Thủ Đức, 1/5/2018
Kính gửi: Rev Paul Huỳnh Chánh, Anh
quốc
Thưa cha,
Bài con viết về Lm. Phanxico TRƯƠNG
BỬU DIỆP, giáo xứ Tắc Sây (tỉnh Bạc liệu-VN) hồi năm 1995. Mãi đến năm 2010 mới
đến tay cha. Cha đã đọc và đưa lên ‘mạng’.
Trong bài ấy, con có
nói đến nạn ‘Thổ ruồng’ mà cha không biết là gì? Lúc ấy con không dám giải
thích cho cha hiểu vì sợ có sự ‘đụng chạm’. Nhưng năm nay, con đã 85 tuổi rồi,
nên không sợ gì nữa, Vã lại con xem đây là một câu chuyện thuộc về lịch sử đã
xẩy ra vào thời ấy.
Con muốn ghi lại cho
con cháu con biết sự việc mà gia đình họ ngoại chúng đã trải qua khi đó.
Lại nữa, nạn ‘Thổ
ruồng’ cũng là lý do chính mà ý Chúa muốn cho gia đình con được phúc có mặt vào
ngày Cha Diệp chịu chết thay cho giáo dân họ đạo Tắc Sậy của Người ngày
12/3/1946.
Maria Nguyễn Thị Kiệm,
Sinh 13/4/1933
Được cha Trương Bửu Diệp rửa tội ngày
3/5/1933
-------------------------------------------------
Những biến cố xảy ra vảo năm
1945-1946 cho gia đình chúng tôi.
Như dân vùng Bạc Liêu Cà Mau đều
biết: vào năm 1945-1946, trong thời gian quan đội Nhật nắm quyền ở Việt Nam, họ
bắt dân Pháp là tù binh, cả các chủ điền người Pháp cũng bị bắt, để lại những
tá điền người Miên (Campuchia), còn gọi là người Thổ, sống bơ vơ, vất vưởng.
Chính quyền Việt Minh gom những người Thổ này lại để tiêu diệt, vì có lẽ họ cho
là theo Pháp.
Cuộc thảm sát như thế này.
Một hôm vào buổi trưa, có người ở quận Giá Rai, chỗ gia đình tôi ở đem
giấy lệnh của ông Chủ Tịch gởi cho bà thân sinh, má tôi, xin bà cho gởi 80
người Thổ, tạm giam trong lẩm lúa của bà trong 2 ngày. Má tôi từ chối. Bà nói:
‘tại sao quanh đây có nhiều điền khác, ai cũng có lẩm lúa mà không gởi, lại gởi
cho tôi? Có phả vì thấy gia đình tôi ‘mẹ góa con côi’ nên chèn ép phải không?
(ba tôi mất lâu rồi).
Sau một hồi tranh luận, không khí
căng thẳng thì cò một người trong họ hang gia đình tôi xin má tôi nghĩ lại, nếu
không cho, sợ sau này có chuyện không hay…
Chuyện không hay là như vầy:
Có tin đồn tôi là Việt gian, vì má
tôi cho con học trường Pháp. Đó là trường các nữ tu ‘dòng Chúa Quan Phòng’, có
tên Pháp Providence ở tỉnh Sóc trăng, do các nữ tu Việt và Pháp cùng chung dạy
học sinh chúng tôi.
Tôi nghe kể, nếu bị ghép tội Việt
gian, thì án tử là cho đi ‘mò tôm’. Các tử tội bị trói hai tay sau lưng, lột
trần, cột từng chum mấy người vào một cây tre, thả xuống song. Các tử thi vớt
lên, từng đám tôm, tép bấu vào rỉa thịt xác chết. Vì vậy mới gọi là ‘mò tôm’.
Bây giờ tôi xin kể tiếp đoạn trên:
… lại them 1 hồi trang luận nữa, sau
cùng má tôi nói: ‘thời gian gởi 2 ngày thì không lâu, nhưng cũng phải cho họ ăn
uống, tôi không tiếc phần lương thực cho 80 người này, vì gạo thóc, cá mắm, gà
heo có sẵn, nhưng không có người phục vụ. Vậy xin cho tôi đánh trống, gọi tá
điền đến giúp. Thời gian đó, chính quyền Việt minh cấm đánh trống (loại trống
chầu lớn, tiếng vang xa, chỉ đánh khi có cướp mà thôi) để các điền lân cận đến
cứu giúp. Nghe vậy các ông Việt minh năn nỉ má tôi cho họ đi đến từng xóm nhà
tá điền để xin giúp đỡ.
Sau đó khoảng 2 giờ trưa, trời nắng
chói chang, tôi ngó ra ngoài xa, thấy một đoàn người Thổ rất đông, đi hang 4, ở
trần, tay bị thúc ké sau lưng, vì các ông Việt minh cầm sung, kèm 2 bên cho
những người Thổ này vào sân gạch (sân này khá rộng dành cho tá điền phơi lúa
cho thật khô trước khi ‘nhập lẩm’.
Các ông Việt minh bắt họ ngồi trên
gót chân với nền gạch nóng bổng. Thấy cảnh đáng thương này, tôi rất xúc động,
nó ám ảnh tôi suốt nhiều năm sau đó.
Hôm sau có 2 người phụ nữ Thổ (trong
đó có 1 người đang mang thai) đến xin gặp chồng. Các ông Việt minh cho vào và
nhốt lại luôn…
Tối hôm ấy, các ông Việt minh chọn 5
người trong số những người Thổ này ‘có phép gồng chém không đứt’ đem ra giết
phía xa, trong ranh giới đất chúng tôi, bỏ xác xuống ghe, định hôm sau đem
chôn. Sáng sớm kiểm lại còn 4 xác. Các ông Việt minh hoảng hốt đổ xo6r tìm
kiếm…
Mấy giờ sau, mới thấy người Thổ này
còn sống, trốn trong đám lúa ở cổ có những vết chém, máu đã đông lại. Đó là một
người còn trẻ, lực lưỡng. Người này xin chút nước uống vì mất nhiều máu mà các
ông Việt minh không cho, họ nói nếu cho uống ‘sẽ chém không đứt?? Họ chở người
Thổ này trong một chiếc xuồng, tay trói sau lưng, ở kênh rạch điền chúng tôi.
Tất cả tá điền lớn nhỏ đều đổ ra xem, tôi cũng ra xem, nhưng không dám đến gần,
chỉ núp sau lưng những người đứng trước. Thế là người Thổ này cũng không thoát
chết!!
Hôm sau nữa, tức là ngày Thứ Hai mà
ông Chủ Tịch xin gởi, các ông Việt minh định giết số người Thổ còn lại (kề cả 2
người phụ nữ, mà có một người đang mang thai).
Tới lúc ấy mà tôi mới biết là 5 người
đàn ông Thổ bị giết chết hồi hôm là giết trong đất điền gia đình tôi. Bà má tôi
rất nổi giận. Tôi chưa bao giờ thấy bà giận dữ đến thế. Mặt bà đỏ bừng, bà đứng
lên lớn tiếng bảo: ‘Mấy cái ông Việt minh, tôi nói thẳng cho ‘các người’ biết,
ra sao thì ra, các người muốn gán cho gia đình tôi ‘mẹ giá con côi’ này tội gì
cũng được, chết cách nào cũng được, nhưng tôi cấm các người không được làm đổ
máu trên đất tôi nữa.’ Nói xong bà đứng lên, bỏ đi vào trong.
Tôi rất khâm phục má tôi, một phụ nữ
can đảm, gan dạ mà hiếm người được như vậy.
Tiếc là tối hôm ấy, các ông Việt minh
đem tất cả những người Thổ còn lại, kể cả 2 người phụ nữ, mà 1 người đang mang
thai, vao đất giáp ranh điền chúng tôi để giết, chôn làm 2 mộ tập thể. Trong số
người bị giết, có 1 nguời mà gia đình tôi quen biết, rất hiền lành, đạo Phật,
được nhiều người mến mộ.
Tôi nghe kể lại, khi sắp đến phiên
ông bị giết, ông nói: ‘xin cho tôi 1 nhát dao cho ngọt, để tôi được êm ái ra
đi.’
Thật là kinh hoàng!!
Sau này khi phải chạy ‘Thổ ruồng’ (mà
tôi kể tiếp theo đây), tôi có đi ngang nơi ấy, Đó là 1 mô đất thất lè tè, rộng
bằng khoảng 2 căn nhà cách nhau lối mươi thước, cỏ mọc phủ lên trên!! Ôi đó là
nơi an nghỉ của 80 người khốn khổ như vậy sao??
Nạn Thổ ruồng.
Khi quân Đồng minh thả 2 trái bom
nguyên tử xuống Hiroshima và Nagazaki ở Nhật bản thì quân Nhật đầu hang, rúy
lui khỏi Việt Nam. Quân Pháp trở lại, và các điền chủ Pháp cũng trở về điền đất
của mình. Các tá điền người Thổ còn sống sót cũng trở lại với chủ điền Pháp.
Thế là một cuộc trả thù bắt đầu:
Cứ sáng sớm mặt trời vừa mọc thì các
người Thổ co thân nhân bị các ông Việt Minh sát hại lúc trước, họp lại từng
đoàn vài chục người, cầm dao mác, xà beng (loại dao nhọn cán dài có thể đâm từ
xa). Chúng ra đường hoặc vào các điền lân cận hễ gặp người Việt da vàng là hô
lên: ‘A Việt minh, cáp duồn’ (cáp duồn là chém), không kể nam nữ, lớn bé gì cả.
Vì vậy, dân ở vùng quê tôi, cứ sáng
sớm là lo cơm nước, rồi ngó mong ra đồng, xem có người chạy về hướng nào, thì
mình cũng chạy xuôi theo hướng đó. Đến chiều, khi thấy có đám người trở về nhà
thì cũng trở lại nhà mình, vì biết người Thổ trở về điền người Pháp rồi. Đến
ngày hôm sau thì cũng sống nơm nớp lo sợ như vậy.
Ngày đầu: Thổ vào nhà, má tôi, chị cảcó đứa
con nhỏ và anh rể không dám chạy ra đồng. Thổ vừa thấy ông anh rể, nó chụp đầu
anh và hô lớn: A! Việt minh, cáp duồn!. Đưa dao lên định chém, lúc ấy ông ngoại
tôi, còn khỏe biết nghề võ, ông gạt mạnh tay nó ra và la lớn: ‘Đừng làm bậy,
đây là cháu tao.’ Và ông anh rể được thoát hết trong gang tấc.
Ngày thứ hai: lần này chúng
tôi mệt lắm nên không chạy ra đồng nữa. Tôi ra sau vườn, trèo lên cây ổi định
hái trái ăn, bổng thấy 1 đám Thổ từ xa tiến đến. Hoảng hốt tôi báo động, thì em
tôi chạy ra trước, kế là chị ba tôi, sau cùng là bà vú. Bà vừa chạy vừa la:
‘tụi con chạy mau lên’ và bà dừng lại. Ngay lúc đó có mấy anh thanh niên tá
điền thấy chúng tôi chạy trên bờ đê, cầm dao mác chạy ra đón đường bọn Thổ.
Chúng nó dừng lại, có lẻ chứng sợ còn nhiều tá điền đến đông nữa. Nhờ vậy mà
mấy chị em tôi mới thoát được.
Ngày thứ ba: lần thứ ba này chúng tôi không còn
sức chạy nữa, lại them có mấy người vợ tá điền dắt con nhỏ đến nhà chúng tôi.
Đang ngồi chung phía sau nhà, thì Thổ vào. Trong đám Thổ, có đứa còn rất trẻ
cầm con dao sắt chuối, loại dao to bản dùng để sắt cây chuối cho heo
ăn. Nó đưa con dao ra và nói: ‘tụi bay coi nè, tao vừa chém 1 thằng
Việt minh. Máu còn dính đây’ và nó quơ con dao ra trước mặt chúng tôi, làm cho
chúng tôi co rùm người lại. Cả bọn Thổ đều cười rộ lên và chúng bỏ đi.
Lần này, má tôi quyết định đến xin
Cha Trương Bửu Diệp cho gia đình chúng tôi được tạm trú ở họ đạo Tắc Sậy của
cha. Nhờ vậy chúng tôi mới được phúc chung sống với cha ngày chót của đời cha.
Maria Nguyễn Thị Kiệm,
Sinh 13/4/1933
Được cha Trương Bửu Diệp rửa tội ngày 3/5/1933
-----------------------------------------------------------
Ngày cuối đời của linh mục chánh xứ Phanxicô Trương Bửu Diệp
Ngày cuối đời của linh mục chánh xứ Phanxicô Trương Bửu Diệp
Vào khoảng thời gian 45-46, sau khi
Nhật đảo chánh Tây và khi Nhật đầu hàng đồng minh bởi bom nguyên tử ở Hiroshima
và Nagasaki thì Tây trở lại nắm chính quyền, dân chúng miệt Cà Mau phải sống
trong sợ hãi vì nạn “Thổ ruồng”. Ai ở vùng đó mới biết sự kinh hoàng của nạn
“Thổ ruồng” ra sao? và cũng biết được lý do của nạn này.
Vì không thể ở trong điền của chúng tôi tại Cây Gừa nên gia đình chúng tôi phải di tản đến Tắc Sậy. Ở đó mấy hôm, tôi được biết cứ mỗi sáng, sau khi thánh lễ xong, cha sở Trương Bửu Diệp mặc áo dòng đen, tay cầm cuốn kinh, đi tới, lui, dọc theo lộ xe chạy để vừa đọc kinh vừa cho tốp người Miên trông thấy mà không dám vào nhiễu hại giáo dân trong xóm đạo. Khi thấy họ đi xa rồi, Cha mới vào nhà điểm tâm và làm việc hằng ngày.
Vì không thể ở trong điền của chúng tôi tại Cây Gừa nên gia đình chúng tôi phải di tản đến Tắc Sậy. Ở đó mấy hôm, tôi được biết cứ mỗi sáng, sau khi thánh lễ xong, cha sở Trương Bửu Diệp mặc áo dòng đen, tay cầm cuốn kinh, đi tới, lui, dọc theo lộ xe chạy để vừa đọc kinh vừa cho tốp người Miên trông thấy mà không dám vào nhiễu hại giáo dân trong xóm đạo. Khi thấy họ đi xa rồi, Cha mới vào nhà điểm tâm và làm việc hằng ngày.
Sau khi chúng tôi ở lại đây khoảng 10 ngày thì xảy ra “biến cố ngày 12 tháng 3 năm 1946”: Hôm đó, sau khi ăn sáng và phụ chị tôi dọn dẹp căn phòng của trường học xứ đạo mà cha sở cho gia đình chúng tôi tạm trú, thì bà thân sinh tôi kêu chúng tôi ra ngay sân nhà thờ để cùng với giáo dân tập họp tại đó. Thế là chúng tôi vội vả chạy ra không mang theo gì cả. Ở đó có một toán người mặc thường phục tay cầm súng, áp tải hai bên, ra lệnh cho mọi người tiến về phía Cây Gừa, đi theo đường ruộng chớ không đi theo đường lộ xe chạy.
Gia đình chúng tôi gần 10 người, trong đó có 2 người cậu họ không có đạo Thiên Chúa. Chúng tôi đi theo Cha sở Trương Bửu Diệp và một số đông người khác ở xóm Tắc Sậy, người Công giáo và người lương, tổng cộng khoảng trên 100 người.
Vì không quen đi guốc trên đường đất nẻ mùa khô tháng 3, em tôi và tôi trì trật đi lâu quá làm cho bà thân sinh tôi kêu chúng tôi bỏ guốc đi chân không cho mau. Tuy đau chân nhưng dễ đi hơn, chúng tôi cố gắng vừa đi vừa chạy cho kịp mọi người.
Đến Cây Gừa vào khoảng giữa trưa, họ gom chúng tôi vào sân nhà ông BẢY SỰ. Ở đó có sẵn một toán người nữa, đông hơn, cùng với mấy người Nhật mang gươm dài đang đứng chờ. Toán người ở sân bao quanh và chỉa xà beng mủi nhọn vào chúng tôi. Tôi còn nhớ buổi trưa sân gạch nóng quá nên em tôi và tôi cứ nhảy chân này sang chân kia cho đở nóng. Lúc ấy cha sở Trương Bửu Diệp đứng giữa chúng tôi, có lẽ vì ngài thấy nhóm người vũ trang chỉa súng và xà beng vào chúng tôi nên ngài kêu chúng tôi quỳ xuống để ban phép giải tội lòng lành và chúng tôi cũng đọc kinh ăn năn tội để dọn mình chết.
Một lúc sau, họ bảo chúng tôi vào lẫm lúa của ông BẢY SỰ, có Cha Trương Bửu Diệp cùng vào với mọi người. Trong lẫm có một lớp lúa hay trấu gì đó, tôi không nhớ rõ, và mọi người vây quanh cha sở. Từng nhóm gia đình ngồi đó bàn tán nho nhỏ, không ai hiểu tại sao mình bị bắt giam tại đây. Một vài đứa trẻ khóc vì khát. May thay có một vài người mẹ nhớ đem theo nước cho con mình và chị hai tôi xin nước đó cho đứa con nhỏ của chị uống. Cha sở Trương Bửu Diệp cũng dùng nước ấy để rửa tội cho vài người lương theo lời yêu cầu của họ, sau khi dạy họ biết mấy tín điều cần thiết trong trường hợp cấp bách này. Một số người Công giáo khác cũng đến xin Cha giải tội, nên tất cả mọi người dồn vào một góc, chừa chỗ giữa trống cho Cha ngồi tòa.
Sau đó có người mang thùng nước vào cho uống và cho biết ai không có đạo thì đi ra để giam vào chỗ khác cho rộng. Tức thì có nhiều người đứng lên đi ra, nên 2 cậu tôi là người lương cũng theo ra.
(Kể đến đây, tôi xin mở ngoặc để nói
về bà thân sinh của tôi một chút, với chủ ý là tôi muốn kể thật trung thực mọi
chi tiết sự việc xảy ra ngày hôm đó: Má tôi là một bà góa, năm đó được 43 tuổi,
học ít, chỉ biết đọc biết viết như phần đông dân vùng đó thời bấy giờ, nhưng
tôi rất thán phục má tôi vì tính tình cương quyết, can đảm, bình tĩnh, uốn xử
nhanh nhẹn trong hoàn cảnh khó khăn, khẩn cấp.
Lúc 2 cậu họ người lương của tôi đứng lên để đi ra, bà dặn mang dùm cái giỏ mây trao lại cho ông ngoại tôi và thưa với ông là khi nào ông nghe tin gia đình tôi chết hết rồi thì xin ông hãy xữ dụng tùy ý tất cả nữ trang, tiền bạc trong giỏ ấy. Nói tóm lại, đó là tất cả tài sản của gia đình chúng tôi. Lúc đi đường tôi không thấy bà cầm giỏ này, hỏi ra thì bà không muốn xách theo mình để tránh sự chú ý của những người quen biết, nhưng bà để cho một người cậu tôi xách hộ).
Tôi xin kể tiếp: Sau khi phân ra đạo ngoại, có người đến mời cha Trương Bửu Diệp ra ngoài. Lúc trở vào, Ngài có vẻ ưu tư nhưng không nói gì. Cha đến từng nhóm gia đình, nói vài lời, an ủi, khuyến khích. Khi đến bên gia đình tôi, Cha hỏi bà thân sinh tôi: “Cô họa đồ có sợ không?” (Cô họa đồ là danh từ mà Cha thường gọi bà thân sinh tôi). Và bà thân sinh tôi thưa với Cha là không sợ. Đó là câu nói sau cùng của Cha với gia đình tôi. Sau khi đi một vòng, hỏi han từng gia đình, cha trở lại, ngồi giữa giáo dân, lấy chuỗi ra lần hột. Như thường ngày, hôm ấy Cha cũng mặc chiếc áo bà ba vải trắng, quần vải đen. Cha ngồi giữa chúng tôi như vị chủ chăn ở giữa đàn chiên mình.
Khoảng 3 giờ chiều, có người vào mời Cha ra lần nữa. Cha ra lần này thì tôi không còn thấy Cha trở vào (có người nói Cha được mời ra 3 lần, nhưng tôi chỉ nhớ có 2). Khi Cha ra rồi thì có mấy người vũ trang bước vào. Một người trong bọn họ có vẽ là chỉ huy, ra lệnh cho các thanh niên, thiếu nữ từ 18 đến 25 tuổi, chưa có gia đình, phải đứng ra một bên, không tuân sẽ nặng tội. Từ từ có vài thanh niên thiếu nữ đứng lên. Chị 3 tôi năm ấy được 19 tuổi cũng muốn đứng lên nhưng bà thân sinh tôi ngăn lại, bảo cứ ngồi im và bà kêu Chị 2 tôi (chị có đứa con nhỏ mà tôi kể trên) đưa chiếc nhẫn cưới của chị cho Chị 3 tôi đeo. Chắc ý bà nghĩ đơn sơ là hễ đeo nhẫn thì kể như đã có gia đình rồi. Trong số các thiếu nữ có người biết Chị 3 tôi nên nhìn mãi Chị làm Chị sợ hãi không dám ngước lên. Khi một người trong bọn vũ trang đi quanh kiểm soát đến gần gia đình tôi, tôi sợ quá, nhưng bà thân sinh tôi vẫn điềm nhiên ngồi nhai trầu, vì bà đi đâu cũng không bao giờ quên giỏ trầu cả. Người lính ấy dừng lại, ngó chúng tôi một lúc, rồi không hiểu sao, y quay đi và tuyên bố: “Những thanh niên thiếu nữ này, chiều nay sẽ bị giết hết!” Câu nói ấy như một luồng điện, khiến mọi người nín thở, tái mặt nhìn nhau. Các thiếu nữ có người bật khóc và cha mẹ của những người này cũng khóc theo.
Tuyên bố án tử ấy xong, họ bỏ ra ngoài. Không khí chết chóc như bao trùm lấy chúng tôi. Một giáo dân cần tiểu tiện xin ra ngoài, lúc trở vào báo tin chung quanh lẫm lúa đã bị chất rơm khô rồi! tin này loan ra làm mọi người nhốn nháo. Anh rể tôi ẫm đứa con nhỏ đến bên vách lẫm, lấy tay gỏ thử ván vách và tôi nhận thấy ván còn rất chắc. Trong sự căng thẳng tột độ, chúng tôi lại ngồi chờ coi việc gì sẽ xảy ra, không còn ai nói chuyện với ai nữa. Bỗng cánh cửa lẫm hé mở, tôi thoáng thấy một người lính Nhật với cái gươm dài đeo ở thắt lưng ra dấu gì với người lính Việt và cả hai đều quay lưng đi. Họ vừa khuất thì Chị 2 tôi hốt hoảng nói với bà thân sinh tôi là chị sợ Cha Diệp đã chết rồi vì chị thấy người lính Nhật bị đứt tay và y liếm máu nơi tay y. Chị tôi nói nhỏ thôi nên chỉ có gia đình chúng tôi nghe, và tôi lại càng run hơn nữa.
Lại một thời gian nữa trôi qua, mặt
trời chắc sắp lặn vì bóng tối lan dần trong lẫm lúa. Một giáo dân ngồi gần cửa
ra vào, nghe bên ngoài vắng lặng nên hé cửa ra xem. Khi không thấy còn ai gác
nữa, báo cho mọi người biết. Thế là từng người lần lượt đi ra trong sự phập
phòng hoang mang. Chúng tôi cũng theo ra. Trời chập choạng tối mà chúng tôi
không biết phải về đâu? Về lại Tắc Sậy lấy đồ đạc? hay về lại trong điền chúng
tôi tại Cây Gừa? Sau cùng bà thân sinh tôi quyết định về nhà, nên chúng tôi đi
đến chỗ cầu đúc Cây Gừa, ngó sang bờ sông đối diện, mong có ghe xuồng quen cho
quá giang. Khi sang sông rồi chúng tôi tiếp tục đi bộ ven mé rạch dẫn về nhà,
cách đó hơn cây số. Chúng tôi nối tiếp nhau đi trên bờ đê, thân thể rã rời,
tinh thần nửa tỉnh nửa mê, không còn ai đủ sức nói gì nữa. Chúng tôi đi trong
cảm giác cô đơn, lạc lỏng...
Sáng hôm sau chúng tôi mới hay tin là Cha Trương Bửu Diệp đã bị giết, xác Ngài được an táng ở nhà thờ Khúc Tréo. Một đại tang đến với gia đình chúng tôi và với giáo dân họ đạo Tắc Sậy. Mãi đến sau này tôi mới biết lý do: cái chết của cha Trương Bửu Diệp là bởi sự đối nghịch giữa hai tôn giáo và Cha đã mặc cả để Cha chết thay cho toàn thể giáo dân họ đạo Tắc Sậy.
“Thật không có tình yêu nào lớn hơn
tình yêu của một chủ chiên chết thay cho đoàn chiên mình”
Người viết,
Nguyễn thị Kiệm
(được Cha Trương Bửu Diệp rửa tội
ngày 3/5/1933 tại Tắc Sậy)
--------------------------------
Sr Võ Thị Cảnh, dòng Tiểu Muội đang
làm việc tại London (2010)
cung cấp chứng từ này. Sr xác nhận:
Bà Kiệm là dì ruột của con, con gọi
là dì Bảy
‘Cô Họa Đồ’ trong bài là bà ngọai
con, nay đã từ trần.
Chị Hai là mẹ con, đã từ trần.
Anh rể là ba con, đã từ trần.
‘Đứa con nhỏ’ là con đầu lòng của ba
mẹ con, là anh của con.
‘Chị Ba’ người mà mẹ con trao cho
chiếc nhẫn để được xem là đã lập gia đình, là dì Ba con, sau này là nữ tu dòng
Vinh Sơn Phaolô, nay đã từ trần.
Như vậy là tất cả gia đình con đã
sống biến cố đó cùng với cha Diệp và đã thóat chết nhờ sự hy sinh của cha Diệp.
Lý do cái chết của cha Diệp, không ai
biết và ai là thủ phạm cũng không rõ.
Hiện bà Kiểm đang sống ở Thủ Đức.
Cha Paul Huỳnh
Chánh, UK biên tập theo thư viết tay của Bà Nguyễn Thị Kiệm gửi qua Sơ Cảnh.
(2010 và 2018.)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét