên, những thanh niên như vậy thật đáng xấu hổ, chúng thất tín với Chúa63, vì yêu chuộng của phù vân, là như trò chơi hay thay đổi của thời gian, và lợi lộc bùn lầy, làm dơ tay kẻ cầm phải nó; vì gắn bó với một thế giới chóng qua; vì khinh bỉ Chúa, là Đấng tồn tại, hằng kêu gọi và tha thứ cho linh hồn nhân loại ngoại tình, khi nó trở lại với Chúa. Bây giờ con vốn ghét những người hư đốn, quanh con như vậy, mặc dầu con yêu chúng để sửa chữa chúng, hầu chúng biết quý khoa học chúng theo đuổi hơn là tiền bạc, như quý chuộng Chúa hơn quý chuộng khoa học, Chúa là chân lý, là nguồn sự thiện hảo chắc chắn, và là sự bình yên rất thanh khiết. Nhưng lúc đó, con không muốn chịu cho chúng độc ác với con, hơn là muốn cho chúng trở nên tốt lành cho vinh danh Chúa.

GẶP THÁNH AMBROSIO Ở MILAN

 

Đoạn XII


23               Sau đó, từ Milan có đơn gởi tới quan tổng trấn Roma, xin liệu cho thành ấy có một giáo sư tu từ, với quyền được sử dụng tạm dịch của nhà vua trong việc di chuyển. Con đã xin việc đó, nhờ trung gian của chính những người say mê các chuyện hư ảo của bè Manès - con ra đi để thoát họ, mà cả hai bên chúng con không hay biết - Con đã đệ bài thi lên ông Symmaque, lúc đó là tổng trấn kinh thành, ông đã chấp thuận và cho con đi Milan64.

Con tới Milan, đến thăm Đức giám mục Ambrosiô, là một anh tài được cả thế giới biết và là tôi tớ hiếu hạnh của Chúa. Thời đó, với lòng nhiệt thành và tài hùng biện, người ban phát cho dân Chúa tinh hoa lúa mì và dầu hoan lạc65, và rượu làm say sưa điều độ66. nhưng Chúa đã đưa con tới người mà con không hay biết, để người đưa con tới Chúa, với tất cả sự hiểu biết của con.

Người của Thiên Chúa67 đã đối xử với con như một người cha và thương yêu con là một ngoại kiều như vị chủ chăn.

Con đã bắt đầu quý mến người, nhưng tiên vàn không như thầy dạy chân lý - mà con đã mất hết hy vọng tìm được trong Giáo Hội Chúa - nhưng như người hảo tâm đối với con. Con chăm chỉ nghe người dạy bảo dân chúng, tuy không đem hết ý tứ cần thiết, một như để dò xem tài hùng biện của người có hợp với thanh danh của người, hay là hơn, kém tiếng thiên hạ đồn thổi về người? Con chỉ chăm chú nghe lời giảng, mà không quan tâm đếm xỉa gì đến nội dung bài giảng. Con say mê giọng êm dịu của bài giảng, thông thái hơn bài giảng của Faustus, nhưng cách nói không được vui vẻ và hấp dẫn bằng Faustus. Còn về nội dung thì không so sánh được: Vì Faustus thì lầm lạc trong những sự giả dối của bè Manès, còn Ambrosiô thì dạy giáo lý rất lành mạnh về phần rỗi. Nhưng ơn cứu độ xa bọn tội nhân68 như con lúc đó. Tuy nhiên con đi tới từ từ, mà không hay biết.

 

Đoạn XIV


24               Nhưng vì con không cố gắng học những điều người dạy, mà chỉ nghe cách người nói - đó là lo âu hư ảo còn lại cho con, vì con đã hết hy vọng về một con đường mở ra cho con người đi tới Chúa - Tuy nhiên, cùng với các lời nói, mà con ưa thích, các điều mà con xao lãng, cũng đến với tâm trí con. Vì con không thể phân tách chúng ra được. đang khi con mở tâm hồn để đón nhận lời hùng biện của người, thì chân lý người giảng cũng từ từ vào theo.

Trước hết, con bắt đầu thấy rằng: Các điều người nói có thể bênh vực được, và con tưởng đức tin công giáo - mà xưa kia con cho là không thể chống lại được các công kích của bè Manès - thì lại được khẳng định một cách đàng hoàng, và điều đó, nhất là sau một lần, hai lần, nhiều lần được nghe người giải thích những đoạn tối nghĩa của Cựu Ước, mà cách giải thích theo nghĩa đen đã giết chết con69. vậy sau khi đã được nghe người giải thích nhiều đoạn Thánh Kinh, theo nghĩa thiêng liêng, con đã chê trách sự nản chí của con, đã làm cho con tưởng rằng: Không thể nào chống lại được những kẻ nguyền rủa và chế giễu Lề Luật và các Tiên Tri.

Tuy nhiên, con không cảm thấy bị bó buộc phải đi theo con đường công giáo, vì hẳn là công giáo có thể có những nhà biện hộ thông thái và lợi khẩu, có khả năng bác bỏ các dị nghị một cách dồi dào và hữu lý; và như vậy, cũng chẳng phải lên án phe phái con đang theo, vì các phe biện hộ ngang sức nhau. Cho nên con thấy Giáo Hội công giáo không phải là bại, mà cũng chưa có vẻ là thắng!

25               Vậy lúc đó, con rất chuyên cần tìm ra những chứng cớ chắc chắn để minh xác sự sai lầm của bè Manès. Giả như lúc đó trí khôn con nghĩ tưởng ra được một bản thể thiêng liêng, thì lập tức phá tan được các chuyện bịa đặt của họ và quét sạch khỏi tâm trí con: Nhưng con đã không có thể! Tuy nhiên, về các vật thể của thế giới hiện tại và về mọi yếu tố mà quan năng xác thịt cảm thức được, thì, vì suy xét và so sánh  nhiều, con cho quan niệm của đại đa số triết gia là rất có thể đúng.

Như vậy, đang khi hoài nghi hết mọi sự theo kiểu các nhà hàn lâm, như thiên hạ hiểu và phiêu lưu theo mọi chiều gió, con đã quyết định bỏ bè rối Manès, vì thấy rằng: Trong lúc nghi nan như vậy, con không còn phải ở lại trong một phe phái, mà con đã thấy không bằng một môn phái triết học. Nhưng các triết gia này không biết đến thánh danh cứu độ của Chúa Kitô, nên con nhất định từ chối không trao cho họ việc cứu chữa linh hồn bệnh hoạn của con.

Vậy con quyết định làm dự tòng trong Giáo Hội công giáo, Giáo Hội của cha mẹ con, trong thời gian cần thiết, cho đến khi có một ánh sáng chắc chắn nào tới, hướng dẫn cuộc hành trình của con.

Không có nhận xét nào: