Tự Thuật 10-13

 TỰ THUẬT

(Phần III: Quyển 10-13)
(LES CONFESSIONS)
Saint Augustin
Dịch giả: Giám mục Micae Nguyễn Khắc Ngữ (Mỹ Sơn = Michel)
AMDA
--------------------------------
  • QUYỂN MƯỜI: MỘT GIAI ĐOẠN MỚI CỦA TỰ THUẬT -  AUGUTIN TÌM KIẾM CHÚA -  AUGUTIN MÔ TẢ TÂM TRẠNG TÂM LÝ KHI VIẾT TỰ THUẬT -  TÓM LƯỢC VÀ KẾT THÚC QUYỂN MƯỜI
  • QUYỂN MƯỜI MỘT: LẠI CẢM TẠ CHÚA -  CHÚ GIẢI CÂU 1 SÁCH KHỞI NGUYÊN
  • QUYỂN MƯỜI HAI: CHÚ GIẢI TIẾP CÂU 1 SÁCH KHỞI NGUYÊN - MẤY NGUYÊN TẮC VỀ PHƯƠNG PHÁP CHÚ GIẢI
  • QUYỂN MƯỜI BA: CÁCH DÙNG DỤ NGÔN - PHẨM CHẤT VIỆC TẠO DỰNG - KINH CUỐI CÙNG
-------------------------------

QUYỂN MƯỜI: MỘT GIAI ĐOẠN MỚI CỦA TỰ THUẬT

 

Biết Chúa là tất cả hy vọng của Augutin


I-1              Con sẽ biết Chúa, ôi, Đấng biết con; con sẽ biết Chúa như con đã được Chúa biết con . Hỡi nhân đức của linh hồn con, Chúa hãy vào trong nó và thích nghi hồn con với Chúa, để Chúa giữ lấy nó và chiếm hữu nó, không còn tì ố và nhăn nheo . Đó là hy vọng của con, cho nên con nói và con vui mừng trong hy vọng đó, khi được hưởng sự vui mừng lành mạnh . Còn các sự khác ở đời này, người ta càng khóc chúng nhiều, chúng càng đáng được khóc ít; và người ta càng khóc chúng ít, chúng càng đáng phải khóc nhiều, nhưng này Chúa yêu chân lý , vì kẻ thực hành chân lý thì đến cùng sự sáng . Con muốn thực hành chân lý trong lòng con, trước mặt Chúa, do việc xưng tụng của con và trước mặt nhiều nhân chứng, do bút tích của con.

 

Việc xưng tụng với Chúa rất có thế lực


II-2   Thật vậy, đối với Chúa, lạy Chúa, là Đấng thấu suốt lương tâm con người , thì còn có gì bí ẩn nơi con, dù con không muốn xưng tụng với Chúa? Thật ra, con có thể che giấu Chúa với con, chứ không che giấu được con với Chúa. vậy bây giờ, tiếng rên rỉ của con đã chứng tỏ con chán nản về con; mà Chúa là ánh sáng, là niềm vui, là tình yêu và là ước nguyện của con: Con xấu hổ về con và con chê bỏ con, để chọn lấy Chúa, và chỉ muốn làm đẹp lòng Chúa và làm đẹp lòng con vì Chúa mà thôi.

Vậy, lạy Chúa, Chúa đã rõ con là người thế nào. Và vì lợi ích gì con xưng tụng với Chúa, con đã nói. Vì con làm việc này không phải với những lời lẽ và tiếng nói của xác thịt, mà với những lời lẽ của linh hồn và tiếng kêu của tâm tư, mà tai Chúa biết. Khi con xấu, thì việc xưng tụng của con là chán nản về con; khi con tốt, thì việc xưng tụng của con là không gán sự đó cho con, vì Chúa giáng phúc cho người công chính, lạy Chúa , nhưng trước đó, Chúa đã công chính hoá nó, là tội nhân . Cho nên, lạy Chúa Trời con, việc xưng tụng của con trước mặt Chúa vừa là thầm lặng, vừa không thầm lặng. Thật vậy, tiếng con thinh lặng, mà lòng con kêu gào. Và con không nói điều chân thật nào cho người ta, mà trước đó Chúa chưa nghe biết nơi con; Chúa cũng không nghe biết nơi con điều gì, mà trước đó Chúa chưa nói cho con.

 

Chỉ xưng tụng với những người có bác ái


III-3 Vậy con có can gì với người ta, để họ nghe biết các điều con xưng tụng, như thể chính họ sẽ chữa lành các bệnh tật của con?  Vốn nòi giống tò mò, chỉ muốn biết đời sống của kẻ khác, mà lại lười biếng sửa chữa đời mình. Họ không muốn nghe Chúa để biết họ là ai, sao lại muốn nghe con, để biết con là gì? Và khi họ nghe con nói về con, thì làm sao họ biết được là con nói sự thật, vì ai biết được những sự ở trong người ta, nếu không phải là thần trí nhân loại ở trong kẻ ấy?  Còn nếu họ nghe Chúa nói về họ, thì họ không thể bảo được rằng: Chúa nói dối! Nhưng nghe Chúa nói về mình là gì, nếu không phải là tự biết mình, hay sao? Lại kẻ nào biết mình mà còn nói là "không biết", há chẳng phải là kẻ nói dối hay sao? Nhưng vì bác ái tin mọi sự , ít là giữa những kẻ nó kết hợp với nhau nên một; nên, lạy Chúa, con cũng xưng tụng với Chúa, để cho người khác nghe biết . Con không thể chứng minh cho họ là con xưng tụng các điều chân thật, nhưng các kẻ được bác ái mở tai, để nghe con, thì sẽ tin con.

 

Những kẻ đó có lợi

 

4                 Nhưng, lạy Chúa là thầy thuốc linh hồn con, xin cho con biết rõ ích lợi của việc con làm. Vì việc xưng tụng các tội cũ của con - mà Chúa đã tha, đã che phủ , để con được hạnh phúc trong Chúa, khi Chúa biến đổi linh hồn con, nhờ đức tin và bí tích của Chúa - sẽ thức tỉnh tâm hồn của những kẻ đọc và nghe, để họ khỏi ngủ mê trong thất vọng và nói rằng: "Tôi bất lực"; mà trái lại, sẽ kích thích họ yêu mến lòng từ bi của Chúa và sự êm dịu của ơn Chúa, là sức mạnh của kẻ yếu đuối , làm cho họ ý thức được sự yếu đuối của mình. Còn kẻ lành sẽ sung sướng được nghe biết những yếu đuối xưa của những kẻ đã được chữa lành; họ sung sướng không phải vì đó là những yếu đuối, mà là vì những yếu đuối đã có xưa, mà nay không còn nữa.

 

Họ muốn biết tâm trạng hiện thời của Augutin

Vậy có lợi ích gì, lạy Chúa, là Đấng hằng ngày lương tâm con xưng tụng, và nó dựa trên hy vọng vào lòng từ bi Chúa hơn là trên sự vô tội của mình. Vâng, con xin hỏi: Có lợi ích gì giục con xưng tụng trước tôn nhan Chúa, nơi các trang sách này, cho người ta biết, không phải về dĩ vãng mà về hiện trạng của lòng con? Lợi ích về xưng tụng dĩ vãng, con đã nhìn thấy và đã ghi nhận. Nhưng về hiện trạng của con, đang lúc con viết sách "Tự Thuật" này, thì có nhiều người muốn biết, trong đó có những kẻ quen biết con, có những kẻ không biết, họ đã trực tiếp nghe con, hay đã nghe nói về con, nhưng tai họ chưa được kề vào lòng con, là nơi con thật là con. Vậy họ muốn nghe con xưng tụng nội tạng của con, là nơi mắt họ, tai họ, tâm trí họ không lui tới được; nhưng, họ muốn nghe và sẵn sàng tin con, vì họ biết làm sao được? Chính bác ái là nguồn mạch sự tốt lành của họ, bảo họ là con không nói dối trong việc xưng tụng của con, và chính bác ái trong họ làm cho họ tin con.

 

Vì lợi ích gì?


IV-5 Nhưng vì lợi ích gì, họ muốn điều đó? Có phải là họ muốn cảm tạ Chúa với con, khi nghe biết rằng: Nhờ ơn Chúa, con đã được tới gần Chúa dường nào; và họ muốn cầu nguyện cho con, khi nghe biết rằng: Xác thịt nặng nề còn trì hoãn con biết mấy? Con sẽ tỏ mình cho các kẻ ấy. Vì, lạy Chúa Trời con, được nhiều người cảm tạ ơn Chúa về con, và được nhiều người cầu xin Chúa cho con15, đâu có phải là một lợi ích nhỏ? Chớ gì tâm hồn anh em con yêu mến nơi con điều mà Chúa dạy phải yêu mến; và phàn nàn với con, điều mà Chúa dạy phải phàn nàn.

Làm như vậy là kẻ có tinh thần huynh đệ, chứ không phải tinh thần ngoại lai, hay tinh thần của con cái tha phương, mồm miệng chúng chỉ ba hoa bá láp, tay hữu chúng là tay hữu gian ngoa16; còn kẻ có tinh thần huynh đệ thì khi tán thành con là vui mừng về con, mà khi phản đối con, là buồn rầu về con; cho nên thánh thành hay phải đối con, đều là yêu thương con. Con sẽ tỏ mình ra cho những kẻ ấy: Họ sẽ thoải mái khi thấy điều thiện nơi con và họ sẽ nghẹn ngào khi thấy điều ác nơi con. Nhưng điều thiện nơi con là công trình và là ơn huệ của Chúa; còn điều ác nơi con là do tội lỗi của con và đức công bình của Chúa. Họ hãy thoải mái về các điều thiện và hãy nghẹn ngào về các điều ác, và từ những tâm hồn huynh đệ như những lư hương, các bài tán tụng và các bài ai ca sẽ vang lên trước tôn nhan Chúa17.

Nhưng Chúa, lạy Chúa, Chúa ưa thích hương thơm của đền thánh Chúa, xin vì danh thánh Chúa, hãy thương xót con, theo lòng từ bi hải hà của Chúa, và vì Chúa không hề bỏ rơi công việc Chúa đã bắt đầu, xin Chúa hoàn thành những việc bất toàn của con18.

6                 Đó là lợi ích của việc xưng tụng, không phải về dĩ vãng, mà về tâm trạng hiện thời của con 19. Con muốn xưng tụng chẳng những trước nhan thánh Chúa, với niềm vui sướng nhiệm mầu, làm cho con run rẩy20, và với nỗi buồn rầu bí ẩn làm cho con hy vọng, mà còn xưng tụng vào lỗ tai con người, là những kẻ cùng chia niềm tin và sự vui mừng của con, và cùng chung số phận hay chết của con, họ là công dân với con và cũng là lữ khách trên đường với con, hoặc đi trước hay đi sau con, hoặc đồng hành với con. Họ là tôi tớ Chúa, là anh em con, mà Chúa muốn cho họ làm con cái Chúa và làm thầy con, lại truyền cho con phải phục vụ họ, nếu con muốn được sống với Chúa và sống bởi Chúa. Ngôi Lời Chúa đã truyền cho con điều ấy, nếu chỉ bằng lời nói mà thôi, thì con cho là nhẹ, nhưng Người còn lấy việc làm mà mở lối cho con21. Con cũng phục vụ họ bằng việc làm và bằng lời nói; con phục vụ họ dưới cánh tay Chúa22, vì rất nguy hiểm cho con, nếu linh hồn con không nấp dưới cánh tay Chúa và nếu sự yếu đuối của con không được Chúa biết cho. Con chỉ là một trẻ nhỏ, nhưng Cha con hằng sống và là Đấng bảo trợ thích đáng của con; chính Người là Đấng đã sinh ra con và bảo trợ con. Chính Chúa là tất cả sự lành của con, chính Chúa, Đấng toàn năng, Chúa ở với con, trước khi con ở với Chúa. Vậy con sẽ tỏ cho những kẻ, mà Chúa truyền cho con phải phục vụ, được biết không phải về dĩ vãng mà về tâm trạng hiện thời và lúc này của con; vả lại con cũng không tự xét đoán mình con23.

 

Cho được biết rõ mình Augutin tin cậy vào Chúa


V-7   Nhưng, lạy Chúa, Chúa xét đoán, vì mặc dầu không có ai trong nhân loại biết được những điều có trong con người, nếu không phải là thần trí nhân loại ở trong kẻ ấy24, tuy  nhiên có nhiều sự trong con người, mà thần trí nhân loại ở trong nó cũng không biết. Nhưng Chúa, lạy Chúa, Chúa biết hết mọi sự của nó, vì Chúa đã dựng nên nó. Phần con, mặc dầu trước mặt Chúa, con khinh chê con và coi mình con như tro bụi25, tuy nhiên có điều con biết được một ít về Chúa, mà con không biết được về con. Thật vậy, bây giờ chúng con xem thấy như một tấm gương, một cách lờ mờ, chưa phải là diện đối diện26; cho nên bao lâu con còn lữ hành xa Chúa27, thì con ở gần con hơn là ở gần Chúa. Tuy nhiên, con biết được Chúa là Đấng bất khả xâm phạm. Phần con, con không biết được những chước cám dỗ nào con có thể chống tả và những chước cám dỗ nào con không chống lại được. Có điều con hy vọng, là vì Chúa trung tín, Chúa không để cho con bị cám dỗ quá sức chịu đựng, nhưng với chước cám dỗ, Chúa trù liệu một lối thoát để chúng con có thể chịu đựng28.

Vậy con sẽ xưng tụng những gì con biết về con, con xưng tụng cả những gì con không biết về con nữa, vì điều con biết về con là nhờ Chúa soi cho con biết, và điều con không biết về con, con sẽ không biết cho đến khi những mù tối của con trở thành chính ngọ trước mặt Chúa29.

 

AUGUTIN TÌM KIẾM CHÚA

 

Ngài mến Chúa thật, nhưng là Chúa nào?

VI-8 Lạy Chúa, con có một cảm thức, không phải là nghi nan, mà là chắc chắn, rằng: Con mến Chúa. Chúa đã dùng lời Chúa mà đánh động lòng con, và con đã mến Chúa. Nhưng này, trời và đất và mọi sự chúng chứa đựng, ở khắp nơi, đều bảo con phải mến Chúa và không ngừng bảo ban mọi người, để họ không thể chữa mình được30. Nhưng đi xa hơn nhiều, Chúa sẽ thương xót kẻ Chúa đã xót thương31 và Chúa sẽ tỏ lòng từ bi với kẻ Chúa đã tỏ ra từ bi: Chẳng vậy, trời và đất cao rao lời ca tụng Chúa cho những người điếc.

Nhưng con yêu gì, khi con yêu Chúa? Không phải là vẻ đẹp của thân xác, không phải là duyên dáng chóng qua, không phải là sự huy hoàng của ánh sáng mà mắt con ưa thích, không phải là những âm thanh êm ái của các bài hát nhiều điệu bộ khác nhau, không phải là mùi êm dịu của hương hoa và thuốc thơm, không phải là manna và mật ong, không phải là những chi thể để xác thịt ôm ấp. Không, khi con yêu Chúa, không phải là con yêu các thứ đó. Tuy nhiên, khi yêu Chúa, con cũng yêu một ánh ánh, một âm thanh, một mùi thơm, một của ăn, và một sự ôm ấp: Đó là ánh sáng, âm thanh, mùi thơm, của ăn và sự ôm ấp của con người nội tâm trong con; tại nơi đây, có một ánh sáng chiếu soi linh hồn con, mà không bị không gian nào giới hạn; tại đây, có những âm điệu vang lên, mà không bị thời gian nào cướp lấy; tại nơi đây, có những mùi thơm xông toả, mà không bị luồng gió nào đánh tan; tại nơi đây, người ta thưởng thức một của ăn mà không tính ham mê nào làm suy giảm; tại nơi đây; có những ôm ấp mà không sự chán nản nào muốn thôi. Đó là những cái con yêu, khi con yêu Chúa.

 

Chúa không lẫn lộn với thiên nhiên


9                 Vậy, Chúa con yêu là gì? Con đã hỏi trái đất và nó đã thưa: Tôi không phải là Chúa của anh; và tất cả những gì sống trên trái đất đều thú nhận như vậy. Con đã hỏi biển cả và các vực sâu, và các động vật bò lan trong đó32, và chúng đã trả lời: "Chúng tôi không phải là Chúa của anh, anh hãy tìm bên trên chúng tôi". Con đã hỏi các luồng gió, thì cả bầu không khí với các dân cư của nó đã trả lời con: "Anaximenès lầm, tôi không phải là Chúa"33. Con đã hỏi trời, mặt trời, mặt trăng, các tinh tú, chúng đã trả lời con: "chúng tôi cũng không phải là Chúa, mà anh tìm kiếm". Và con đã nói với các sự vật ở chung quanh các cửa giác quan của con rằng: "Hãy nói cho tôi về Chúa tôi; vì các ngươi không phải là Chúa, các ngươi hãy nói cho tôi biết một chút về Người". Và chúng đã lớn tiếng kêu lên rằng: "Chính Người đã tạo dựng chúng tôi!"34 Do sự chiêm niệm, con đã hỏi chúng và sự tốt đẹp của chúng đã trả lời con.

Bấy giờ con quay về mình và hỏi mình con rằng: "Mi là ai?" Và con đã thưa: "Tôi là người". Và con được sử dụng xác và hồn, một ở bên ngoài, một ở bên trong. Trong hai yếu tố này, con phải tìm hỏi yếu tố nào về Chúa con, mà con đã nhờ thân xác để tìm miếm, từ trái đất cho đến bầu trời, nghĩa là những nơi con có thể phái tới tia sáng của mắt con, như những thông tín viên vậy? Nhưng yếu tố bề trong của con quý trọng hơn, vì tất cả các thông tín viên của thân xác con đều báo cáo cho nó, như cho vị chủ sự và thẩm phán về các đáp từ của bầu trời, của tái đất và của mọi sự vật trong đó, chúng đều thưa: "Chúng tôi không phải là Chúa", và "Chính Người đã tạo dựng chúng tôi". Con người bề trong đã biết các điều đó qua thừa tác vụ của con người bề ngoài; con là con người bề trong, con là linh hồn, con đã biết các điều đó qua các quan năng của thân xác con. Con đã hỏi toàn thể vũ trụ về Chúa con và nó đã trả lời cho con: "Không phải là tôi, mà là chính Người đã dựng nên tôi".

10               Đối với mọi người có giác quan lành mạnh, chớ thì vũ trụ không bày tỏ một vẻ đẹp như vậy sao? Vì lẽ nào nó không nói cho mọi người cùng một giọng điệu? Các con vật, lớn nhỏ, đều thấy vẻ đẹp đó, nhưng không thể tra vấn, vì nơi chúng không có lý trí để xét đoán được các báo cáo của giác quan. Nhưng con người có thể tra vấn, để "những gì nơi Thiên Chúa mà con mắt xác thịt không thể thấy, thì trí khôn nhìn ngắm được nơi công việc Người làm"35. Nhưng vì quá yêu các tạo vật, họ bị lệ thuộc vào chúng, và sự nô lệ này ngăn trở họ xét đoán. Chúng chỉ trả lời cho những kẻ tra vấn chúng và biết xét đoán. Đã hẳn, chúng không thay đổi lời nói của chúng, nghĩa là vẻ đẹp của chúng, khi có kẻ chỉ nhìn xem, có kẻ vừa nhìn xem vừa tra vấn; chúng không tỏ hiện dưới hình thức khác nhau, cho kẻ này, người nọ; nhưng đang khi tỏ hiện cùng một cách cho cả hai người, chúng thinh lặng với người này và nói năng với người nọ. Hay đúng hơn, chúng nói với hết mọi người, nhưng kẻ nào biết so sánh tiếng nói nhận được từ bên ngoài với chân lý hàm chứa bên trong, thì mới hiểu được chúng. Vì chân lý nói với con rằng: "Chúa của ngươi không phải là trời hay đất, hay một vật thể nào". Bản chất của chúng cũng nói như vậy. Ai nhìn xem một khối, đều thấy rõ: Thành phần nhỏ hơn toàn thể36. Hỡi linh hồn, ta bảo mi tốt hơn, vì mi làm cho khối thân xác của mi sống động bằng cách cung cấp sinh lực cho nó, đó là điều không một thân xác nào có thể làm được cho một thân xác khác. Còn Thiên Chúa của mi cũng là sự sống của sự sống mi vậy.

 

Cho được biết Chúa, phải vượt quá đời sống hữu cơ và cảm giác


VII-11        Vậy con yêu gì, khi con yêu Chúa con? Đấng ở trên chóp linh hồn con là ai vậy? Con sẽ nhờ linh hồn con mà lên tới Ngài. Phải, con sẽ vượt quá cái năng lực gắn bó con với thân xác và làm cho toàn thân được sống động. Năng lực đó không làm cho con tìm thấy Chúa con: Chẳng vậy, con ngựa, con lừa, không có trí khôn37, cùng tìm được Ngài, vì cùng một thứ năng lực đó làm cho thân xác chúng sống động.

Trong con còn có một nặng lực khác, chẳng những làm cho xác thịt con sống động, mà còn cảm thức được nữa. Đó là công trình của Chúa, Ngài không truyền cho mắt nghe, cho tai thấy; nhưng truyền cho cái kia để con dùng mà xem, cho cái này để con dùng mà nghe, và cho từng cơ năng khác như vậy, tuỳ theo địa vị và chức vụ riêng của chúng: Nhờ chúng, con thi hành những chức vụ khác biệt mà vốn giữ được sự hợp nhất của linh hồn mình. Con sẽ vượt quá cả năng lực này, là điều có chung với con ngựa, con lừa, vì thân xác chúng cũng có cảm giác.

 

Các toà nhà của ký ức


VIII-12      Vậy con vượt quá cả năng lực đó của bản tính con, để dần dần lên tới Đấng đã dựng nên con. Và này con đi tới những lãnh vực, những toà nhà mênh mông của ký ức: Đây là những kho tàng chứa đựng vô vàn vô số hình ảnh của các sự vật, do các giác quan khác nhau đem tới38. Tại đây cũng chứa tất cả những kết quả của suy tư chúng con, tuỳ như nó thêm hay bớt, hay thay đổi cách nào, những thực tại mà giác quan đã tiếp xúc được, và cả những gì đã được ký thác và lưu trữ, mà sự quên lãng chưa tiêu huỷ và chôn vùi.

Khi ở đây, con đòi hỏi bất cứ hình ảnh nào con muốn, và có thứ xuất hiện lập tức; có thứ phải tìm tòi lâu hơn, và như thể phải moi móc từ những nơi ẩn nấp bí mật; có thứ tuôn đến từng đống, và đang khi con đòi hỏi và tìm tòi cái khác, thì chúng nhảy ra trước mặt và như muốn nói: "Có lẽ là chúng tôi chẳng?"... Với bàn tay tâm hồn, con xua đuổi chúng khỏi lãnh vực trí nhớ của con, cho đến khi hình ảnh mà con muốn, thoát khỏi mây mù và nơi ẩn nấp, để trình diện trước mặt con. Có thứ xuất hiện nhất tề và theo một thứ tự hoàn hảo như con đòi hỏi; và khi nhường chỗ rồi, chúng đẹp vào một nơi, để rồi lại xuất hiện khi con muốn. Sự việc xảy ra đúng như vậy, khi con phải kể một việc thuộc lòng.

 

Ký ức do giác quan


13               Tại ký ức, mọi cảm giác được giữ gìn và xếp đặt theo loại riêng biệt, mỗi loại có cửa vào của mình, như ánh sáng và các màu sắc với hình ảnh thể sắc qua cửa con mắt; qua lỗ tai là các âm thanh; qua lỗ mũi là các mùi; qua cửa miệng là các vị; qua xúc giác ở khắp thân thể là những cảm giác cứng, mềm, nóng, lạnh, nhẵn nhụi hay xù xì, nặng hay nhẹ, ở ngoài hay ở trong thân xác. Trí nhớ đón nhận tất cả các cảm giác đó vào các toà nhà mênh mông của mình và trong những phòng ốc bí mật khôn tả, để ghi nhớ và, khi cần, để chỉnh đốn: Chúng được đưa vào đó qua những cửa riêng biệt của mình và được xếp đặt thứ tự. Nhưng không phải chính các thực tại đi vào đó, mà là hình ảnh của các thực tại, được giác quan cảm thức: Chúng ở đó sẵn sàng nghe theo sự nhắc nhở của suy tư.

Các hình ảnh đó được chế tạo làm sao, ai nói được? Chỉ biết được là giác quan nào đã chộp được chúng và tích tụ trong con. Cả trong lúc tối tăm và thinh lặng, nếu con muốn, con khêu gợi được trong trí nhớ những màu sắc khác nữa, như con muốn. Các âm thanh không tuốn đến và làm xáo trộn những hình ảnh do con mắt thu được và con đang xem xét. Các âm thanh cũng ở đó, nhưng chúng được xếp đặt ở nơi riêng biệt kín đáo của chúng. Khi con muốn khêu gợi chúng, là chúng đến liền, và con tha hồ hát, mặc dầu lưỡi con ở yên, họng con thinh lặng. Các hình ảnh về màu sắc cũng ở đó, mà không can thiệp hay cản trở, đang khi con xem xét một kho tàng khác do lỗi tai cung cấp. Như vậy, con tuỳ ý duyệt qua các ấn tượng do các giác quan khác đưa tới và chồng chất trong con. Con phân biệt mùi thơm hoa huệ và mùi thơm hoa đổng thảo (violette) mà không phải ngửi hoa nào cả; con ưa mật ong hơn rượu nấu, đồ nhẵn nhụi hơn gồ ghề, mà không phải nếm hay phải sờ gì cả, nhưng chỉ dùng trí nhớ mà thôi.

14               Con làm các việc đó trong nội tâm, trong các toà nhà mênh mông của trí nhớ con. Vì tại nơi đây con sử dụng trời và đất và biển, cùng mọi cảm giác mà con đã có thể nhận được của chúng, chỉ trừ những thứ con đã quên. Tại đây con cũng gặp gỡ chính mình con và nhớ lại con đã làm gì, khi nào, ở đâu và khi làm con đã cảm nghĩ như thế nào? Tại đây có tất cả những việc con nhớ được, hoặc do chính bản thân kinh nghiệm hoặc do tin tưởng của mình. Trừ kho tàng đó, con mượn những hình ảnh, lúc thứ này, khi thứ nọ, của các sự việc, hoặc do con cw1 kinh nghiệm, hoặc do tin vào kinh nghiệm của mình, chính con liên hệ chúng với quá khứ và cũng lấy đó mà hoạch định cho tương lai  những hoạt động, những biến cố, những hy vọng, và tất cả các sự ấy trở thành hiện tại cho con: "Con sẽ làm việc này, và việc kia nữa", con nói như vậy với con trong cái túi mênh mông của tâm hồn con, đầy dẫy những hình ảnh của biết bao nhiêu sự vật và những sự vật lớn lao, và con rút ra những kết luận mỗi lần một khác: "Ôi, chớ gì việc này việc nọ xảy đến! Chớ gì Thiên Chúa tránh cho chúng con điều này điều nọ!". Con nói như vậy với con, và khi con nói, thì xuất hiện hình ảnh của các điều con nói, từ cũng một kho tàng trí nhớ đó: Giả như không có chúng, thì con không nói được gì hết.

15               Lạy Chúa con, trí nhớ có một sức mạnh lớn lao, vâng, rất lớn! Đó là một lâu đài mênh mông, vô hạn. Ai đã đi tới thâm cung của nó? Và sức mạnh đó là của tâm hồn con, và thuộc về bản tính con, mà chính con không có một quan niệm toàn diện về con. Vậy tâm trí quá chật hẹp để chứa được mình, thì phần nó không chứa được sẽ ở đâu? Ở ngoài nó hay ở trong nó? Tại sao không chứa được? Điều đó làm cho con rất ngạc nhiên, con phải sửng sốt!

Có những người ngạc nhiên trước những ngọn núi cao, những làn sóng biển lớn, những khúc sông dài, những bãi quanh co của đại tây dương, những đường vòng của tinh tú, mà không để ý gì đến bản thân họ. Họ cũng chẳng ngạc nhiên khi thấy con nói đến tên các sự vật ấy, mà không xem thấy tận mắt, tuy nhiên con sẽ không nói đến chúng được, nếu con không trông thấy trong trí nhớ của con núi non, sóng biển, sông ngòi và tinh tú - mà con đã thấy -, và đại tây dương - mà con tin là có -, cũng mênh mông, to lớn như con thấy ở bên ngoài vậy. Nhưng khi mắt con nhìn xem chúng, con không thu hút chúng, và chính chúng cũng không ở trong con, nhưng là hình ảnh của chúng, và con biết mỗi một hình ảnh do giác quan nào của thân thể đã in vào trong con.

 

Ký ức do trí tuệ

I
X-16          Với khả năng mênh mông, trí nhớ con không chỉ chứa đựng những thực tại đó mà thôi. Tại đây, con có tất cả những điều con học được ở các khoa tự do, mà chưa quên, chúng như được cất giấu ở nơi nội tại, mà lại không phải là nơi; con mang trong mình không phải chỉ là hình ảnh đơn thuần, mà là chính các tri thức đó. Vì tất cả những gì con đã biết về văn chương, về nghệ thuật tranh luận, về bao nhiêu loại vấn đề, con không chỉ giữ trong trí nhớ hình ảnh của chúng và loại bỏ chính sự vật ở ngoài: Chúng không vang lên rồi qua đi, như một âm thanh, in vết tích vào tai người ta, làm cho người ta tưởng nó vang lên, khi nó không còn vang nữa; chúng không như mùi qua đi và biến vào trong khí, in vào khứu giác và chuyển hình của nó cho trí nhớ, mà chúng con kêu gợi lại khi nhớ ra; chúng không như một của ăn, hẳn là đã thôi có vị trong bao tử, nhưng như còn có vị trong trí nhớ; chúng không như một vật gì, mà người ta cảm thấy khi sở vào nó, và trí nhớ còn hình dung ra, khi nó đã xa chúng con rồi. Các thực tại đó không vào trí nhớ, mà chỉ có hình ảnh của chúng được ghi nhận một cách mau chóng lạ lùng, như được xếp đặt trong các ngăn nắp lạ lùng và được gợi ra nhờ một trí nhớ lạ lùng hơn nữa.

X-17          Nhưng khi con nghe nói có ba loại vấn đề, là sự vật đó có hay không, bản chất thế nào, tư cách làm sao? Thì con ghi nhận được hình ảnh các âm thanh làm nên các tiếng đó, con biết rằng: Các âm thanh đó trải qua không khí với tiếng động, rồi không còn nữa. Nhưng các thực tại mà các âm thanh đó ám chỉ, con không nhận được qua một giác quan thân xác nào, con cũng không nhìn thấy ở đâu ngoài tâm trí con. Và con ghi vào trí nhớ con, không phải là hình ảnh của các thực tại đó, mà là chính chúng.

Chúng qua đâu mà vào trong con? Chúng hãy nói lên, nếu chúng có thể. Vì con rảo qua các cửa của thân xác con, mà không tìm được cửa nào chúng đã qua. Thật vậy, mắt nói: "Nếu chúng có màu sắc, thì do chúng tôi chuyển đạt". Tai nói: "Nếu là âm thanh, thì chúng tôi đã báo cho biết". Mũi nói: "Nếu chúng có mùi, thì chúng đã qua chúng tôi". Vị giác cũng nói: "Nếu không có vị gì thì đừng hỏi tôi". Xúc giác nói: "Nếu chúng không không là vật thể, thì tôi đã không sờ đến, và nếu đã không sờ đến, thì tôi đã không báo".

Vậy chúng đã qua đâu mà vào trí nhớ của con? Con không biết. Vì khi con học biết chúng, con đã không đón nhận chúng vì tin tưởng vào tha nhân, nhưng đã nhận ra chúng ở trong lòng con, đã công nhận chúng là đúng39 và đã ký thác cho trí nhớ con như cho một kho tàng, để khi nào muốn, con lại lôi chúng ra. Vậy, chúng đã ở đó trước khi con học biết chúng. Nhưng chúng chưa ở trong ký ức. Vậy chúng ở đâu và tại sao, khi người ta trình bày chúng con con, thì con nhận ra và nói: "Phải rồi, đúng thế!". Đó chẳng phải là chúng đã ở trong ký ức con, nhưng như bị cất giấu, chôn vùi ở những nơi kín đáo, đến nỗi nếu không có thầy nào moi móc ra, thì có lẽ con không thể nào nghĩ đến chúng.

XI-18         Như vậy, chúng con thấy rằng: học biết các tri thức loại đó - mà chúng con không nhờ trung gian của giác quan để thu lượm hình ảnh và không nhờ hình ảnh, chúng con nhìn thấy điều đó trong chính thực tại của chúng - thì học biết chẳng qua là như dùng tư tưởng mà thu thập những điều được chứa đựng rải rác và lộn xộn trong ký ức; và dùng ý tứ lo liệu cho chúng được luôn sẵn sàng túc trực (ở dưới tay mình) trong ký ức - mà trước đây chúng ẩn náu lộn xộn và bị quên lãng - và dễ dàng trình diện với trí khôn chúng con, thoạt khi nó để ý đến, như đã quen.

Ký ức của con chứa đựng nhiều tri thức loại đó, những tri thức đã có sẵn sàng, và, như con nói, ở tình trạng túc trực, đó là những điều chúng con gọi là đã học, đã biết. Nếu con thôi nhắc nhở đến chúng, dù trong một thời gian ngắn, chúng lại chìm đắm và như bị phân tán trong những nơi rất bí ẩn; lúc đó tư tưởng lại phải tìm lại chúng như mới vậy; lại một lần nữa, phải kéo chúng ra khỏi nơi cũ - vì không có nơi nào khác cho chúng - và tụ tập chúng lại (cogenda), để nhận biết chúng; chúng ở rải rác, phải tụ tập (colligenda) chúng lại. Bởi đó có tiếng "cogitare", vì cogo liên lệ với cogito, cũng như ago với agito, facio với facito vậy. Nhưng trí khôn đòi tiếng (cogito) đó để dùng riêng cho mình; cho nên cái gì được tụ tập (colligitur), nghĩa là được tập hợp (cogitur) trong trí khôn, thì được gọi cách riêng là suy nghĩ (cogitare).

XII-19        Trí nhớ cũng chứa đựng các trần thuyết và nhiều luật lệ về tính toán và đo lường, mà giác quan thân xác không in một dấu vết gì trong chúng con, vì các tri thức đó không có màu sắc, âm thanh, mùi, vị, hoặc sợ thấy được. Khi người ta trình bày về các sự đó, thì con nghe thấy âm thanh của những tiếng ám chỉ chúng, nhưng tiếng nói thì khác, sự vật thì khác. Các tiếng nói có âm thanh khác nhau, tuỳ là tiếng Hy Lạp hay tiếng Latin, còn các tri thức đó không phải là Hy Lạp hay Latin, chúng không thuộc về một loại ngôn ngữ riêng biệt nào. Con đã thấy những đường chỉ của người chuyên môn rất tinh vi, như một sợi màng nhện. Nhưng những đường chỉ "số học" thì khác, chúng không phải là hình ảnh của những đường chỉ mà mắt thân xác cho con biết. Kẻ biết chúng là nhận ra chúng ở trong mình, mà không phải liên tưởng đến một vật thể nào khác. Các giác quan thể xác cho con biết các con số mà con đếm; nhưng các con số mà con dùng để đếm thì khác, chúng không phải là hình ảnh của các con số trên, và vì vậy chúng là những thực tại trừu tượng40. Con nói như vậy, kẻ nào không trông thấy các con số đó, thì cười con. Nhưng con phàn nàn về cái cười của họ.

 

Ký ức về hồi cố


XIII-20      Nhờ ký ức con nhớ được tất cả các kiến thức đó, và con cũng nhớ đã học biết chúng thế nào. Con cũng đã nghe biết nhiều bác luận sai lầm chống lại các điều đó; con nhớ cả các bác luận đó dù là sai lầm, nhưng việc con nhớ chúng là điều không sai. Việc con đã phân biệt giữa các sự thật đó và các bác luận sai lầm chống lại chúng, con nhớ cả; và bây giờ con thấy là có hai việc khác nhau: Một đàng là con phân biệt các sự ấy, đàng khác con nhớ là đã nhiều lần con phân biệt, cũng như đã nhiều lần con nghĩ đến chúng. Như vậy, con nhớ là nhiều lần con đã hiểu biết điều đó; và việc bây giờ con phân tách chúng và hiểu biết chúng, con ghi vào ký ức, để về sau nhớ ra và lúc này con đã hiểu biết chúng: Cho nên con nhớ mình đã nhớ, cũng như sau này nếu con nhớ là lúc này con đã có thể nhớ các điều ấy, thì hẳn là nhờ sức mạnh của ký ức, mà con sẽ nhớ ra.

 

Ký ức về tình cảm và đam mê


XIV-21      Ký ức cũng chứa đựng các mối cảm động của linh hồn, nhưng không giống như chính lúc linh hồn cảm thấy, mà một cách rất khác, đáp ứng với bản chất của ký ức.

Con nhớ đã được vui vẻ, mà hiện giờ con không vui; con nhớ đã buồn chán, mà hiện giờ con không buồn; con nhớ đã có lúc sợ hãi, mà hiện giờ con không sợ hãi; con nhớ đã ham muốn, mà hiện giờ con không ham. Ngược lại, con vui mừng nhớ lại nỗi buồn quá khứ và buồn rầu nhớ lại nỗi vui quá khứ.

Điều đó không lạ gì, nếu là những xúc động thuần tuý vật lý: Vì tâm hồn khác, thể xác khác. Cho nên, nếu con vui mừng nhớ lại nỗi đau thương quá khứ của thân xác, thì không lạ cho lắm. Nhưng thực ra, ký ức tức là tâm trí, và khi trao sứ mạng gì cho ai để ghi  nhớ, chúng con bảo họ: "Hãy cẩn thận, ghi lòng tạc dạ". Và khi quên lãng, chúng con nói: "Tôi thật vô tâm đãng trí...; điều đó đã thoát khỏi tâm trí tôi". Cho nên, chúng con gọi ký ức là trí nhớ.

Như vậy, thì tại sao, khi con vui mừng nhớ lại nỗi buồn quá khứ, thì tâm trí con vui mừng, mà ký ức con buồn bã? Nếu tâm trí con vui là vì có sự vui trong nó; còn ký ức con, vì có sự buồn trong đó, thì sao nó không buồn được? Hay là nó không lệ thuộc vào tâm trí? Ai dám quả quyết điều đó?

Vậy có lẽ ký ức như bao tử của tâm trí, còn vui mừng và buồn bã là như của ăn ngon lành hay cay đắng: Khi các cảm giác đó được trao cho ký ức, chúng như được chuyển vào bao tử, chúng có thể ở lại đó mà không thể có mùi vị gì.

Muốn tìm ra một sự giống nhau giữa các sự vật đó thật là tức cười, tuy nhiên, chúng không hoàn toàn khác biệt nhau.

22               Thì đây, từ ký ức con rút ra xác định và quả quyết rằng: Tâm trí có bốn đam mê: Ham vụng, vui mừng, sợ hãi, buồn rầu. Con có thể thảo luận điều gì về chúng, khi nhân cha mỗi đam mê thành từng thứ đáp ứng với mỗi loại của chúng, và khi định nghĩa chúng, con đều tìm được ở ký ức và rút ra tất cả các điều con phải nói về chúng. Tuy nhiên, con không cảm thấy một xúc động nào, khi nhờ sự hồi cố, con khêu gợi chúng. Trước khi con nhớ ra chúng để thảo luận, chúng đã có ở đó, cho nên con mới có thể nhờ hồi cố mà kéo chúng ra.

Vậy, như khi nhai, thì của ăn từ bao tử trở lên miệng thế nào, thì nhờ việc hồi cố các cảm giác đó từ đáy ký ức trở ra. Vậy tại sao sự ngon ngọt của vui mừng hay sự đắng cay của buồn chán lại không được người thảo luận hay người hồi cố cảm thấy ở miệng tâm trí của họ? Hay đó là điểm khác biệt, vì hai việc không hoàn toàn giống nhau? Vì ai lại muốn nói đến các điều đó, nếu mỗi lần nhắc đến tiếng buồn bã hay sợ hãi, đều bị bó buộc phải cảm thấy những tâm tình thích hợp? Tuy nhiên, chúng con sẽ không nói về các sự ấy, nếu chúng con không tìm được trong ký ức chúng con, không những âm thanh của các tiếng nói, theo như hình ảnh mà giác quan đã in vào chúng con, mà chính ý niệm của các tâm tình được ám chỉ. Các ý niệm đó, chúng con không nhận được qua một cửa giác quan thân xác nào; nhưng là chính tâm trí, qua các kinh nghiệm về các đam mê của mình, đã cảm thấy và đã trao cho ký ức, hoặc chính ký ức đã ghi  nhận, mặc dầu không được trao cho.

XV-23       Nhưng điều đó được biểu lộ nhờ hình ảnh hay không? Khó mà quả quyết được!

Khi con nói tiếng "hòn đá, mặt trời" mà chính các sự vật đó không hiện diện trước giác quan của con, thì hẳn là hình ảnh của chúng đã có sẵn trong ký ức con. Khi con nói đến đau khổ phần xác, thì đau khổ cũng không hiện diện với con, vì con không đau khổ. Tuy nhiên, nếu hình ảnh của đau khổ không có sẵn trong ký ức con, thì rõ là con không biết con nói gì, và trong cuộc thảo luận, con cũng không biết phân biệt đau khổ với vui mừng. Con nói tiếng sức khoẻ, khi chính mình con đang khoẻ mạnh, thì tình trạng đó đang hiện diện với con thật; tuy nhiên, nếu con không có hình ảnh về sức khoẻ trong ký ức con, thì con sẽ không nhớ ra được tiếng sức khoẻ có ý nghĩa gì? Các bệnh nhân, khi nghe nói đến sức khoẻ, sẽ không nhận ra được người ta nói gì, nếu ký ức của họ không giữ được hình ảnh về sức khoẻ, mặc dầu lúc đó họ không có sức khoẻ.

Con kêu các con số mà con dùng để đếm, thì lập tức có chúng, mà là chính chúng. Con kêu hình ảnh mặt trời, thì nó hiện diện trong ký ức con, vì con nhớ ra không phải là hình ảnh mặt trời, mà là chính hình ảnh của no: Chính nó hiện diện khi con kêu gọi. Con kêu ký ức và con nhận biết con kêu cái gì. Và con nhận biết được nó ở đâu, nếu không phải trong chính ký ức? Vậy có phải ký ức hiện diện với mình do hình ảnh của nó, chứ không phải do chính mình nó, không?

 

Ký ức về quên lãng


XVI-24      Nhưng sao? Khi con nói quên lãng và, cũng thế, con nhận biết con nói gì, thì bởi đâu mà con nhận biết được, nếu không phải bởi con nhớ ra? Con không nói về âm thanh của tiếng quên lãng, mà về chính sự vật mà tiếng đó ám chỉ; nếu con quên sự vật đó, thì con không thể nào nhận ra được tiếng đó ám chỉ cái gì. Cho nên, khi con nhớ đến ký ức, thì chính nó hiện diện với mình nó; còn khi con nhớ đến quên lãng, thì ký ức và quên lãng cùng hiện diện với con: Ký ức, vì nhờ nó mà con nhớ ra; quên lãng, là điều con nhớ ra. Nhưng quên lãng là gì, nếu không phải là thiếu ký ức? Vậy làm sao nó hiện diện được, để con nhớ nó, và khi nó hiện diện, thì con không thể nhớ nó được? Tuy nhiên, chúng con nhờ ký ức mà ghi giữ những điều chúng con nhớ ra; còn về quên lãng, nếu chúng con không nhớ ra, thì không thể nào nhận ra được nó, khi nghe nói đến tiếng ám chỉ nó: Cho nên, ký ức ghi giữ sự quên lãng. Vậy nó hiện diện để chúng con khỏi quên, nhưng khi nó hiện diện, chúng con lại quên.

Như vậy, có được kết luận rằng: Không phải chính sự quên lãng, mà là hình ảnh của nó, ở trong ký ức, khi chúng con nhớ đến nó, vì nếu chính sự quên lãng hiện diện ở đó, thì nó không làm cho chúng con nhớ nó, mà là quên nó đi, hay sao?41 Ai giải thích được sự ấy? Ai hiểu được làm sao?

25               Phần con, lạy Chúa, con vất vả về vấn đề này, và con vất vả về chính mình con: Con trở nên cho con một đám đất đòi hỏi rất nhiều khó nhọc và mồ hôi. Vì lúc này chúng con không thám cứu các phương trời, hoặc đo lường khoảng cách của tinh tú, hay tìm ra các định lý quân bình của trái đất; mà là chính con, là kẻ nhớ, chính con, tức là tâm hồn con. Những gì không phải là con mà là xa lạ với con thì không lạ gì? Nhưng còn gì gần gũi với con hơn chính mình con? Thế mà con không hiểu được bản chất của ký ức con, khi mà không có nó, con không thể nào xưng danh con được. vậy con phải nói sao, khi con chắc chắn là con nhớ ra không ở trong ký ức con? Hoặc con sẽ nói là sự quên lãng ở trong ký ức con, là để con khỏi quên? Cả hai giả định đều phi lý mọi đàng!

Còn giả thuyết thứ ba thì sao? Làm sao con nói: Ký ức duy trì hình ảnh sự quên lãng, chứ không phải chính sự quên lãng, khi con nhớ đến nó? Vậy, làm sao con nói như vậy được, vì khi hình ảnh một sự vật nào được in vào ký ức, thì trước hết sự vật đó phải hiện diện, thì mới có thể in hình ảnh nó được? Vì thế mà con nhớ đến Cartagô, đến các nơi con đã ở, đến diện mạo của những người con đã gặp, và tất cả những gì mà giác quan đã báo cho con biết; cũng thế, về sức khoẻ hay sự đau yếu phần xác: Khi các sự vật ấy hiện diện, thì ký ức con đã thu nhận hình ảnh của chúng, cho phép chúng con nhìn thấy chúng như hiện tại và tái diễn chúng trong tâm trí mỗi khi con nhớ lại chúng, mặc dầu sự vật không còn nữa.

Vậy nếu sự quên lãng được duy trì trong ký ức, nhờ hình ảnh của nó, chứ không phải chính nó, thì chính nó phải hiện diện trước để in hình ảnh của nó và ký ức. Nhưng, nếu quên lãng hiện diện, thì làm sao nó in được hình ảnh nó vào ký ức, vì do sự hiện diện của nó, quên lãng huỷ diệt tất cả những gì đã được in mà nó gặp thấy? Tuy nhiên, dù sao chăng nữa, dù là điều khó hiểu và nan giải, con cũng chắc chắn là con nhớ được chính sự quên lãng, thứ tiêu huỷ mọi hồi cố.

 

Năng lực phi thường của ký ức


XVII-26     Năng lực của ký ức lớn thay! Khả năng sâu xa và vô tận của nó, con cho là một cái gì kinh khủng, lạy Chúa con, và đó chính là tâm trí con, đó là chính mình con. Vậy con là gì, lạy Chúa? Bản tính con thế nào? Là một cuộc đời hay thay đổi, thiên hình vạn trạng, bao la vô cùng!

Thì đây, trong ký ức của con, có vô số công trường, hang hốc, hầm hố, chứa chất vô vàn loại sự vật, hoặc do hình ảnh, như mọi vật thể; hoặc do chính thực tại, như các khoa học; hoặc con không biết do các quan niệm hay ký hiệu nào, như các tâm tình - mà ký ức duy trì khi tâm trí không còn cảm thức nữa, mặc dầu không có gì ở trong ký ức mà không ở trong tâm trí - con rảo qua các lãnh vực đó, con hay nhảy bên này bên nọ, con hết sức đi sâu mãi vào mà không thấy giới hạn nào cả. Năng lực của ký ức thật quá lớn, năng lực quá lớn của đời sống trong một con người sống như chết dở!

 

Phải vượt quá ký ức để tìm thấy Thiên Chúa


Vậy con phải làm gì, lạy Chúa, là sự sống đích thực của con? Con sẽ vượt quá năng lực của con, mà người ta gọi là ký ức; con sẽ vượt quá nó, để đi tới Chúa, ôi, ánh sáng êm dịu! Chúa bảo con làm sao? Thì đây, con sẽ nhờ linh hồn con mà đi lên tới Chúa, Đấng ngự ở bên trên con; con cũng sẽ vượt quá năng lực này của con, được mệnh danh là ký ức, vì con muốn đi tới Chúa, qua nơi có thể tới Chúa, và kết hợp với Chúa bằng cách có thể kết hợp được. về ký ức thì các thú vật và chim trời cũng có, chẳng vậy, chúng không tìm ra được nơi ở và tổ ấm của chúng và nhiều sự khác chúng đã quen thuộc; và chúng không thể quen thuộc được sự gì, nếu không nhờ vào ký ức. Vậy con cũng sẽ vượt quá ký ức để đi tới Đấng đã phân tách con khỏi thú vật và đã cho con khôn ngoan hơn chim trời. Con sẽ vượt quá cả ký ức, để gặp được Chúa ở đâu, lạy Chúa, là Đấng tốt lành, chân thật và là sự êm dịu chắc chắn, để gặp được Chúa ở đâu? Nếu con gặp được Chúa ở ngoài ký ức con, là dấu con đã quên Chúa, thì làm sao con gặp được Chúa42?

Theo chiều hướng nào, ký ức là một điểm tựa để đi tới Chúa

XVIII-27   Người phụ nữ đánh mất một đồng bạc và đã đốt đèn tìm kiếm. Nếu y thị không nhớ ra nó, thì hẳn sẽ không tìm được?43 Vì khi tìm thấy nó, bởi đâu mà y thị biết được là đồng bạc của mình, nếu y thị không nhớ ra nó? Con nhớ là đã tìm tòi và đã tìm được nhiều sự vật đánh mất. Bởi đó, con biết rõ, khi con đang tìm một vật nào đó, mà người ta hỏi con: Có lẽ là cái này, có lẽ là cái kia? Thì con trả lời: "Không phải", cho đến khi người ta đưa ra cho con sự vật mà con đang tìm kiếm. Nếu con không được sự vật đã mất, bất cứ là cái gì, thì dù người ta có đưa nó ra cho con, con cũng sẽ không tìm thấy, vì con sẽ không nhận ra được. và sự thể luôn luôn là như vậy, mỗi khi chúng con tìm tòi và nhận ra được đồ gì đã đánh mất. Khi một vật nào đó biến mất khỏi mắt chúng con, nhưng không khỏi ký ức chúng con - ví dụ một vật thể hữu hình - thì hình ảnh nó được duy trì trong chúng con, và chúng con tìm kiếm nó cho đến khi nó xuất hiện trước mắt chúng con. Khi tìm được, chúng con nhận ra nó, nhờ hình ảnh của nó ở trong chúng con. Chúng con không nói là đã tìm được đồ vật đã mất, nếu chúng con không nhận ra được nó; chúng con không thể nhận ra được, nếu chúng con không nhớ nó: Nó mất đi đối với con mắt, nhưng nó vốn còn giữ được trong ký ức.

XIX-28      Nhưng sao? Khi ký ức đánh mất cái gì, như xảy ra là lúc chúng con quên lãng, và chúng con tìm tòi để nhớ lại, thì chúng con tìm ở đâu, nếu không phải ở trong ký ức? Và ở đó, khi vật này xuất hiện thay cho vật kia, thì chúng con xua đuổi, cho đến khi gặp được chính vật mà chúng con đang tìm. Và khi gặp được nó, chúng con kêu lên: "Đây rồi!". Chúng con sẽ không nói như vậy, nếu chúng con không nhận ra nó; mà chúng con không nhận ra được, nếu không nhớ ra nó. Cho nên đúng là chúng con đã quên.

Hay là sự vật bị quên lãng, đã không bị quên lãng hoàn toàn. Và nhờ vào phần còn nhớ được, mà tìm ra phần khác, vì ký ức cảm thấy không biểu diễn được toàn diện theo thói quen, và vì mất thói quen và như đi khấp khểnh, nó đòi hỏi phải trả lại nó cái gì còn thiếu sót.?

Cũng như khi người nào chúng con quên biết xuất hiện trước mặt hay trong tư tưởng chúng con, mà chúng con không nhớ tên, thì chúng con tìm tòi cho ra: Bất cứ tên nào xuất hiện, mà không đúng, vì không quen xuất hiện với người đó, trong tư tưởng chúng con, thì chúng con xua đuổi, cho đến khi xuất hiện cái tên nào làm cho tri thức quen thuộc của chúng con về người đó được hoàn toàn thoả mãn. Nhưng tên đó bởi đâu mà ra, nếu không phải bởi ký ức? Và cả khi nhờ kẻ khác mà chúng con nhớ ra được/ thì cũng do ký ức mà ra. Vì chúng con không tin như cái gì mới lạ; mà vì nhớ ra, nên chúng con chấp nhận cái tên người ta nói đó là đúng. Nếu tên đó hoàn toàn bị quên lãng trong tâm trí chúng con, thì không còn gì làm cho chúng con nhớ ra được nữa. Nhớ ra rằng mình đã quên cái gì đó, thì không phải là đã quên hoàn toàn. Vậy chúng con sẽ không thể nhớ ra được một sự vật đã bị quên lãng, nếu chúng con không còn nhớ chút nào về nó nữa.

 

Nhờ ký ức, ta ý thức về hạnh phúc


XX-29       Vậy con tìm Chúa làm sao, lạy Chúa? Vì khi con tìm Chúa, là Chúa Trời con, là con tìm cuộc đời hạnh phúc. Chớ gì con tìm Chúa, cho linh hồn con được sống! Vì các con sống nhờ linh hồn, và linh hồn con sống nhờ Chúa. Vậy con tìm cuộc đời hạnh phúc bằng cách nào? Vì con không có nó, bao lâu con chưa bị bó buộc phải nói: "Thôi, đủ rồi!". Con phải tìm hạnh phúc ở đâu, bằng cách nào? Hoặc nhờ sự hồi cố, như thể mặc dầu đã quên nó, con còn ý thức rằng: Mình đã quên? Hoặc bằng ước ao học cho biết cái mình chưa được biết, vì con chưa hề biết nó, hay là vì con đã quên nó, đến nỗi không còn nhớ là mình đã quên? Hạnh phúc há chẳng phải là điều hết mọi người ước ao, và không một ai là không muốn, hay sao? Họ đã biết nó ở đâu để ước ao nó như vậy? Họ đã thấy nó ở đâu, để yêu nó như vậy? Hẳn là chúng con có hạnh phúc, nhưng con không biết có bằng cách nào? Có một cách hạnh phúc là được hạnh phúc thật sự; kẻ khác chỉ có hạnh phúc trong hy vọng. Các kẻ này có một mức độ hạnh phúc kém các kẻ được hạnh phúc thực sự, nhưng lại hơn những kẻ không được hạnh phúc thực sự hay trong hy vọng. Tuy nhiên cả những kẻ bất hạnh này, nếu họ không biết hạnh phúc như vậy, mà ý muốn của họ rất là thành thực. vậy họ biết hạnh phúc đó cách nào, con không rõ? Họ có một ý niệm nào về hạnh phúc đó, con không biết. Con cố gắng tìm cho biết ý niệm đó có ở trong ký ức không? Vì nếu nó ở trong đó, thì trước kia chúng con đã được hạnh phúc rồi, trong hết mọi người riêng biệt, hay chỉ trong con người thứ nhất, đã phạm tội - trong ông tất cả chúng con đã phải chết và do ông hết mọi người chúng con đã sinh ra khốn nạn - Lúc này con không cứu xét vấn đề đó; con chỉ tìm cho biết ý niệm về cuộc đời hạnh phúc có ở trong ký ức không? Vì nếu chúng con không biết hạnh phúc, thì chúng con sẽ không yêu nó. Vừa nghe nói đến tên nó, lập tức chúng con thú nhận là hết mọi người chúng con đều ước ao nó; vì không phải âm thanh của tên đó thu hút chúng con. Thật vậy, một người Hy Lạp nghe tên đó bằng tiếng Latin, thì không thích, vì không hiểu người ta nói gì; nhưng chúng con lấy làm thích, cũng như anh ta, nếu được nghe nói bằng tiếng Hy Lạp, vì chính sự vật được ám chỉ, không phải là Hy Lạp hay Latin, sự vật mà người Hy Lạp và người Latin và những người nói tiếng khác, đều ước ao đạt tới. Cho nên hạnh phúc đều được mọi người biết, vì nếu họ được hỏi: Có muốn được hạnh phúc không? Thì đều đồng thanh thưa là: Có muốn. Điều đó không thể có, nếu ký ức của họ không nhớ đến chính thực tại mà tiếng đó ám chỉ.

XXI-30      Cái nhớ đó có giống cái nhớ về Cartagô của kẻ đã trông thấy nơi đó không? Không, vì hạnh phúc không nhìn thấy được bằng con mắt, nó không phải là một vật thể.

Nó có giống cái nhớ về con số không? Không, vì kẻ có ý niệm về con số không tìm cho được chiếm hữu chúng, còn ý niệm mà chúng con có về hạnh phúc làm cho chúng con yêu mến nó, và chúng con còn muốn chiếm hữu nó, để được hạnh phúc.

Nó có giống cái nhớ về khoa hùng biện không? Không, vì mặc dầu khi nghe tiếng đó, những kẻ chưa là hùng biện thì nghĩ đến thực thể đó, và nhiều kẻ ước ao trở nên hùng biện - điều đó chứng tỏ họ có một ý niệm nào đó về hùng biện - vì nhờ giác quan thể xác, họ đã biết được gài hùng biện của kẻ khác, họ đã thưởng thức và ước ao được như vậy. Đã hẳn, ước nguyện của họ cho thấy là họ đã có một ý niệm bề trong và nếu họ không thưởng thức, thì họ cũng chẳng ước ao trở thành hùng biện. Còn về hạnh phúc, không có quan năng nào của thân xác phát giác được cho chúng con nơi kẻ khác44.

Nó có giống cái nhớ về niềm vui không? Có khi giống! Vì trong lúc buồn, con nhớ đến niềm vui của con, cũng như trong khi khốn khổ, con nghĩ đến hạnh phúc. Mà niềm vui đó con không hề nhờ giác quan thân xác để xem thấy, hay nghe biết, hay ngửi, hay nếm, hay sờ được, nhưng là con kinh nghiệm trong tâm trí con, khi con vui mừng, và ý niệm của nó được ghi và ký ức của con, để con có thể nhớ lại nó, lúc thì khinh bỉ, lúc thì ước ao, tuỳ theo các đối tượng khác biệt mà con nhớ đã làm cho con vui. Vì có lần con đắm đuối trong những sự ô nhục, mà bây giờ nhớ lại, con khinh bỉ và ghê tởm; có làn con đã vui thoả trong những sự chính đáng và cao thượng, bây giờ nhớ lại và ước ao, nhưng có lẽ nó không còn nữa, cho nên con nhớ lại niềm vui xưa mà buồn.

 

Mọi người ước ao hạnh phúc


31               Vậy ở đâu và khi nào con đã được kinh nghiệm cuộc đời hạnh phúc của con, để có thể nhớ ra, yêu mến và ước ao nó như vậy? Và không phải một mình con, hay với một nhóm nhỏ, mà là hết mọi người chúng con muốn hạnh phúc. Một ý niệm chắc chắn như vậy trong chúng con đòi hỏi một tri thức không kém chắc chắn. Còn điều sau đây, nghĩa là làm sao? Nếu người ta hỏi hai người: Có muốn đi lính không? Thì có thể là một trong hai người thưa là muốn, và người kia là không muốn. Nhưng nếu hỏi họ: Có muốn được hạnh phúc không? Thì lập tức, không chút lưỡng lự, cả hai đều nói là "muốn". Và nếu người này muốn đi lính, người kia không muốn, cũng không ngoài lý do nào khác là cho được hạnh phúc. Tại sao nữa? Là vì kẻ này tìm được niềm vui của mình ở địa vị này, kẻ khác ở địa vị kia. Như thế là hết mọi người đều đồng ý muốn được hạnh phúc, cũng đồng ý trả lời cho ai hỏi họ, là họ muốn được vui, vì họ gọi sự vui đó là hạnh phúc. Người ta theo đuổi hạnh phúc, kẻ thì qua lối này, người thì qua lối nọ, nhưng mục đích chỉ là một, mà mọi người đều cố đạt tới, là được vui sướng. Vì sự thể là như vậy, nên không một ai nói được là mình chưa hề có kinh nghiệm về sự vui, cho nên người ta tìm thấy nó trong ký ức và nhận ra nó, khi nghe thanh âm hạnh phúc.

 

Chỉ có hạnh phúc trong Thiên Chúa


XXII-32     Lạy Chúa, xin loại xa con, xin loại xa tâm hồn của tôi tớ Chúa, là kẻ xưng tụng Chúa, ý tưởng rằng: Bất cứ sự vui nào cũng làm cho con được hạnh phúc. Vì có một niềm vui không được ban cho kẻ dữ45, nhưng là cho những kẻ hết lòng thờ Chúa, và chính Chúa là niềm vui của họ. Và chính cuộc đời hạnh phúc là vui mừng bởi Chúa, cho Chúa, và vì Chúa: Chính đó là hạnh phúc, không có hạnh phúc nào khác. Nhưng kẻ nào tưởng có niềm vui nào khác, là theo đuổi một sự vui khác, không phải là vui thật. Tuy nhiên, có một hình ảnh nào đó của sự vui mà ý chí họ không rời bỏ.

XXIII-33   Vậy há không chắc chắn rằng: Hết mọi người đều muốn hạnh phúc, vì những kẻ không muốn vui mừng bởi Chúa, là hạnh phúc duy nhất, thì không muốn hạnh phúc hay sao? Hoặc là mọi người đều muốn hạnh phúc, nhưng vì xác thịt ước muốn trái với tinh thần và tinh thần trái với xác thịt46, để họ không làm được điều họ muốn, lại rơi vào điều họ có thể làm và lấy đó làm thoả mãn, vì điều họ không có thể, họ đã không muốn với một ý chí mạnh đủ, để có thể được, hay sao?

Vì con hỏi hết mọi người cho biết: Họ ưa thích tìm niềm vui trong chân lý hay trong giả dối? Thì họ không ngần ngại trả lời là "trong chân lý", cũng như họ quả quyết là họ muốn được hạnh phúc. Vậy niềm vui phát xuất từ chân lý đó là hạnh phúc. Vì đó là niềm vui bởi Chúa mà ra, lạy Chúa, là chân lý, là ánh sáng, là nguồn tế độ soi rạng mặt con, Thiên Chúa của con47. Vậy, hết mọi người ước muốn cuộc đời hạnh phúc đó; hết mọi người ước muốn cuộc đời đó, là cuộc đời hạnh phúc duy nhất, hết mọi người ước muốn niềm vui xuất phát từ chân lý.

Kinh nghiệm cho con thấy nhiều người muốn đánh lừa kẻ khác, mà không thấy một ai muốn bị lừa. Vậy họ biết cuộc đời hạnh phúc đó ở đâu, nếu không phải ở nơi mà họ biết chân lý? Họ yêu chân lý, vì họ không muốn bị lừa dối, và khi họ yêu cuộc đời hạnh phúc chẳng qua là họ yêu niềm vui phát xuất từ chân lý, nên họ cũng yêu chân lý; và họ sẽ không yêu chân lý, nếu không có ý niệm nào của chân lý ở trong ký ức họ.

Vậy tại sao, ho không vui mừng về chân lý đó? Tại sao họ không có hạnh phúc? Vì họ quá bận bịu về những sự khác làm cho họ khốn khổ hơn là chân lý làm cho họ vui mừng, vì họ chỉ nhớ ra một cách lờ mờ. Hãy còn chút ánh sáng48 nơi con người; họ hãy tiến bước, tiến bước, kẻo tối tăm bắt chợt họ!

34               Nhưng tại sao chân lý lại sinh ghen ghét49; và tạo sao người của Chúa rao giảng chân lý lại bị họ coi là thù địch50, đang khi họ yêu cuộc đời hạnh phúc, là niềm vui phát xuất từ chân lý? Là vì chân lý rất được yêu chuộng, đến nỗi kẻ yêu sự gì khác cũng muốn sự đó là chân lý; lại vì họ không muốn bị lừa dối, nên cũng không muốn cho người ta chứng minh là họ đã sai lầm. Bởi vậy, họ ghét chân lý, vì yêu điều mà họ cho là chân lý. Họ yêu chân lý soi sáng, họ ghét chân lý khiển trách51. Vì họ không muốn bị lừa và muốn đánh lừa, nên họ yêu chân lý khi chân lý tự bộc lộ, mà lại ghét chân lý khi chân lý bộc lộ họ. Cho nên chân lý trả đũa họ, là họ không muốn được chân lý bộc lộ, thì chân lý vốn bộc lộ họ, mặc dầu họ không muốn, và chân lý không tự bộc lộ cho họ biết.

Thế đó, thế đó, tâm hồn con người là thế đó! Nó mù quáng và ươn lười, xấu xa và bẩn thỉu; nó muốn che đậy mình, mà lại không muốn cái gì che giấu nó. Điều trái ngược xảy đến cho nó, là nó không che được mắt chân lý, mà chân lý sẽ che mắt nó. Tuy nhiên, dù ở trong tình trạng khốn nạn như vậy, con người cũng ước muốn tìm được niềm vui trong chân lý hơn là trong giả dối. Vậy nó sẽ được hạnh phúc, khi, không còn cản trở nào nữa, nó được hưởng chân lý duy nhất là nguồn mạch mọi chân lý.

 

Thiên Chúa ở trong ký ức


XVIV-35   Này con đã rảo qua khắp nơi trong ký ức, để tìm kiếm Chúa, lạy Chúa, và con đã không tìm thấy Chúa ở ngoài nó. Vì từ ngày con học cho biết Chúa, con không tìm tháy sự gì về Chúa, mà không do ký ức nhớ ra. Vì từ ngày đó, con không quên Chúa nữa. Vì ở đâu con tìm thấy chân lý, là ở đấy con tìm thấy Chúa con, là chính chân lý, mà từ ngày con đã học biết, con không quên được nữa. Cho nên từ ngày học biết Chúa, Chúa ở lại trong ký ức con, và con tìm thấy Chúa ở đó, mỗi khi con nhớ đến Chúa và được vui thoả trong Chúa. đó là những khoái lạc lành thánh của con, mà lòng từ bi Chúa đã ban cho con, khi đoái nhìn đến sự nghèo khó của con.

 

Thiên Chúa ở phần nào trong ký ức?


XXV-36    Nhưng Chúa ở nơi nào trong ký ức con, lạy Chúa, Chúa ở nơi nào trong đó? Chúa đã chuẩn bị phòng nào cho Chúa? Chúa đã xây cất thánh điện nào cho Chúa? Chúa đã ban cho ký ức con vinh dự được Chúa cư ngụ, nhưng Chúa cư ngụ ở phần nào trong đó, con ước ao biết điều đó. Vì khi nhớ Chúa, con đã vượt qua các bộ phận mà ký ức có chúng với các súc vật, và con đã không tìm thấy Chúa ở giữa các hình ảnh của các vật thể, nên con đã đi tới các bộ phận của ký ức, nơi con đã ký thác các cảm tình của hồn con, con cũng không thấy Chúa ở đó. Và con đã đi tới nơi ở của trí tuệ, nơi dành cho nó trong ký ức con - vì trí tuệ cũng nhớ đến mình - nhưng Chúa cũng không ở đó, vì Chúa không phải là một hình ảnh vật thể, cũng không phải là một tình cảm của sinh vật, như vui, buồn, ước ao, sợ hãi, nhớ, quên, hay loại nào như vậy, thì Chúa cũng không phải là trí tuệ, vì Chúa là Chúa và là Thiên Chúa của trí tuệ. Tất cả các sự vật này đều hay biến đổi, còn Chúa thì bất biến, ở trên mọi sự vật, thế mà Chúa đã khứng ngự trong ký ức của con, từ ngày con học biết Chúa.

Tại sao con muốn tìm cho biết Chúa ở nơi nào trong ký ức, như thể trong đó có nơi chốn thật sự? Chắc chắn là Chúa ở trong đó, vì con nhớ đến Chúa từ ngày con học biết Chúa, và con tìm thấy Chúa trong đó, mỗi khi con nhớ đến Chúa.

 

Con người liên lạc với Chúa


XXVI-37   Vậy con đã tìm thấy Chúa ở đâu, để học biết Chúa? Vì trước khi học biết Chúa, Chúa chưa ở trong ký ức con. Vậy con đã tìm thấy Chúa ở đâu, để học biết Chúa, nếu không phải là trong Chúa và ở bên trên con hay sao? Giữa g, và chúng con không có khoảng cách nào, dù chúng con đi tới Chúa hay lìa xa Chúa, không có khoảng cách nào hết. Chúa là chân lý và là Chúa ở khắp mọi nơi,hướng dẫn mọi kẻ tham khảo ý Chúa, đồng thời trả lời cho mọi vấn nạn khác nhau. Chúa trả lời cách rõ ràng, nhưng mọi người không nghe được rõ ràng. Mọi người đều hỏi Chúa theo ưa thích của họ, nhưng mọi người không luôn luôn nghe thấy điều họ thích. Người bầy tôi tốt nhất của Chúa là kẻ ít quan tâm đến việc nghe Chúa nói điều họ thích, cho bằng thích nghe điều Chúa nói.
 
 

AUGUTIN MÔ TẢ TÂM TRẠNG TÂM LÝ KHI VIẾT TỰ THUẬT


XXV-38    Con đã yêu mến Chúa quá muộn, ôi Đấng tốt đẹp rất cổ kính và rất tân k ỳ! Con đã yêu mến Chúa quá muộn! Này, Chúa vốn ở trong con , mà con lại ở ngoài con, và tìm Chúa ở bên ngoài; là kẻ xấu xa, con đã lăn xả vào những vật xinh đẹp Chúa đã dựng nên. Chúa đã ở với con, mà con lại không ở với Chúa. chính những vật, nếu không hiện hữu trong Chúa, thì không bao giờ hiện hữu, đã cầm giữ con xa Chúa. Chúa đã kêu gọi, đã gào thét, đã thắng sự điếc lác của con. Chúa đã soi sáng, đã chiếu rọi, đã xua đuổi sự mù loà của con. Chúa đã toả mùi thơm của Chúa ra và con đã được hít lấy và đâm ra say mê Chúa. Con đã được nếm Chúa, và đâm ra đói khát Chúa; Chúa đã đụng tới con và con ước ao sự bình an của Chúa.

 

Cuộc đời là một thử thách dài


XXVIII-39          Khi con được kết hợp hết mình với Chúa, thì con sẽ không còn thấy đau đớn, vất vả nữa; và đời sống của con được tràn đầy Chúa, sẽ trở nên hoạt bát. Vì kẻ được đầy Chúa, thì Chúa làm cho nó ra nhẹ nhàng. Nhưng bây giờ, con chưa được đầy Chúa, nên con trở thành gánh nặng cho con. Những vui thú mà con phải khóc lóc, đang còn giằng co với những ưu phiền mà con phải mừng rỡ; và con không biết bên nào sẽ thắng?

Ôi, khốn cho con! Lạy Chúa, xin thương xót con!52 Những ưu phiền tội lỗi của con đang giằng co với những vui mừng lành thánh, và con không biết bên nào sẽ thắng? Ôi! Khốn cho con? Lạy Chúa, xin thương xót con! Ôi, khốn cho con! Này đây, con không giấu giếm các thương tích của con: Chúa là thầy thuốc, con là bệnh nhân; Chúa là Đấng hay thương xót, con là kẻ đáng thương. Đời người trên dương thế há chẳng phải là một cuộc thử thách hay sao?53 Ai lại đưa phiền muộn và khó khăn? Chúa truyền phải chịu đựng, chứ không ưa thích chúng. Không ai ưa thích điều phải chịu đựng, chứ không ưa thích chúng. Không ai ưa thích điều phải chịu đựng, dù người đó thích chịu đựng đi nữa! Giả như có ai ưa thích chịu đựng, thì chắc chắn sẽ thích hơn, nếu không có gì để phải chịu đựng. Trong khi gặp bất hạnh, con ước ao hạnh phúc; khi được hạnh phúc, con lại sợ gặp bất hạnh. Giữa hai cảnh ngộ đó, đâu là chỗ trung dung, để đời sống con người khỏi phải là một cơn thử thách? Khốn cho hạnh phúc ở đời này: Chẳng những một lần, mà hai lần khốn! Vì vốn phải lo gặp bất hạnh, và vì khoái lạc thì chóng qua. Khốn cho những bất hạnh ở đời này! Chẳng những một lần, hai lần, mà bà lần khốn! Vì người ta vốn ước ao hạnh phúc và vì sự bất hạnh thì cam go, và sự nhẫn nại thì dễ sa lầy! Há đời sống con người trên dương thế chẳng phải là một cơn thử thách miên trường hay sao?

XXIX-40   Con chỉ còn biết đặt tất cả hy vọng của con nơi lòng thương xót bao la của Chúa. xin Chúa ban cho con điều Chúa truyền dạy, và xin truyền dạy con điều Chúa muốn, Chúa đã truyền cho chúng con phải tiết dục, và, như có vị đã nói rằng: Vì tôi biết, không ai cô tiết dục, nếu không được Chúa ban cho, nên biết được ơn đó của ai, đã là có phần khôn ngoan rồi vậy54. Vì nhờ tiết dục, chúng con được quy tụ lại, được trở về sự hợp nhất, mà chúng con đã đánh mất vì bị phân tán nhiều đàng. Vì kẻ mến Chúa và đồng thời lại yêu sự khác nữa, là mến Chúa ít, là không mến Chúa vì Chúa. Ôi, Chúa là tình yêu luôn luôn bốc cháy, mà không hề tắt. Ôi, Chúa là bác ái, lạy Chúa, xin thiêu đốt con! Chúa truyền dạy con phải tiết dục, xin hãy ban điều Chúa truyền dạy, và truyền dạy điều Chúa muốn.

 

Các đam mê


XXX-41    Đã hẳn, Chúa truyền dạy con phải chống lại đam mê xác thịt, đam mê con mắt, và kiêu hãnh thế trần55.

 

Đam mê xác thịt


Chúa đã cấm việc dâm bôn; còn về nhân, Chúa cho phép, nhưng lại khuyến khích một bậc tốt hơn. Và nhờ ơn Chúa, con đã chọn bậc đó, trước khi trở thành một người phân phát nhiệm tích của Chúa. Tuy nhiên, những hình ảnh các khoái lạc, mà thói quen xưa đã in vào ký ức của con - như con đã nói nhiều trên kia - vốn còn sống động. Chúng xuất hiện lờ mờ trước mặt con khi con tỉnh thức, nhưng trong giấc ngủ, chúng khêu gợi không những cảm giác thú vui, mà cả đến sự ưng thuận và đến như có hành động nữa. Các hình ảnh huyền ảo đó có một sức rất mạnh trên tâm hồn và xác thịt của con, đến nỗi chúng gây được cho con, trong giấc ngủ, những chuyện mà các thực tại không thể gây được cho con trong khi thức. Vậy lúc đó, con không phải là con nữa hay sao, lạy Chúa Trời con? Tuy nhiên, có một sự khác biệt rất lớn giữa con và con, khi ngủ và khi thức! Lúc đó lý trí con ở đâu? Khi con thức, nó giúp con chống lại các cám dỗ đó, và nếu các thực tại có tấn công đi nữa, cũng không lay chuyển được con. Hay là lý trí cũng nhắp lại với con mắt? Hay là nó cũng ngủ yên với các giác quan? Vậy bởi đâu mà nhiều khi, cả trong giấc ngủ, chúng con vốn chống cự, và hằng nhớ quyết định của mình, chúng con trung thành noi giữ, và từ chối không ưng thuận các khoái lạc đó? Tuy nhiên, có điều rất khác biệt này, là nếu sự việc có xảy ra thể khác, thì khi tỉnh dậy, chúng con thấy lương tâm được bình an. Lại chính sự khác biệt giữa hai trạng thái cho chúng con nhận thấy là không phải chúng con đã làm điều mà chúng con phàn nàn đã được thực hiện một cách nào đó trong chúng con.

42               Lạy Chúa toàn năng, chớ thì cánh tay Chúa không thể chữa được mọi suy nhược của tâm hồn con và ban dồi dào ơn thánh, để dẹp yên các cử động dâm dật cả trong giấc ngủ của con hay sao? Lạy Chúa, Chúa sẽ ban thêm ơn cho con mỗi ngày một hơn, để linh hồn con được giải thoát khỏi mọi cám dỗ dâm dục mà theo con tới Chúa, để nó khỏi phản lại nó, và, dù trong giấc ngủ, chẳng những nó không hoàn tất các việc xấu xa truỵ lạc, cả đến việc xuất khí, do hậu quả của những hình ảnh thô lỗ, mà nó còn từ chối mọi sự ưng thuận nữa. Vì làm được cho con khỏi mọi chước cám dỗ như vậy - dù yếu ớt đến nỗi một cử chỉ cũng đủ dẹp yên khi con nằm ngủ với tâm thần thanh khiết - chẳng những trong đời sống hiện tại, mà cả trong tương lai của con. Vâng, làm được như vậy, thì đâu có phải là điều quá đáng đối với Chúa là Đấng toàn năng, làm được mọi sự ngàn lần hơn chúng con cầu xin và suy tưởng56. Tuy nhiên, con đã nói cho Chúa nhân lành của con biết hiện trạng yếu đuối của con: Con vui mừng mà run sợ57 về những ơn Chúa đã ban, con khóc lóc về những thiếu sót trong con, con hy vọng Chúa sẽ hoàn tất nơi con lòng xót thương của Chúa, cho tới sự bình an trọn vẹn, mà mọi quan năng bề trong bề ngoài của con được hưởng nơi Chúa, khi cái chết sẽ bị vùi đi trong toàn thắng58.

 

Đam mê ăn, uống


XXXI-43   Ban ngày có một sự khổ khác. Chớ gì nó đủ cho nó59. Vì chúng con phải ăn uống để bồi bổ những hao hụt hằng ngày của thân xác, trước khi Chúa huỷ diệt của ăn và cái bụng60, tiêu tan sự bần cùng của con bằng một sự no thoả lạ lùng, và mặc cho thân xác hư hoại này một sự bất hoại vĩnh tồn61.

Nhưng, ngày nay, nhu cầu ăn uống làm cho con vui thích, và con chống lại sự vui thích đó, kẻo bị lừa; và con phải chiến đấu hằng ngày bằng chay tịnh, nhờ đó thường con bắt được thân xác phục tùng62. Nhưng con dùng khoái lạc để xua đuổi đau khổ của con: Vì đói và khát là những đau khổ, chúng nung đốt và giết chết như con sốt, nếu không dùng thuốc là của ăn mà cứu chữa. Các của đó chúng con có sẵn, nhờ sự yên ủi của ơn Chúa, làm cho đất, nước và trời phục vụ sự yếu đuối của chúng con, và đau khổ trở thành khoái lạc.

44               Chúa đã dạy con phải dùng của ăn như dùng thuốc, nhưng khi con đi từ khổ não của đói khát đến yên nghỉ của no nê, thì cạm bẫy của đam mê đón đường con. Vì chính lối đi đó là khoái lạc, và không có lối nào khác để qua nơi mà nhu cầu buộc con phải qua. Việc ăn uống là vì lý do sức khoẻ, nhưng có một sự khoái lạc nguy hiểm đi kèm, và nhiều khi nó cố tình đi trước, để phải làm vì nó, điều mà con nói và muốn làm vì lý do sức khoẻ.

Lại chừng mực không đồng đều cho cả hai bên: Cái gì đủ cho sức khoẻ, thì không đủ cho khoái lạc, và nhiều khi người ta không biết là nhu cầu phần xác xin được giúp đỡ hay là đam mê khoái lạc gian manh yêu cầu được phục vụ? Trạng thái mập mờ đó làm cho tâm hồn khốn nạn chúng con hoan hỉ, và tìm được trong đó một lý do thực thụ để chữa mình: Nó lấy làm khoái trá vì không biết rõ thế nào là đủ cho được bảo vệ sức khoẻ mà che đậy lợi ích của khoái lạc. Hằng ngày con ra công chống lại các chước cám dỗ đó, và con kêu cầu Chúa giúp đỡ con, và con phó thác cho Chúa các nghi nan của con, vì trong vấn đề này tư tưởng của con chưa được rõ rệt.

45               Con nghe tiếng Chúa con truyền dạy: "Chớ để lòng các ngươi ra nặng nề vì chè chén say sưa!"63 Sự say sưa đã xa con: Xin Chúa thương đừng để nó tới gần con. Còn như chè chén64, có lần len lỏi tới tôi tớ Chúa: Xin Chúa thương xua đuổi nó xa con. Vì chẳng ai có thể tiết lộ được nếu không được Chúa ban cho65. Chúa ban nhiều ơn khi chúng con cầu xin, và tất cả những sự lành chúng con đã nhận được trước khi cầu xin, cũng là nhận được ở nơi Chúa; và về sau chúng con nhận ra được điều đó cũng là do ơn Chúa ban cho. Con chưa hề say sưa,  nhưng con biết có những kẻ say sưa đã nhờ ơn Chúa mà trở nên tiết độ. Cho nên do ơn Chúa mà có kẻ không say sưa; do ơn Chúa, mà có kẻ không còn say sưa nữa, nhưng trước kia họ đã say sưa; cũng do ơn Chúa mà cả hai biết được việc đó do ai ban tặng?

Con đã được nghe Chúa phán dạy lời khác: "Đam mê của con, chớ chạy theo; khoái lạc của con, hãy hãm lại!"66. Nhờ ơn Chúa, con đã được nghe lời khác nữa và con lấy làm ưa thích: "Nếu chúng ta ăn, cũng chẳng hơn gì; mà không ăn, nào có thiệt chi"67, nghĩ là việc trên không làm cho con giàu hơn, mà việc dưới không làm cho con nghèo hơn. Con cũng đã được nghe câu khác: "Tôi đã học cho biết đành lòng với số phận mình gặp phải, tôi đã biết cảnh dư dật và đã biết chịu đựng sự thiếu thốn. Tôi chịu được mọi sự, nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi"68. Đó là người lính của đạo binh thiên quốc, không phải là bụi đất như chúng con. Nhưng, lạy Chúa, xin hãy nhớ chúng con là bụi đất69, và Chúa đã dùng bụi đất mà làm nên con người, nó đã hư mất và đã được tìm lại70. Chính tông đồ cũng không có sức mạnh tự mình, vì ngài cũng là bụi đất như chúng con. Con rất yêu mến ngài, là kẻ đã được Chúa linh ứng mà nói những lời: "Tôi chịu được mọi sự, nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi". Xin Chúa hãy ban sức mạnh cho con, để con có thể; xin ban cho con điều Chúa truyền dạy và xin truyền dạy điều Chúa muốn71. Tông đồ thú thật đã lãnh nhận mọi sự nơi Chúa và ngài có hãnh diện trong Chúa72. Con đã nghe biết kẻ khác cầu xin để được nhận73 mà rằng: "Xin cất khỏi con các đam mê của cái bụng"74. Như vậy, ôi, Thiên Chúa thánh thiện của con, đã rõ là Chúa ban cho làm điều Chúa truyền dạy phải làm.

46               Ôi, Cha nhân lành! Cha đã dạy con rằng: "Với người trong sạch, cái gì cũng sạch"75; nhưng ai năn mà làm cho người ta sa ngã, thì xấu lắm76; mọi vật Chúa đã dựng nên đều tốt lành, không được vất bỏ gì hết, cứ việc cảm tạ mà dùng77; vì chẳng phải của ăn khiến ta đẹp lòng Thiên Chúa78, nên không ai được lên án chúng con trong việc ăn uống79; người ta đừng khinh kẻ không ăn, còn kẻ không ăn đừng xét đoán người ăn80. Con đã học biết các điều đó, con cảm tạ Chúa, con ngợi khen Chúa, lạy Chúa con, lạy Thầy con, Chúa đã gõ vào tai con, và đã soi sáng lòng con: Xin giải thoát con khỏi mọi chước cám dỗ. Con không sợ cái dơ của đồ ăn, nhưng sợ cái dơ của đam mê. Con biết Noe được phép ăn mọi giống thịt dùng làm của ăn; Elia lấy lại sức, nhờ ăn thịt81; Gioan với một đời sống khổ hạnh lạ lùng, không bị ra dơ bởi các súc vật, tức là châu chấu, mà ông đã biến thành của ăn82; con cũng biết Esau đã bị lừa vì ham mê cháo đậu83, và Đavít đã trách mình vì đã ước ao nước uống84; và Vua của chúng con bị cám dỗ không  phải về thịt, mà về bánh85. Cũng vậy, dân Do Thái, trong sa mạc, đã đáng bị khiển trách, không phải vì đã ước ao ăn thịt, mà vì sự thèm ăn đã làm cho họ kêu trách Chúa86.

47               Bị chước cám dỗ đó bao vây, hằng ngày con chống trả tính ham mê ăn uống. Vì đây không phải là việc mà con có thể dứt khoát một lần, rồi sau không đụng tới nữa, như con đã có thể làm đối với việc dâm bôn87. Cho nên, bộ dây thắng ở họng, con phải cầm giữ đều hoà: Lúc buông, lúc hãm. Nhưng, lạy Chúa, ai là người không bị lôi kéo ít nhiều ra ngoài giới hạn của nhu cầu? Kẻ nào vậy, thật là cao trọng, họ hãy cao rao danh Chúa, còn con không phải là người đó, vì con chỉ là một tên tội lỗi88. Nhưng con cũng cao rao danh Chúa và xin Đấng đã chiến thắng thế gian89, cầu bầu cùng Chúa90 tha tội cho con, và kể con vào số các chi thể yếu đuối của thân mình Người, vì mắt Chúa đã thấu suốt cái gì còn thiếu kém nơi Người, và mọi sự sẽ được ghi trong sách của Chúa91.

 

Đam mê khứu giác


XXXII-48           Con không phải quá lo lắng về những quyến rũ của các mùi thơm: Không có chúng, con không tìm; có chúng, con không chê; nhưng luôn sẵn sàng từ bỏ. Con thấy vậy; có lẽ con lầm? Vì trong con có những tối tăm rất đáng phàn nàn, chúng che đậy những thực trạng của con, đến nỗi khi linh hồn con muốn hỏi mình cho biết về các năng lực của mình, thì không dám tin vào mình, vì điều hiện có thường là bí mật, chỉ nhờ kinh nghiệm mới khám phá được. Cho nên, không ai được an tâm ở đời này, nơi được mệnh danh là một cơn thử thách miên trường92. Kẻ đã có thể từ xấu nên tốt, há lại không có thể từ tốt ra xấu hay sao? Chỉ có một hy vọng, một tín nhiệm, một lời hứa chắc chắn, là lòng xót thương của Chúa.

 

Đam mê thính giác


XXXIII-49          Các khoái lạc của lỗ tai trói buộc và áp chế con một cách dai dẳng hơn, nhưng Chúa đã tháo gỡ và giải thoát con. Con thú thực là ngày nay con hãy còn ưa thích những giọng điệu được lời Chúa bổ dưỡng và được xướng lên do một tiếng hát êm dịu và tài tình, nhưng chúng không còn làm cho con mê mệt, và con muốn thôi lúc nào tuỳ ý. Tuy nhiên, được bổ dưỡng bằng chính những ý tưởng làm cho con chấp nhận, các bài hát đó muốn có một địa vị vinh dự trong lòng con, nhưng con chỉ dành cho chúng một địa vị cân xứng mà thôi. Có lần con cảm thấy như đã dành cho chúng một địa vị quá đáng, vì khi những lời thánh đó được hát lên, như con đã nói, thì con cảm thấy tâm hồn chúng con cháy lửa đạo đức, kính yêu và sốt sắng, hơn là khi không hát như vậy; v2 các cảm thức rất khác nhau của tâm hồn chúng con đều tìm được những điệu bộ riêng của mình trong tiếng hát, bài ca, như thể chúng được gợi lên do một quan hệ bí nhiệm nào, con không biết. Nhưng khoái lạc giác quan không được làm suy nhược linh hồn, nhiều lần lại lừa dối con, khi giác quan tháp tùng lý trí không còn muốn khiêm tốn theo sau - vì nó được như vậy là nhờ lý trí chấp nhận nó -; nó lại còn muốn chạy đi trước và điều khiển lý trí. Chính ở chỗ này, con đã sai lỗi, mà không biết, về sau con mới nhận ra.

50               Nhưng có lần vì đề phòng thái quá sự sai quấy đó, con lại lỗi phạm vì quá nghiêm ngặt - nhưng rất hoạ hiếm - là muốn loại khỏi tai con và khỏi Giáo Hội mọi khúc điệu êm đềm, thường kèm theo thánh vịnh Đavít. Và con tưởng chắc chắn hơn cả là phương pháp, mà con nhớ đã được nghe nói nhiều lần của thánh Athanasiô, giám mục thành Alexandria, ngài bắt kẻ tụng thánh vịnh chỉ được uốn giọng lên xuống một chút, đến nỗi gần giống như người ngâm, hơn là người hát93.

Tuy nhiên, khi nhớ đến những dòng nước mắt mà các bài hát của Giáo Hội Chúa đã làm cho con đổ ra, trong những thời kỳ con mới khôi phục đức tin, và ngay lúc này nữa, khi con bị xúc động không phải bởi bài hát mà bởi các lời được hát lên do một thứ tiếng trong trẻo, với một nhịp điệu thích đáng, thì con lại nhìn nhận lợi ích lớn lao của tục lệ đó94.

Như vậy, con lưỡng lự giữa nguy cơ khoái lạc và lợi ích được kinh nghiệm rõ ràng, và tuy không đưa ra một quyết định dứt khoát, con nghiêng hơn về phía thừa nhận thói quen hát trong Giáo Hội, để sự vui thích của lỗ tai giúp linh hồn còn yếu đuối vươn tới một nền đạo đức thiết tha. Tuy nhiên, khi nào xảy đến cho con, là giọng hát làm cho con xúc động hơn lời được hát, thì con thú nhận có tội đáng chịu phạt, và lúc đó con ước ao không nghe ai hát thì hơn.

Tâm trạng của con là thế đó! Xin hãy khóc với tôi và khóc cho tôi, hỡi những kẻ suy tính trong lòng những ý ngay lành để biến thành hành động. Vì nếu các người không suy tính gì như vậy, thì vấn đề này không ăn nhằm gì với các người. Nhưng lạy Chúa, xin hãy nghe lời con, hãy đoái nhìn, hãy xem, hãy thương xót và cứu chữa con95; trước nhan thánh Chúa, con là một bí mật cho con, và đó chính là sự yếu đuối của con.

 

Đam mê của con mắt


XXXIV-51          Còn lại khoái lạc của con mắt xác thịt con. Những điều con xưng tụng ở đây là cho lỗ tai của các đền thờ Chúa96, những lỗi tai huynh đệ và đạo đức; để con kết thúc đoạn văn nói về các chước cám dỗ của đam mê xác thịt; chúng còn tấn công con, mặc dầu con than van và nóng lòng được khoác vào mình nhà ở trên trời của con97. Mắt con ưa thích những hình ảnh xinh đẹp và khác nhau, nhưng màu sắc sáng sủa và vui tươi. Chớ gì chúng không chiếm đoạt linh hồn con; chỉ có Chúa chiếm đoạt nó, Chúa là Đấng đã dựng nên các sự vật rất tốt đẹp này98, nhưng chính Chúa là thiện hảo của con, chứ không phải chúng. Suốt ngày, bao lâu con tỉnh thức, chúng quấy quả con, không để con được yên tĩnh - như khi nghe tiếng hát và những khi mọi người yên lặng. Vì chính nữ hoàng của màu sắc, là ánh sáng, tràn ngập mọi sự mà chúng con xem thấy; ban ngày bất cứ ở đâu, nó mơn trớn con bằng muôn vàn cách, mặc dầu khi con làm việc khác và không lưu tâm đến nó. Nhưng nó thâm nhập quá mạnh đến nỗi, nếu, bất thần, nó biến đi, thì người ta ước ao tìm kiếm nó; và giả như nó vắng bóng lâu, thì tâm hồn người ta đâm ra buồn chán.

52               Ôi, ánh sáng, mà Tôbia đã xem thấy, khi con mắt thân xác bị mù, ông đã dạy cho con ông đường sự sống và ông đã dẫn dắt nó với bàn chân bác ái, không bao giờ lạc lối99. Hoặc là ánh sáng mà Isaác đã xem thấy, khi, cái nhìn xác thịt đã trở nên nặng nề và bị tuổi già che phủ, ông đã xứng đáng, không phải vì nhận ra các con mà chúc lành cho chúng, mà vì chúc lành cho chúng mà nhận ra chúng100. Hoặc là ánh sáng mà Giacóp đã xem thấy, khi chính ông cũng bị mù loà vì già cả, đã chiếu ánh sáng tâm hồn trên các thế hệ của dân tộc tương l ai, được biểu thị trong các con cái, và đã đặt trên các cháu, sinh ra bởi Giuse, bàn tay tréo lại cách lạ lùng, không như cha của chúng nhận thấy bề ngoài và muốn sửa đổi, nhưng theo như sự phân biệt bề trong của chính ông101. Chính đó là ánh sáng, ánh sáng duy nhất và hợp nhất với mọi kẻ xem thấy nó và yêu mến nó.

Còn về ánh sáng vật chất mà con đã nói, nó trang điểm cuộc đời với một vẻ êm dịu, làm say mê và nguy hiểm cho những kẻ mù quáng yêu đời. Những kẻ nào biết nhận ánh sáng đó mà ngợi khen Chúa, là "Chúa tôi tạo dựng muôn loài"102 thì họ đón nhận ánh sáng trong khi hát thánh ca dâng lên Chúa, chứ không để cho ánh sáng chộp lấy họ, trong khi linh hồn mê ngủ: Con muốn được như vậy. Con chống trả các quyến rũ của con mắt, kẻo đang khi tiến bước trên con đường của Chúa, chân con bị vướng mắc, và con đưa mắt vô hình  nhìn lên Chúa, để Chúa giải thoát chân con khỏi lưới dò103; nhiều lần Chúa giải thoát chân con, vì chúng hay mắc phải. Chúa không ngừng giải thoát con, mà con thì năng mắc phải cạm bẫy gieo rắc khắp nơi, vì Chúa không chớp mắt và không ngủ, ôi Đấng canh giữ Israel!104

53               Để quyến rũ con mắt, người ta đã dùng kỹ thuật và nghề nghiệp khác nhau mà thêm thắt biết bao nhiêu sự vào quần áo, giày dép, bát đĩa và các đồ đạc khát như vậy, cả vào các bức vẽ và các biểu tượng khác, và đó là những sự vượt quá giới hạn của nhu cầu thiết yếu và điều độ, và ý nghĩa đích thực của tôn giáo. Bề ngoài họ theo đuổi công trình do tay họ chế tạo, bề trong họ lìa bỏ Đấng đã tạo dựng nên họ và huỷ hoại công trình của Người là chính họ.

Phần con, lạy Chúa, con và là danh vọng của con, về điểm này con cũng xin hát ca mừng Chúa và dâng hy lễ tạ ơn105 lên Đấng đã hy sinh cho con, vì các mỹ thuật đó, từ tâm hồn qua tay nghệ sĩ, phát xuất từ chính sự toàn mỹ, cao trọng hơn các tâm hồn chúng con, mà ngày đêm linh hồn con nồng nàn ước muốn. Nhưng các kẻ chế tạo và các kẻ ham mê các mỹ thuật bề ngoài, biết rút từ sự toàn mỹ, các quy tắc để phê chuẩn chúng mà không biết rút ra quy tắc để biết sử dụng chúng. Và quy tắc này ở đó, mà họ không nhìn thấy, để khỏi phải đi xa hơn, và để giữ toàn lực cho Chúa106, chứ không phân tán nó trong những khoái lạc suy tàn.

Chính con là kẻ rêu rao và xác nhận các chân lý đó, con cũng để cho chân con vướng mắc vào các sự xinh đẹp đó, nhưng Chúa tháo gỡ cho con, lạy Chúa, Chúa tháo gỡ cho con, vì lòng thương xót của Chúa hằng ở trước mặt con107. Vì con đã khốn nạn mắc vào, mà Chúa thì xót thương tháo gỡ con, có lần con không thấy, vì đã sa ngã từ từ; có lần thấy đau khổ, vì đã mắc vào quá chặt!

 

Một hình thức tinh vi của đam mê con mắt


XXXV-54           Ở đây, phải nói đến một hình thức cám dỗ phức tạp và nguy hiểm hơn nữa. Vì ngoài đam mê xác thịt - gồm mọi thứ khoái lạc của giác quan, làm cho những kẻ lìa xa Chúa108 và làm nô lệ chúng, phải hư đi - còn có một hình thức dục vọng khác ở trong tâm hồn, cũng đi qua các giác quan thể xác đó, nhưng không nhằm vào một khoái lạc xác thịt cho bằng vào một kinh nghiệm, mà xác thịt chỉ là dụng cụ: Đó là một ham vọng hư ảo và tò mò, được đội tên là kiến thức và khoa học. Vì nó là ham mê học hỏi và vì con mắt là giác quan chính yếu của tri thức, cho nên lời Chúa gọi nó là đam mê của con mắt109.

Thật vậy, nhìn xem là việc riêng của con mắt. Nhưng chúng con cũng dùng tiếng ấy cho các giác quan khác, khi áp dụng chúng vào việc hiểu biết110. Vì chúng con không nói: "Hãy nghe cho biết nó lập loè làm sao". Hoặc "Hãy ngửi cho biết nó lóng lánh lạ". Cũng không nói: "Hãy sờ cho biết, nó chói lói dường nào?". Vì chỉ có tí6ng xem là hợp với các cảm giác đó. Chúng con cũng không chỉ nói: Hãy xem nó sáng thay, đó là điều chỉ có con mắt cảm thấy được. nhưng chúng con cũng nói: Hãy xem nó vang động làm sao? Hãy xem nó sặc mùi thế nào? Hãy xem nó có vị gì? Hãy xem nó cứng ghê!

Cho nên, như con đã nói, tất cả các kinh nghiệm của các giác quan được gọi là đam mê của con mắt, vì việc nhìn xem chính yếu thuộc con mắt, nhưng các giác quan khác cũng thường lạm dụng cho mình, khi thám cứu một sự gì thuộc về tri thức.

55               Do đó, người ta phân biệt được rõ ràng, trong mọi hoạt động của giác quan, đâu là phần khoái lạc, đâu là phần hiếu kỳ: Khoái lạc thì tìm tòi cái gì là xinh đẹp, là nhịp nhàng, là êm dịu, là ngon ngọt, là mềm mại; còn hiếu kỳ thì tìm những cảm giác ngược lại, để thử xem, không phải để đón trước một cảm giác khó chịu, nhưng là vì ưa thích thí nghiệm và hiểu biết.

Có khoái lạc gì nhìn xem một tử thi bị đâm chém tàn tệ, coi mà ghê sợ? Thế mà nghe tin ở đâu có một xác chết như vậy, là người ta tuốn đến xem, để mà buồn bã và ghê sợ! Họ có thấy vậy trong giấc ngủ, họ cũng kinh, như thể khi tỉnh dậy, có ai ép buộc họ, hoặc nghe đồn có cái gì xinh đẹp thúc đẩy họ đi xem.

Về các giác quan khác cũng vậy, nói ra thì dài. Chính cái bệnh hiếu kỳ đó thúc đẩy người ta biểu diễn những việc kỳ quan ở kịch trường. Nó làm cho người ta tìm cách khám phá những bí ẩn của thiên nhiên ở ngoài chúng con; mà có biết những bí ẩn đó cũng không ích lợi gì, và người ta cũng chẳng ham mê gì khác ngoài sự hiểu biết. Nó cũng làm cho người ta nhằm mục đích của khoa học đồi bại đó, mà sưu tầm bằng những thực hành ảo thuật. Cũng nó trong cả tôn giáo, làm cho người ta thử thách Thiên Chúa, khi đòi hỏi những dấu kỳ, việc lạ, không phải vì ước ao phần rỗi cho ai, mà chỉ vì muốn có một kinh nghiệm.

56               Trong cái rừng mênh mông đầy cạm bẫy và nguy hiểm này, con đã chặt và vứt khỏi lòng con rất nhiều cây cối, theo như Chúa đã ban ơn cho con, lạy Chúa là phần rỗi của con!111 Nhưng đang khi bao nhiêu cảm giác của các sự vật đó còn vang dội chung quanh đời sống thường nhật của chúng con, thì khi nào con dám nói, vâng, khi nào con dám nói được rằng: Không một sự vật nào như vậy đã chiếm đoạt ý tứ con, cái nhìn của con và dụ dỗ tính hiếu kỳ hư ảo của con, không?

Thật vậy, kịch trường không thu hút con nữa112; con cũng chẳng còn bận tâm về sự vận chuyển của tinh tú113; và linh hồn con không hề hỏi han thầy bói; con gớm ghét các nghi thức phạm thánh đó114. Nhưng kẻ thù dùng bao nhiêu mưu kế xúi giục con xin Chúa làm phép lạ, đang khi con là kẻ phải phục vụ Chúa, lạy Chúa, như một tôi tớ khiêm tốn và đơn sơ. Nhưng vì Vua chúng con và vì quê hương Giêrusalem đơn sơ thanh sạch của chúng con, xin Chúa khiến cho sự ưng thuận tội lỗi đó, như ngày nay đã lánh xa con, thì cũng được lánh xa luôn và xa hơn nữa. Tuy nhiên, khi con cầu xin sức khoẻ cho ai, mà mục đích lời nguyện của con quá khác biệt, thì xin Chúa ban cho con được sẵn sàng vâng theo như Chúa muốn.

57               Nhưng biết bao sự vật nhỏ mọn, đáng khinh, hằng ngày cám dỗ tính hiếu kỳ của chúng con và chúng con sa ngã rất nhiều lần, ai đếm xuể? Biết bao lần, nghe kể những việc nhảm nhí, ban đầu chúng con như chịu đựng, để khỏi làm mất lòng những người yếu đuối; nhưng rồi dần dần chúng con lại chăm chú nghe? Con không còn đi hí trường để xem một con chó đuổi theo một con thỏ; nhưng nếu đi ngang qua cánh đồng, bất thần con gặp thấy một cuộc săn như vậy, hẳn nó thu hút con, làm cho con sao lãng mọi suy tư, cả những suy tư quan trọng? Đã hẳn, nó không làm cho con ngựa của con đổi đường, nhưng lòng con đổi hướng; và nếu do sự yếu đuối quá rõ rệt của con, Chúa không sớm khuyến cáo con, hoặc nâng lòng con lên Chúa qua một tư tưởng rút ra từ cảnh ngộ đó, hoặc khinh chê nó và bỏ đi, thì có lẽ con sẽ đứng đó như một người ngớ ngẩn chăng!

Nói việc gì xa? Đang khi con ở trong nhà, một con thằn lằn nào đó đớp ruồi, hay một con nhện bao bọc con bọ rơi vào màng lưới, chúng không làm cho con chăm chú hay sao? Hay là những vật bé nhỏ đó không thuộc một vấn đề, là con phải nhân đó mà ngợi khen Chúa? Ôi tạo hoá kỳ diệu, Đấng an bài mọi sự! Nhưng ban đầu con đã không để ý đến mục đích đó. Chỗi dậy mau là một chuyện, mà không sa ngã là chuyện khác!

Và đời con đầy tràn những yếu đuối như vậy, và hy vọng duy nhất của con là lòng thương xót rất quảng đại của Chúa115. Vì tâm hồn chúng con đã trở thành nguồn mạch những ấn tượng khốn nạn kiểu đó và nó mang trong mình những chuyện nhảm nhí hư ảo, do đó kinh nguyện của chúng con nhiều khi bị gián đoạn và quấy phá; và trước tôn nhan Chúa, đang khi chúng con cố dâng lời nói của lòng mình lên tai thánh Chúa, thì những tự tưởng viển vông, con không biết từ đâu, xông tới, ngăn chặn một công việc quan trọng như vậy?

XXXVI-58          Hay là chúng con phải coi các khuyết điểm đó như điều không quan trọng, hoặc đó chẳng là gì khác ngoài lòng thương xót quen thuộc của Chúa, để đưa chúng con tới đức cậy, vì Chúa đã khởi sự hoán cải chúng con? Chúa biết rõ, Chúa đã hoán cải con được chừng nào: Chúa đã bắt đầu chữa con khỏi ham vọng báo thù cá nhân, để có thể chữa lành các tật khác của con, để chữa con khỏi mọi suy nhược, cứu mạng sống con khỏi hư đi, và đội đầu con triều thiên trong từ bi và thương xót, cho ước nguyện con no đầy hạnh phúc116. Chúa đã dùng sự kính sợ Chúa mà chế ngự tính kiêu ngạo của con và đã tập cho vai con quen với ách Chúa. Bây giờ con mang ách đó, và con lấy làm êm dịu, như Chúa đã hứa117 và đã thi hành. Mà thực ra, nó vốn êm dịu  như vậy, nhưng trước đây, con không biết, khi con sợ phải mang nó.

 

Kiêu hãnh thế trần


59               Nhưng, lạy Chúa, có phải chỉ có một mình Chúa thực thi chủ quyền mà không kiêu ngạo không, vì Chúa là chủ thật duy nhất118 không có chủ; có phải con cũng đã được khỏi loại chước cám dỗ thứ ba này - mà ai có thể được kỏi nó ở đời này? - tức là muốn được người ta kính sợ và yêu mến, không ngoài mục đích nào khác là được lấy đó làm vui sướng - mà thực ra đâu có phải là một niềm vui119 - hay sao? Đời sống thì khốn nạn, sự kiêu hãnh thì thối tha! Đó cũng là một trong các lý do chính yếu làm cho người ta không yêu mến Chúa và không kính sợ Chúa. Cho nên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, và ban ơn cho kẻ khiêm nhường120, và Chúa giáng sấm sét trên những xa vọng trần gian, và nền tảng núi non phải lay chuyển121.

Vì trong xã hội loài người, có những nhiệm vụ buộc chúng con phải làm cho người ta yêu mến hay kính sợ, cho nên kẻ thù hạnh phúc thật của chúng con, theo riết chúng con, và gieo rắc những cạm bẫy "hoan hô, hoan hô", để chúng con ham mê thu lượm tiếng khen, là vô tình mắc bẫy và thôi liên kết niềm vui của chúng con vào chân lý của Chúa, để liên kết nó vào sự giả dối của loài người. Chúng con sẽ lấy làm vui sướng được yêu mến và kính sợ, không phải vì Chúa, mà thay cho Chúa. Và như vậy, chúng con nên giống kẻ thù, không phải do sự đồng tâm bác ái, mà do đồng số phận cực hình; vì nó đã nhất định đặt ngai của nó trên gió Bắc122, để, trong tối tăm và giá lạnh123, chúng con phục vụ nó, là đứa đã bắt chước Chúa một cách quỷ quyệt.

Phần chúng con, lạy Chúa, này chúng con là đoàn chiên bé nhỏ của Chúa124, xin hãy coi chúng con là sở hữu của Chúa; xin Chúa hãy giơ cánh Chúa ra, cho chúng con được ẩn náu; xin Chúa hãy trở nên vinh quang của chúng con; chớ gì chúng con được yêu mến vì Chúa và chớ gì lời Chúa trong chúng con được người ta kính sợ. Kẻ nào muốn được ca tụng mà bị Chúa khiển trách, thì không được người ta bênh vực, khi Chúa xét xử, cũng chẳng được cứu thoát, khi bị Chúa luận phạt. Đã hẳn, không phải tội nhân được ca tụng theo ước nguyện của linh hồn nó, hay kẻ dữ được chúc lành125, mà người ta được ca tụng vì một ơn lành nào Chúa đã ban cho. Nhưng nếu người ta lấy làm vui thích vì được ca tụng hơn là vì được ơn Chúa, đã nên cớ cho được ca tụng, thì chính kẻ được ca tụng sẽ bị Chúa khiển trách. Cho nên kẻ ca tụng thì tốt hơn kẻ được ca tụng. Vì kẻ trên vui mừng vì ơn Chúa trong con người; còn kẻ dưới thích ơn loài người hơn ơn của Chúa.

XXXVII-60        Hằng ngày chúng con bị cám dỗ như vậy, lạy Chúa, chúng con bị cám dỗ không ngừng. Chính cái lưỡi của con người, hằng ngày, là cái lò thử thách cho chúng con126. Về mục này, Chúa truyền dạy chúng con phải tiết độ: Xin ban cho chúng con điều Chúa truyền dạy, và xin Chúa truyền dạy chúng con điều Chúa muốn. Về việc này, Chúa đã biết những rên rỉ của lòng con127 kêu lên Chúa và bao dòng châu lệ mắt con đã đổ ra. Vì con không dễ nhận thấy con đã được thanh tẩy khỏi ôn dịch đó đến mức độ nào và con rất sợ những lỗi lầm bí ẩn của con128, mà mắt Chúa nhìn thấy rõ129, mắt con thì không. Về các loại cám dỗ khác, con có một cách nào đó dò xét được mình, còn về loại này, thì hầu như không có cách. Vì con thấy rõ con đã có thể đi tới mức nào trong việc kìm hãm linh hồn con khỏi đam mê xác thịt và khỏi tính hiếu kỳ vô ích, khi con đã thoát các sự ấy, hoặc do ý muốn, hoặc vì chúng không còn nữa. Lúc đó con tự hỏi mình xem buồn nhiều hay ít, vì vắng chúng?

Về tiền của mà người ta tìm kiếm để thoả mãn một trong ba đam mê này, hoặc hai trong chúng, hoặc cả ba, nếu linh hồn không thể nhận biết được mình có khinh chê nó, đang khi có nó, hay không? Thì có cách là hãy từ bỏ nói đi, để thử xem?

Còn về tiếng khen, cho được bỏ nó và kinh nghiệm sự độc lập của chúng con đối với nó, thì có cần phải sống một cuộc đời khốn khổ, hèn mạt, ghê tởm, đến nỗi không ai biết chúng con mà không gớm ghét, không? Ai có thể nói đến hay tưởng tượng ra điều gì điên dại hơn? Nhưng nếu tiếng khen là bạn đường thông thường và bó buộc của một đời sống tốt lành và của các việc thiện hảo, thì người ta không được khước từ sự đồng hành của nó, cũng như chính đời sống tốt lành. Tuy nhiên, con chỉ có thể nhận biết mình chịu đựng một cách thản nhiên hay bất mãn sự mất mát một vật gì, khi nó không còn nữa mà thôi.

61               Về loại cám dỗ này, lạy Chúa, con phải xưng tụng thể nào, nếu không phải là con ưa thích tiếng khen? Nhưng con lại ưa thích chân lý hơn tiếng khen, hay sao?130 Vì nếu người ta đề nghị cho con chọn giữa tiếng khen của thiên hạ vì con đã điên cuồng và lầm lạc trong mọi vấn đề, và sự chê trách của thiên hạ vì con đã kiên tâm và nắm chắc chân lý, thì con biết rõ con sẽ chọn đàng nào. Tuy nhiên, con không  muốn rằng: Về bất cứ việc lành nào của con, sự tán thành của kẻ khác gia tăng niềm vui cho con. Con cũng thú thức là sự tán thành gia tăng thì sự chê trách giảm thiểu niềm vui đó.

Khi sự khốn nạn đó làm con bối rối, thì một lý do chữa mình len lỏi vào trí óc con, nó có giá trị thế nào, có Chúa biết, lạy Chúa, nó làm cho con lưỡng lự. Vì thực ra, Chúa đã truyền dạy chúng con không những phải tiết độ là phải hãm tình yêu về những sự gì; nhưng cũng phải công bình,  nghĩa là phải hướng tình yêu đó về đâu? Lại không những Chúa đã muốn cho chúng con yêu mến Chúa, mà còn yêu thương tha nhân131; cho nên con thường nghĩ: Con vui mừng về tiến bộ hay về hy vọng của tha nhân, khi con lấy làm khoái chí về tiếng khen sáng suốt của họ, khi nghe thấy họ chỉ trích điều mà họ không biết hay là điều lành.

Có lần con cũng buồn về những tiếng người ta khen con, hoặc vì người ta khen nơi con về những điều làm cho chính con buồn, hoặc vì người ta đánh giá quá cao những việc lành tầm thường, và ít quan trọng. Nhưng biết đâu con có cảm tưởng như vậy vì con không chấp nhận kẻ khen con lại trái với cảm nghĩ của con về mình - không phải vì lợi ích của y làm con xúc động, mà vì các sự lành nơi con làm con vui mừng hơn, khi chúng cũng làm cho kẻ khác được vui, hay sao? Vì m6ọt cách nào đó, con không cảm thấy được khen thực sự, khi tiếng khen không hợp với quan niệm mà con có về mình, vì hoặc người ta khen điều con chê, hoặc người ta khen quá điều con ít thích. Có phải về điểm này, con không được chắc chắn về con hay sao?

62               Nhưng trong Chúa, lạy Chúa chân thật, con thấy rõ là các tiếng khen của người ta phải làm cho con chăm chú đến lợi ích tha nhân, chứ không phải đến lợi ích của con. Và con có như vậy không, con không biết? Trong việc này, con ít biết mình hơn là biết Chúa. Lạy Chúa, xin Chúa soi cho con biết mình con, để con bày tỏ cho các anh em đang sẵn sàng cầu nguyện cho con, những thương tích mà con khám phá ra được nơi con. Xin cho con biết chất vấn con một cách kỹ lưỡng hơn. Nếu lợi ích tha nhân làm cho con cảm động khi được tiếng khen, thì sao con lại ít cảm động khi một người nào khác bị khiển trách một cách bất công, hơn là khi chính con bị? Tại sao con bị xúc động, về cái nhục nhã mà con phải chịu, hơn là tha nhân phải chịu trước mặt con, cùng một cách bất công như vậy? Con không biết điều đó hay sao? Có phải kết luận rằng: Chính con tự lừa dối mình132, và từ tâm hồn cho đến lời nói, con không thi hành chân lý133 hay sao? Lạy Chúa, xin lánh xa con sự điên cuồng này, kẻo lời nói của con trở thành một thứ dầu thơm của tội nhân, để xức lên đầu con chăng?134

XXXVIII-63 Con nghèo khó và bần cùng135, chỉ có tiến bộ khi âm thầm than thở, chán nản về con và tìm kiếm lòng thân xác của Chúa, cho đến khi sự khiếm khuyết của con được tu bổ và kiện toàn trong sự bình an, mà mắt kẻ kiêu ngạo không thấy được. Nhưng lời nói từ miệng chúng con mà ra và các việc làm, mà mọi người đều biết, gây nên một chước cám dỗ rất nguy hiểm bởi ưa thích tiếng khen: Để đề cao cá nhân mình, nó cám dỗ con chính lúc con chỉ trích nó nơi con và bởi chính việc chỉ trích đó. Nhiều khi vì một tính khoe khoang xảo quyệt, con người ta lấy làm vinh dự một cách hão huyền hơn nữa bởi chính việc khinh chê vinh dự hão huyền. Cho nên họ lấy làm vinh dự không phải do việc khinh chê vinh dự: Vì người ta không khinh chê nó, khi lấy làm hãnh diện về nó.

 

Tính tự mãn hão huyền


XXXIX-64          Trong đáy lòng chúng con, vâng tận đáy lòng chúng con, còn có một chước cám dỗ xấu xa cùng loại đó, nó hủ hoá những kẻ tự mãn về mình, dù họ không thoả mãn, hoặc làm bất mãn tha nhân và cũng chẳng ra công thoả mãn kẻ khác. Những kẻ tự mãn làm cho Chúa bất mãn rất nhiều, không những về những điều không tốt mà họ cho là tốt; mà còn về những ơn của Chúa, mà họ cho là của họ; hoặc họ nhận là của Chúa, nhưng lại cho là do công lênh của họ; hoặc họ nhận là do ơn Chúa, nhưng lại không muốn cho kẻ khác chung vui; lại còn ghen tỵ ơn Chúa nơi kẻ khác nữa. trong các nguy hiểm và thử thách đó, Chúa nhìn thấy lòng con run rẩy, và con cảm thấy các thương tích của con được Chúa không ngừng cứu chữa, hơn là không bị mắc phải bao giờ.
 
 

TÓM LƯỢC VÀ KẾT THÚC QUYỂN MƯỜI


XL-65        Ôi, chân lý, có bao giờ Chúa thôi kèm con, để dạy con phải làm điều gì, tìm điều gì, mỗi khi con có thể đệ lên Chúa những thiển ý khiêm tốn của con và cầu xin tôn ý Chúa, đâu?

Con đã hết sức lợi dụng giác quan để rảo khắp thế giới bên ngoài và quan sát sinh hoạt của thân xác con và cả các giác quan của con nữa. Rồi con đã tiến vào những nơi sâu thẳm của ký ức, có những khu vực mênh mông, với vô vàn tài liệu chất chứa lạ lùng. Con xem xét và lấy làm sửng sốt: Con không thể nhận ra được vật nào, mà không thấy Chúa, nhưng con không tìm thấy vật nào là Chúa.

Cũng không phải chính con (là Chúa). Con là người tìm kiếm, là người đã duyệt qua các vật đó, và đã ra công phân biệt và đánh giá mỗi vật theo đúng địa vị của nó; có thứ con đón nhận và tra hỏi ở các giác quan loan báo, có thứ con cảm thấy lẫn lộn với người con; con lại phân tích và kiểm soát chính các cơ quan loan báo; và trong các kho tàng bao la của ký ức, con kỹ lưỡng xem xét vật này, lưu lại vật nọ, rút ra vật khác. Không, cũng không phải chính con (là Chúa), khi làm các việc đó, chính năng lực đó cũng không phải là Chúa. Vì Chúa là ánh sáng thường trực136, mà con thỉnh giáo về hiện hữu, bản chất và giá trị của các sự vật; và con nghe Chúa dạy bảo và phán truyền. Con năng làm như vậy; con lấy đó làm vui thích, và, mỗi khi các công việc cần thiết cho con được rảnh rang đôi chút, con lại tìm đến niềm vui thích đó, làm nơi ẩn náu của con. Trong các sự vật mà con đã duyệt qua, nhờ có Chúa chỉ giáo, con không tìm được nơi nào chắc chắn cho linh hồn con, ngoài Chúa, Đấng tập trung các tâm tư phân tán của con và không có gì nơi con xa lìa Chúa nữa. Có lần Chúa đã đưa con tới một tâm trạng thâm thuý lạ lùng, một niềm êm dịu nào con không biết, mà nếu nó đạt tới cực độ trong con, thì sẽ là cái tì, nào con có rõ, không còn giống với đời này nữa. Nhưng do trọng lực khốn cùng, con lại sa vào những sự đời này, bị công việc quen thuộc thu thút và cầm giữ. Và con càng khóc nhiều, càng bị giữ riết. Gánh nặng của thói quen mạnh thế đó! Con có thể ở nơi con không muốn, con muốn ở nơi con không có thể: Hai đàng cùng khốn khổ.

XLI-66       Con nên con đã kiểm điểm về các nhu nhược tội lỗi của con dưới ba hình thức đam mê và con đã kêu xin Chúa ra tay cứu chữa con. Vì mặc dầu với con tim bị thương tích, con đã nhìn thấy ánh huy hoàng của Chúa và vì bị ánh sáng đó đẩy lui, con đã kêu lên: Ai có thể tới đó được? Con bị đẩy xa mắt Chúa137. Chúa là chân lý điều hành mọi sự. Phần con, theo tính tham lam của mình, con đã không muốn mất Chúa, nhưng là muốn chiếm hữu sự giả dối cùng với Chúa. Cũng như  chẳng ai muốn nói dối đến nỗi chính mình không còn biết cái gì là thật nữa. Cho nên con đã mất Chúa, vì Chúa đâu có khứng chịu cho người ta chiếm hữu cùng với sự giả dối?

 

Phương pháp sai lầm của tân Platon để tới Chúa


XLII-67     Con có thể tìm được ai để hoà giải con với Chúa? Con phải nhờ đến các thiên thần hay sao? Bằng thứ kinh gì? Với những nghi thức nào? Có nhiều người ra công trở lại với Chúa mà tự mình không thể được, như con nghe nói, họ đã theo lối đó và đã đâm ra ham mê những thị kiến kỳ quái: Huyền ảo đã là công xá xứng đáng cho họ. Là vì những kẻ kiêu ngạo này, khi tìm Chúa, đã ưỡn ngực khoe khoa học, thay vì đấm ngực, và, do quan hệ tư tưởng giống nhau, họ đã lôi kéo các quyền lực của không gian138 làm phe đảng và đồng minh trong tội kiêu ngạo của họ; họ bị chúng lừa dối bằng những ma lực của chúng. Họ ra sức tìm cho được một vị trung gian để thanh tẩy họ, nhưng ngài không ở đó, ở đó chỉ có Satan giả mạo thiên thần ánh sáng139. Vì nó không có xác thịt, nên nó thu hút rất mạnh xác thịt kiêu ngạo của họ!140

Nhưng chúng chỉ là loài hay chết và là tội nhân. Còn Chúa, lạy Chúa, Đấng mà họ ngạo mạn tìm cách được làm hoà, Chúa là Đấng bất tử và vô tội. Vậy kẻ làm trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại141 phải có cái gì giống Thiên Chúa và cái gì giống loài người. Nếu chỉ giống loài người, thì lại xa cách Thiên Chúa, mà nếu chỉ giống Thiên Chúa, thì lại xa cách loài người. Như vậy, không làm trung gian được. cho nên, đứa trung gian nguỵ tạo kia, mà ý định nhiệm mầu của Chúa đã cho phép lừa dối các kẻ kiêu ngạo, chỉ có một điều làm cho nó giống loài người, là sự tội. Nó cũng muốn cho người ta thấy nó có cái gì giống Thiên Chúa: Vì không mang xác thịt hay chết, nó khoe mình là bất tử. Nhưng vì công xá của tội lỗi là sự chết142, nó cùng chung với loài người, điều làm cho nó bị án phải chết muôn đời với họ.

 

Chỉ có Đức Giêsu Kitô là trung gian đích thực


XLIII-68    Đấng trung gian đích thực mà vì lòng thương xót nhiệm mầu Cha đã sai đến và đã tỏ ra cho loài người, để họ học đòi gương khiêm tốn của Người, Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại, đó là Con người Giêsu Kitô143. Người đã xuất hiện giữa tội nhân hay chết và Đấng công chính bất tử. Người hay chết như mọi người, Người công chính như Thiên Chúa. Và vì phần thưởng của sự công chính là sự sống và bình an, nên Người đã nhờ sự công chính kết hợp Người với Thiên Chúa, mà công chính hoá và cứu các tội nhân khỏi chính cái chết, mà Người đã muốn chung phần với họ. Người đã được biểu lộ cho các thánh nhân ngày trước, để chính các ngài được cứu rỗi nhờ đức tin vào cuộc tử nạn quá khứ của Người vậy. Nhân danh là Con Người, Người mới là trung gian, còn nhân danh là Ngôi lời, Người không phải là trung gian, vì ngang hàng với Thiên Chúa, đồng thời cũng là một Thiên Chúa144.

69               Lạy Cha nhân lành, Cha đã yêu thương chúng con dường nào, vì đã chẳng dung thứ Con một mình, Cha lại phó Người cho các tội nhân là chúng con!145 Cha đã yêu thương chúng con dường nào, bởi lẽ vì chúng con mà Người đã không tự đại kể mình ngang hàng với Cha, Người đã vâng phục cho đến chết trên khổ giá146. Giữa loài hay chết, chỉ có một mình Người được tự do147 có quyền bỏ mạng sống mình, rồi có quyền lấy lại148. Vì chúng con, trước mặt Cha, Người đã là Đấng chiến thắng và là lễ vật hy sinh, chiến thắng vì là lễ vật. Vì chúng con, trước mặt Cha, Người đã là tư tế và là hy lễ, tư tế vì là hy lễ. Người làm cho chúng con từ bậc nô lệ trở nên con cái Cha, vì Người được sinh ra bởi Cha, nhưng lại làm nô lệ chúng con. Nên con có lý mà hy vọng chắc chắn ở nơi Người rằng: Cha sẽ nhờ Người mà chữa lành mọi bệnh tật của con, vì Người đang ngự bên hữu Cha và cầu bầu cho chúng con149: Chẳng vậy, con tuyệt vọng mất. Vì bệnh tật của con nhiều và nặng; vâng, vừa nhiều, vừa nặng; nhưng thuốc Cha ban còn mạnh hơn nhiều. Chúng con có thể nghĩ rằng: Ngôi Lời của Cha ở xa mọi liên kết với nhân loại, và sẽ làm cho chúng con thất vọng về số phận mình, nếu Người đã không mặc lấy xác thịt và ở giữa chúng con150.

70               Kinh hoàng vì tội lỗi và sự khốn khổ nặng nề của con, lòng con xao xuyến quá chừng và một phen con đã tưởng trốn vào nơi thanh vắng; nhưng Cha đã ngăn con lại và đã làm cho con vững dạ, với lời này: "Đức Kitô đã chịu chết thay cho mọi người, chính là để ai nấy sống thì đừng sống cho mình nữa, nhưng hãy sống cho Đấng đã chết cho mình"151. Lạy Chúa, này con xin dốc tất cả ưu tư của con cho Chúa152, để được sống và chiêm ngưỡng những kỳ công do thánh chỉ của Chúa153. Chúa biết rõ con dốt nát và yếu đuối. Xin Chúa dạy con và chữa con154. Con một Chúa là nơi chứa ẩn mọi kho tàng khôn ngoan thông thái155, đã lấy máu mình cứu chuộc con. Bọn kiêu ngạo đừng nhục mạ con nữa, vì con suy nghĩ đến Đấng làm giá chuộc con, con muốn ăn Người, uống Người, phân phát Người, và trong cơn nghèo khó của con, con ước ao được no thoả về Người, giữa những kẻ được ăn Người và được no thoả về Người. Và những kẻ tìm kiếm Chúa sẽ ca tụng Chúa!156
 
*************************

 

QUYỂN MƯỜI MỘT: LẠI CẢM TẠ CHÚA

 

Augutin mắc nợ với Chúa


I-1              Lạy Chúa, Chúa là Đấng vĩnh cửu, thì Chúa có biết những điều con nói cho Chúa không? Hoặc là những sự xảy ra trong thời gian, thì Chúa có nhìn thấy chúng trong thời gian không? Vậy tại sao con kể bao nhiêu việc tỉ mỉ như vậy? Hẳn là không phải để cho Chúa biết các việc ấy, nhưng để khêu gợi trong lòng con và trong lòng những kẻ đọc sách này một tình yêu mãnh liệt, để hết thảy chúng con kêu lên: Chúa cao cả và rất đáng ngợi khen!1 Con đã nói và con sẽ nói là vì yêu mến tình thương của Chúa, mà con làm việc đó. Vì ngay việc chúng con cầu nguyện, mà chân lý còn bảo: Cha các con đã biết các con cần gì, trước khi các con kêu xin Người2. Cho nên khi xưng tụng Chúa về các sự khốn khó của chúng con và các ơn huệ của Chúa ban cho chúng con3. là chúng con mở lòng mình ra, để Chúa hoàn tất việc giải phóng chúng con, vì Chúa đã khởi sự, và để chúng con hết nỗi khốn nạn nơi chúng con và được hạnh phúc trong Chúa, vì Chúa đã kêu gọi chúng con phải có tinh thần nghèo khó, phải hiền từ, phải khóc lóc, phải đói khát sự công chính, phải thương xót, phải có lòng thanh sạch và phải hiếu hoà4.

Vậy, con đã kể cho Chúa nhiều sự, như con đã có thể và đã m,; vì chính Chúa, là Đấng đầu tiên, đã muốn cho con xưng tụng Chúa, lạy Chúa Trời con, vì Chúa tốt lành, vì ơn Chúa, miên man vạn đại!5

II-2   Nhưng khi nào con có đủ lực dùng ngòi bút để liệt kê tất cả những lời khuyên bảo, đe loi, yên ủi và chỉ giáo, mà Chúa đã sử dụng để hướng dẫn con rao giảng lời Chúa và phân phát bí tích cho dân Chúa? Và nếu con có đủ lực để liệt kê chi tiết các sự ấy, thì thời giờ lại là điều rất đắt đỏ cho con.

 

Augutin đề ra một phận sự mới


Đã từ lâu, con nóng lòng ước ao suy gẫm luật Chúa, và, về mục này, xưng tụng với Chúa sự hiểu biết và sự dốt nát của con, những ơn soi sáng đầu tiên của Chúa và những sự tối tăm còn lại của con, cho đến khi sự yếu đuối của con bị sức mạnh của Chúa nuốt đi. Và con không muốn phí vào việc nào khác, những giờ rảnh còn lại, sau nhu cầu khôi phục sức khoẻ, làm việc trí óc, phục vụ tha nhân, phục vụ bó buộc phải làm, hoặc tự nguyện mà thôi.

 

Augutin xin Chúa giúp thực hiện


3                 Lạy Chúa Trời con, xin hãy đ63 ý đến lời con nguyện6, xin lòng xót thương của Chúa hãy đoái nghe sở nguyện của con7, nó khao khát không phải chỉ vì lợi ích riêng con, mà cũng muốn phục vụ đức bác ái huynh đệ của con nữa: Và Chúa nhìn thấy đúng như vậy trong lòng con. Con xin hiến tế Chúa tư tưởng và lời nói, để làm nô lệ Chúa, xin Chúa ban vật liệu để con dâng tế Chúa. Vì con khốn khó bần cùng8; mà Chúa thì rộng rãi với mọi kẻ kêu cầu Chúa9; Chúa không phải lo gì, Chúa lo lắng cho chúng con. Xin Chúa thanh tẩy bề trong bề ngoài miệng lưỡi con, khỏi mọi sự táo bạo và mọi sự gian dối. Chớ gì Thánh Kinh của Chúa trở thành niềm khoái lạc trong sạch của con, và chớ gì con không bị lừa dối trong đó, mà cũng chẳng nhân đó mà lừa dối kẻ khác. Lạy Chúa, xin hãy để ý và thương xót; lạy Chúa Trời con, Chúa là ánh sáng của kẻ mù, và sức mạnh của kẻ yếu; đồng thời cũng là ánh sáng của kẻ xem thấy và sức lực của kẻ mạnh, xin hãy để ý đến linh hồn con, và hãy nghe nó từ vực sâu kêu lên Chúa10. Vì nếu tai Chúa không hiện diện cả ở vực sâu, thì chúng con sẽ đi đâu? Chúng con sẽ kêu vào đâu?

Ngày là của Chúa, đêm cũng là của Chúa: Các giây phút trôi đi theo ý Chúa. Cho nên, xin Chúa rộng ban thời giờ cho chúng con được suy gẫm về những điều bí mật của luật Chúa và đừng đóng luật đó lại cho những kẻ gõ cửa nó. Vì không phải là vô ích mà Chúa đã muốn cho bao nhiêu trang sách được viết ra, hoặc là các rừng rậm đó không có những con nai riêng đến trú ẩn và được trấn tĩnh, đi lại và gặm cỏ, nằm nghỉ và nhai lại11 hay sao? Chúa ơi, xin hoàn tất12 việc Chúa nơi con và soi sáng các trang sách đó cho con. Này, lời Chúa là niềm vui thú của con, lời Chúa vượt quá mọi khoái lạc. Xin ban cho con điều con yêu mến, vì con yêu mến lời Chúa. Tình yêu đó chính Chúa đã ban cho con. Xin đừng làm ngơ ơn Chúa đã ban cho con, cũng đừng khinh chê cây cỏ của Chúa, khi nó khát khao. Chớ gì con được xưng tụng với Chúa tất cả những gì con tìm được ở Kinh Thánh Chúa! Chớ gì con được nghe lời khen ngợi Chúa13, được say sưa Chúa và được xem thấy những việc lạ lùng của luật Chúa14, từ Nguyên thuỷ, khi Chúa dựng nên trời và đất, cho đến khi được đồng cai trị đời đời với Chúa, trong thành thánh Chúa.

4                 Lạy Chúa, xin thương xót con và đáp lại ước nguyện của con15. Vì con tưởng con không ước ao gừ gì về thế gian, như vàng bạc, ngọc trai, hay áo quần sang trọng, hay danh vọng chức quyền, hay thú vui xác thịt, hay nhu cầu thân thể và đời sống lữ lành của chúng con: Tất cả các sự ấy đã được ban cho chúng con, là những kẻ tìm tòi Nước Chúa và sự công chính của Người16.

Lạy Chúa con, xin hãy coi: Từ đâu phát xuất ước vọng của con? Kẻ dữ kể cho con những chuyện vui chơi của chúng nhưng không có gì giống như luật Chúa17, lạy Chúa, luật Chúa là nơi phát xuất ước vọng của con. Lạy Cha, xin hãy con, hãy nhìn, hãy xem và hãy ưng thuận. Chớ gì tôn nhan hiền hậu Chúa cho phép con được sủng ái trước mặt Chúa, để khi con gõ cửa, thì thâm cung lời Chúa được mở ra cho con. Con nài xin Chúa, vì Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con, Người của tay hữu Chúa18, Người là Con Người, mà Chúa đã công nhận là trung gian giữa Chúa và chúng con, nhờ Người, Chúa đã tìm chúng con, khi chúng con không tìm Chúa, nhưng Chúa đã tìm chúng con để chúng con tìm Chúa; vì Ngôi Lời, nhờ Người Chúa đã làm nên mọi sự, trong đó có con; vì Con một Chúa, nhờ Người Chúa đã kêu gọi dân tín hữu vào chức nghĩa tử19, trong đó có con; vâng, con nài xin Chúa, vì Đấng ngự bên hữu Chúa, và cầu bầu cho chúng con20, nơi Người giấu ẩn mọi kho tàng khôn ngoan thông thái21. Con tìm các kho đó trong các sách của Chúa. Maisen đã chép về Người22: Chính Người đã nói điều đó, chính sự thật đã nói điều đó.

 

CHÚ GIẢI CÂU 1 SÁCH KHỞI NGUYÊN


Không có Maisen, thì một mình Thiên Chúa có thể soi cho Augutin hiểu nghĩa câu Sách Thánh

III-5 Xin cho con được nghe và hiểu: "Trong nguyên thuỷ, Chúa đã dựng nên trời và đất"23 làm sao? Maisen đã viết như vậy, ông đã viết và đã đi khỏi, ông đã qua khỏi đây - nơi có Chúa - để đi tới Chúa, và bây giờ không còn ông ở trước mặt con nữa. Vì nếu ông còn ở đây, con sẽ giữ ông lại, và hỏi ông; con sẽ nhân danh Chúa mà nài xin ông giải thích cho con các lời đó và con sẽ lắng tai thân xác để nghe các lời phát xuất từ miệng ông. Nếu ông nói tiếng Do Thái, lời ông sẽ đập vào giác quan của con, cũng vô ích, và từ đó không có gì đụng tới trí khôn con; nhưng nếu ông nói tiếng Latin, thì con sẽ biết ông nói gì. Nhưng bởi đây con biết được là ông nói sự thật hay không? Nếu con biết được điều ấy, thì có phải nhờ ông mà con biết được không? Hẳn là từ bên trong con, từ thâm cung của tư tưởng con, mà chân lý - không thuộc tiếng Do Thái, Hy Lạp, Latin hay mọi rợ, cũng không cần đến miệng, lưỡi, cũng chẳng làm vang động các vần - mà chân lý sẽ bảo con: "Ông ấy nói sự thật". Và lập tức được chắc chắn tin cậy, con sẽ lắp lại cho tôi tớ Chúa: "Ông nói sự thật".

Nhưng vì con không thể hỏi ông, cho nên con sẽ hỏi Chúa, ôi chân lý, mà ông đã được tràn đầy, xin Chúa tha tội cho con24. Chúa đã cho tôi tớ Chúa nói được các lời đó, thì xin cũng cho con hiểu được các lời đó.

 

Trời và đất tỏ rõ là tạo vật


IV-6 Vậy thì có trời và đất, chúng đều kêu lên rằng: Chúng là tạo vật, vì chúng là loài hay thay đổi. Thật vậy, một vật không phải là thụ tạo mà hiện hữu, thì trong nó không thể có cái gì mà trước kia nó không có, chẳng vậy, là dấu nó hay thay đổi. Chúng cũng kêu lên rằng: Chúng đã không làm nên chúng: "Chúng tôi hiện hữu là vì chúng tôi được tạo thành; nên chúng tôi đã không hiện hữu trước khi được hiện hữu, như thể chúng tôi đã tự tạo nên mình". Và tiếng nói của chúng là việc hiển hiên.

Vậy, lạy Chúa, chính Chúa đã làm nên chúng: Chúa xinh đẹp, vì chúng xinh đẹp; Chúa tốt lành, vì chúng tốt lành; Chúa hiện hữu, vì chúng hiện hữu. Nhưng chúng không xinh đẹp, không tốt lành và không hiện hữu cùng một mức độ như Chúa, là Hoá công của chúng; sánh với Chúa, chúng không xinh đẹp, không tốt lành và không hiện hữu.

Chúng con biết các điều ấy và chúng con cảm tạ Chúa, nhưng sánh với sự hiểu biết của Chúa, thì sự hiểu biết của chúng con là không biết gì.

 

Việc tạo dựng hoàn toàn là do lời Chúa


V-7   Nhưng Chúa đã làm nên trời và đất thế nào? Chúa đã dùng máy móc nào mà làm một việc vĩ đại như vậy? Vì Chúa không như nhà nghệ sĩ, lấy một vật làm nên một vật, tuỳ theo sự tưởng tượng của tâm hồn y. Y có khả năng áp đặt một hình dạng nào đó, mà y nhìn thấy trong mình, nhờ con mắt bề trong. Khả năng đó bởi đâu y có, nếu không phải bởi Chúa đã dựng nên hay sao? Nhưng y áp đặt hình dạng đó cho một vật chất đã có sẵn, đã có sự hiện hữu của mình, như đất, đá, gỗ, vàng hay vật nào khác vậy. Và bởi đâu mà các vật đó hiện hữu, nếu không phải là vì Chúa đã tạo dựng nên chúng hay sao? Chính Chúa đã tạo cho nghệ sĩ một thân xác và một linh hồn, để điều khiển các chi thể của y; chính Chúa đã tạo cho y một vật liệu để y chế biến; chính Chúa đã tạo cho y một trí khôn để hiểu biết nghệ thuật và nhìn thấy trong mình y điều mà y muốn thực hiện ra bên ngoài; chính Chúa đã tạo cho y các giác quan, để nhờ trung gian của chúng y chuyển từ tâm hồn vào vật chất điều mà y muốn làm, và để đạt cho tâm hồn điều mà y đã làm, hầu tâm hồn tham khảo ý kiến của chân lý, là quan xét nội tại, xem điều y đã làm cho được hoàn hảo hay không?

Tất cả các vật này đều ca tụng Chúa như Đấng tạo dựng muôn loài. Nhưng Chúa tạo dựng chúng làm sao, lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng trời và đất làm sao? Hẳn là không phải ở trên trời hay ở dưới đất, mà Chúa đã tạo dựng trời và đất; cũng không  phải trong không khí hay ở dưới nước, vì khí và nước đều thuộc về trời và đất; cũng không phải trong vũ trụ mà Chúa đã tạo dựng vũ trụ, trước khi vũ trụ được tạo dựng để hiện hữu. Chúa cũng chẳng có vật gì trong tay, để lấy nó làm nền trời và đất: Vì bởi đâu Chúa có vật gì không do Chúa tạo dựng, để dùng mà làm nên vật khác? Vì có vật gì hiện hữu mà không do sự hiện hữu của Chúa?

Vậy Chúa đã nói và mọi sự đã thành, và do một lời Chúa đã làm nên chúng!25

 

Nghĩ sao về Lời Chúa

 

VI-8 Nhưng Chúa đã nói làm sao? Có phải cũng như lời nói phát xuất từ đám mây: "Này là Con Ta yêu dấu"26 chăng? Lời đó đã vang lên rồi thôi đi, đã bắt đầu rồi chấm dứt. Các vần của nó đã phát âm rồi qua đi, vần thứ hai sau vần thứ nhất, vần thứ ba sau vần thứ hai, và cứ thứ tự như vậy, cho đến vần cuối cùng sau các vần khác, và sự im lặng sau vần cuối cùng. Thật là rõ ràng và minh bạch, là lời đó phát xuất từ sự vận chuyển nhất thời của một tạo vật phục vụ ý muốn đời đời của Chúa. Và các lời này của Chúa được cấu tạo nhất thời, nhờ tai bên ngoài chuyển cho lý trí khôn ngoan, mà lỗ tai bề trong hướng về Lời vĩnh cửu của Chúa. Nhưng lý trí đã so sánh các lời vang dội nhất thời đó với Lời Chúa trong sự tĩnh mịch vô cùng, thì nói lên rằng: "Thật khác, thật khác xa!". Các lời này kém xa tôi, chúng là hư vô, vì chúng tẩu thoát và qua đi, còn Lời của Chúa cao trọng hơn tôi, thì tồn tại muôn đời27

Vậy nếu bằng những lời vang dội và qua đi Chúa đã phán dạy phải có trời và đất, và Chúa đã tạo dựng trời và đất như vậy, thì hẳn là trước khi có trời và đất, đã có một vật thể nào rồi, nhờ sự chuyển động nhất thời của nó mà Lời nói kia được vang dội trong thời gian. Nhưng không có vật thể nào trước khi có trời và đất; hoặc nếu có, thì hẳn là do Chúa làm nên, mà không dùng đến Lời nói qua đi, hầu làm ra một tiếng nói qua đi, để Chúa phán dạy phải có trời và đất. Vì vật thể đó là cái gì đi nữa, nếu không do Chúa dựng nên, thì nó không hề có. Vậy Chúa đã dùng lời nào mà phán dạy phải có một vật thể để làm nên các lời kia?

VII-9          Như vậy, là Chúa kêu gọi chúng con để hiểu biết về Ngôi Lời - là Thiên Chúa ở cùng Chúa và cũng là Thiên Chúa - Người được nói lên tự trước vô cùng và trong Người mọi sự được nói lên tự trước vô cùng. Vì đây không phải là một lời nói tầm thường, gồm có các vấn đề tiếp theo thứ tự: Một vần vang lên rồi thôi đi, để một vần khác được vang lên, cho tất cả mọi vần có thể được vang lên; mà là tất cả mọi vần được vang lên đồng thời và vĩnh cửu, chẳng vậy, chỉ là nhất thời và hay thay đuổi, chứ không phải là vĩnh cửu thật sự, là thật sự bất tử.

Con biết điều đó, lạy Chúa con, và con cảm tạ Chúa28. Con biết điều đó, và con xưng tụng với Chúa, lạy Chúa; cũng biết và ngợi khen Chúa với con tất cả những kẻ không vô ơn đối với chân lý vững bền. Chúng con biết, lạy Chúa. Chúng con biết lạy Chúa, chúng con biết rằng: Vật gì trước kia có, mà bây giờ không còn nữa, thì gọi là đã chết; mà vật gì trước kia không có, bây giờ mới có, thì gọi là được sinh ra. Nhưng nơi Lời Chúa không có gì là qua đi hay kế tiếp, vì Lời Chúa thật là bất tử và vĩnh cửu. Cho nên, nhờ Ngôi Lời vĩnh cửu như Chúa, mà, đồng thời và từ muôn thuở, Chúa  nói lên mọi sự Chúa nói, và được tác thành những gì Chúa phán dạy phải được tác thành; và Chúa chỉ tạo dựng nhờ Ngôi Lời mà thôi. Tuy nhiên các vật mà Chúa tạo dựng nhờ Ngôi Lời không hiện hữu đồng thời và từ muôn thuở.

VIII-10      Tại sao vậy, lạy Chúa Trời con, con xin hỏi? Con hiểu một chút, nhưng con không biết nói làm sao? Có phải là vật nào bắt đầu có hay thôi có, thì chỉ bắt đầu hay thôi, khi tư tưởng vĩnh cửu của Chúa biết nó phải bắt đầu có, hay phải thôi đi; còn nơi tư tưởng vĩnh cửu của Chúa, thì không có cái gì bắt đầu, hay thôi đi cả. Tư tưởng đó là Ngôi Lời của Chúa, và là Đấng nguyên thuỷ, đang nói với chúng con29. Người đã nói như vậy trong Phúc Âm, nhờ tiếng nói của xác thịt, và tiếng đó đã vang ra bên ngoài tới tai mọi người, để họ tin Người, và tìm kiếm Người ở trong mình và thầy được Người trong chân lý vĩnh cửu, nơi đây Người là thầy dạy tốt lành và duy nhất30, hằng dạy dỗ các môn đệ Người.

Nơi đây, con nghe tiếng Chúa, lạy Chúa, bảo con rằng kẻ nào nói cho chúng con là dạy dỗ chúng con; còn kẻ nào không dạy dỗ chúng con, dù có nói, cũng không nói cho chúng con. Vậy ai dạy chúng con, nếu không phải là chân lý bất dịch hay sao? Vì khi được tạo vật hay biến đổi nhắc nhở, chúng con được đưa tới chân lý bất biến, nơi đây chúng con thật sự học hỏi, khi được đứng trước mặt Người và nghe lời Người và chúng con được vui mừng nghe thấy tiếng của Lang quân31, chúng con trở về với nguồn gốc của chúng con. Vì thế, mà Người là Nguyên thuỷ, vì nếu Người không tồn tại, thì chúng con, trong lúc lầm lạc, sẽ không biết đâu mà trở lại. Vậy khi chúng con bỏ lầm lạc mà trở lại, hẳn là chúng con trở lại nhờ học biết; mà cho được học biết, thì phải có người dạy bảo chúng con, vì Người là Nguyên thuỷ và đang nói với chúng con.

IX-11         Nhờ Nguyên thuỷ này, lạy Chúa, Chúa đã dựng nên trời và đất, tức là nhờ Ngôi Lời Chúa, Con Chúa, Sức mạnh của Chúa, sự Khôn ngoan của Chúa, sự Chân thật của Chúa, nói năng lạ lùng. Ai sẽ hiểu được sự lạ đó? Ai sẽ kể ra được? Có phải là sự lạ đó, thỉnh thoảng soi sáng cho con và đánh động lòng con, mà không làm cho nó bị thương tích, không? Con kinh khiếp và trìu mến: Kinh khiếp vì cảm thấy mình khác biệt sự lạ đó; trìu mến vì cảm thấy mình giống sự lạ đó. Đó là sự Khôn Ngoan phải không? Chính đó là sự Khôn Ngoan, thỉnh thoảng soi sáng cho con, đánh tan sương mù của con, rồi lại che phủ con, khi con tỏ ra nhu nhược bởi sự khốn nạn nặng nề tăm tối của con, vì khí lực của con trong bĩ cực bị hao mòn32, đến nỗi con không còn mang nổi sự thiện của con, cho tới khi Chúa, lạy Chúa, là Đấng đã khoan thứ các sự bất chính của con, cũng chữa lành các sự yếu đuối của con nữa, vì Chúa sẽ cứu mạng sống con khỏi hư mất, sẽ đội trên đầu con triều thiên ân nghĩa và xót thương, sẽ cho ước nguyện con no đầy hạnh phúc, vì tuổi xuân con sẽ được đổi mới như phượng hoàng hồi xuân33. Vì chúng con hy vọng được cứu rỗi và chúng con nhẫn nại trông chờ các điều Chúa đã hứa34. Kẻ nào có thể thì hãy nghe Chúa phán dạy trong lòng mình; phần con tín nhiệm vào lời phán định của Chúa, mà kêu lên rằng: Sự nghiệp của Chúa nhiều biết là bao, lạy Chúa, thay thảy Chúa đã làm theo sự khôn ngoan!35 Và sự khôn ngoan đó là Nguyên thuỷ và trong Nguyên thuỷ đó Chúa đã dựng nên trời và đất.

 

Những vấn  nạn chống lại ý niệm tạo dựng


X-12          Về vấn đề này, há chẳng phải vì quá cổ lỗ36 mà có những kẻ bảo chúng con rằng: Trước khi dựng nên trời và đất, Thiên Chúa làm gì? Họ nói: Vì nếu Ngài đã ở nhưng, không làm gì, thì tại sao Ngài không ở mãi như vậy về sau, cũng như trước kia Ngài đã kiêng mọi việc? Vì nếu trong Thiên Chúa xảy ra một cử động mới, một ý muốn mới, nhằm làm nên một tạo vật, mà trước kia Ngài chưa hề làm, thì dung hoà làm sao được sự vĩnh cửu đích thực với sự xuất hiện một ý muốn, mà trước kia không có? Thật vậy, ý muốn của Thiên Chúa không phải là một tạo vật; mà có trước tạo vật, và chẳng có gì được tạo dựng nếu Đấng hoá công không muốn trước. Cho nên ý muốn thuộc về chính bản thể của Người. Nếu trong bản thể của Thiên Chúa xảy ra cái gì mà trước kia không có, thì thực sự không nói được rằng: Bản thể đó là vĩnh cửu; mà nếu từ trước vô cùng Thiên Chúa đã muốn có tạo vật, thì sao tạo vật lại không vĩnh cửu?37

 

Các vấn nạn này do quan niệm sai lầm về vĩnh cửu và thời gian


XI-13         Những kẻ nói như vậy chưa hiểu Chúa, ôi sự khôn ngoan của Thiên Chúa38, ánh sáng các tâm hồn! Họ chưa hiểu những sự xảy ra bởi Chúa và trong Chúa, thì xảy ra thế nào? Họ cố gắng cho được biết mùi sự vĩnh cửu, nhưng cho đến giờ, lòng trí lưu manh39 của họ còn chập chờn theo chiều hướng những sự quá khứ và tương lai.

Ai sẽ cầm giữ được vững vàng một chút và hiểu biết được một chút vẻ huy hoàng của sự vĩnh cửu, không hề biến đổi; và, so sánh với thời gian luôn luôn biến đổi, nó sẽ thấy vĩnh cửu là điều không so sánh được; và sẽ thấy là thời gian có lâu dài là do những vận chuyển kế tiếp, không thể xảy đến cùng một lúc; nhưng trong vĩnh cửu, không có gì qua đi, mà tất cả là hiện tại; còn thời gian thì tất cả không thể là hiện tại. Nó sẽ thấy tất cả quá khứ bị tương lai xua tuổi, và tất cả tương lai theo sau quá khứ và tất cả quá khứ và tương lai đều được cấu tạo và phát xuất bởi sự hiện tại vĩnh tồn. Ai cầm giữ được lòng trí con người, để nó được vững vàng và nhìn thấy vĩnh cửu luôn luôn cố định, mà lại ấn định tương lai và quá khứ được, mà trong mình không có tương lai hay quá khứ?

Tay con có làm được40 việc ấy hoặc lời nói của con, là như tay của miệng con, có thực hiện được một sự lạ lùng lớn lao như vậy không?

 

Trả lời các vấn nạn đó


XII-14        Này con trả lời cho người đã hỏi: Thiên Chúa làm gì, trước khi tạo dựng trời và đất?

Con không làm như người kia, mà con nghe nói, đã trả lời một cách khôi hài, để trốn tránh câu hỏi đó, ông nói: "Chúa chuẩn bị hoả ngục cho những kẻ dò xét những sự cao sâu". Thấy rõ là một chuyện, giễu cợt là chuyện khác. Con không trả lời như vậy, con thà trả lời: "Tôi không biết", về điều con không biết, hơn là chế nhạo kẻ hỏi về những sự cao sâu và khen ngợi những kẻ trả lời không đúng.

Nhưng con xin thưa Chúa, lạy Chúa chúng con, là Đấng tạo dựng muôn vật được hiểu ngầm trong tiếng trời và đất, thì con xin bạo dạn thưa rằng: Trước khi Thiên Chúa tạo dựng trời và đất, Người không làm gì cả. Vì nếu Người làm gì, thì hẳn chỉ là tạo dựng. Chớ gì con được biết tất cả những gì con ước ao biết, vì lợi ích cho con, cũng như con biết chắc chắn là không có tạo vật nào trước khi có cuộc tạo dựng.

XIII-15      Nhưng nếu có ai vì nhẹ dạ để cho lòng trí chập chờn trên những hình ảnh về thời gian quá khứ và ngạc nhiên rằng: Chúa là Thiên Chúa toàn năng, tạo dựng và duy trì vạn vật, tác tạo trời và đất, Chúa đã ở nhưng trong bao thế kỷ, trước khi khởi sự công việc vĩ đại ấy, thì con xin họ hãy tỉnh lại và hãy thận trọng, vì sự ngạc nhiên của họ không nhằm vào đâu cả.

Làm sao vô vàn thế kỷ đã có thể qua đi, vì Chúa là hoá công và khai sáng các thế kỷ, chưa tạo nên chúng? Hoặc làm sao có thời gian được, nếu Chúa chưa thiết lập ra nó? Hoặc làm sao nó qua đi được, nếu nó chưa hề có?

Chúa là Đấng làm nên các thời gian, cho nên nếu có một thời gian nào trước khi Chúa tạo dựng trời và đất, thì làm sao nói được Chúa ở nhưng?41 Vì chính thời gian đó do Chúa làm nên, và không thời gian nào có thể qua đi trước khi Chúa làm nên thời gian. Nhưng nếu trước khi có trời và đất, không có thời gian nào cả, thì tại sao lại hỏi: Lúc đó Chúa làm gì? Vì không có thời gian thì cũng không có "lúc" đó!

16               Cũng không phải trong thời gian mà Chúa có trước thời gian: Chẳng vậy Chúa sẽ Chúa có trước mọi thời gian. Nhưng do sự vĩnh cửu cao siêu và luôn luôn hiện tại của Chúa, mà Chúa có trước mọi quá khứ và vượt quá tương lai, vì chúng là tương lai, và thoạt khi xảy đến, chúng sẽ là quá khứ; còn Chúa, Chúa vốn vậy, và các năm của Chúa không hề cùng42. Các năm của Chúa không qua đi và không tiến đến; các năm của chúng con thì qua đi và tiến đến, để cho mọi năm đều được tiến đến. Các năm của Chúa đồng thời tồn tại, vì chúng tồn tại, chúng không qua đi; còn các năm của chúng con, chỉ có tất cả khi tất cả không còn nữa. Các năm của Chúa ví như một ngày43, và ngày của Chúa không thay đổi hằng ngày, mà là một hôm nay, vì ngày hôm nay của Chúa không nhường chỗ cho ngày mai, cũng chẳng kế tiếp ngày hôm qua: Ngày hôm qua của Chúa là vĩnh cửu. Vì thế Chúa đã sinh ra Đấng đồng vĩnh cửu và đã nói với Người rằng: "Hôm nay Ta đã sinh ra Con"44. Chúa đã làm nên mọi thời gian và Chúa có trước mọi thời gian, và không có "lúc" nào mà không có thời gian.

 

Phân tích về ý niệm thời gian


XIV-17      Vậy không có thời gian nào mà Chúa không làm việc, vì Chúa đã làm nên thời gian. Và không có thời gian nào đồng vĩnh cửu với Chúa, vì Chúa là Đấng vĩnh tồn; nhưng nếu thời gian cũng vĩnh tồn như vậy, thì không phải là thời gian nữa.

Vậy thời gian là gì? Ai giải thích được một cách dễ dàng và vắn tắt? Ai hiểu được sự ấy, dù trong tư tưởng để rồi diễn tả bằng lời nói? Thế mà trong khi chuyện vãn, không có ý niệm nào chúng con nhắn đến một cách quen thuộc và hiểu biết cho bằng ý niệm thời gian? Khi chúng con nói đến thời gian, chúng con hiểu đã đành, mà khi nghe người khác nói, chúng con cũng hiểu ngay.

Vậy thời gian là gì? Nếu không có ai hỏi, thì con biết; nhưng nếu muốn giải thích cho người nào hỏi con, thì con hết biết45. Tuy nhiên, con mạnh dạn quả quyết là con biết rằng: Nếu không có gì qua đi thì không có thời gian quá khứ; và n61u không có gì sẽ xảy đến, thì không có thời gian tương lai; nếu không có gì hiện có, thì không có thời gian hiện tại.

Nhưng hai thời gian, quá khứ và tương lai, hiện hữu như thế nào được, vì quá khứ không còn nữa, và tương lai chưa có? Còn như hiện tại, nếu cứ hiện tại luôn mãi và không đi vào quá khứ, thì nó không phải là thời gian nữa, mà là vĩnh cửu. Cho nên thời gian hiện tại, cho được là hiện tại, thì phải đi vào quá khứ; và như vậy, thì làm sao chúng con nói được là nó hiện hữu, vì lý do duy nhất làm cho nó có, là nó không có nữa? Cho nên, chúng con chỉ nói được là thời gian hiện hữu vì nó hướng về không hiện hữu.

XV-18       Thế mà chúng con còn nói về thời gian lâu dài và thời gian mau chóng; và chúng con chỉ nói như vậy về quá khứ hay về tương  lai. Chúng con gọi là thời gian quá khứ lâu dài, ví dụ như 100 năm về trước; thời gian tương lai lâu dài, như 100 năm về sau. Còn về một tương lai mau chóng như 10 ngày về sau. Nhưng cái gì không hiện hữu thì làm sao có thể là lâu dài hay mau chóng được? Vì quá khứ không còn nữa và tương lai thì chưa có. Cho nên chúng con không nói về hiện tại và thời gian lâu, nhưng chỉ nói về quá khứ: Nó đã lâu; và về tương lai: Nó sẽ lâu.

Lạy Chúa con, là ánh sáng của con46, ở đâu cũng vậy, há chân lý của Chúa không cười chê con người hay sao? Vì, thời gian quá khứ lâu dài này, nó lâu dài khi nó đã qua hay khi nó còn là hiện tại? Nó chỉ là lâu dài, khi nó là một cái gì có thể là lâu dài, nhưng quá khứ sẽ không còn; đã là cái gì hoàn toàn không có nữa, thì không thể là lâu dài được.

Vậy chúng con đừng nói: Thời gian quá khứ đã lâu dài; chúng con không tìm thấy cái gì có thể là lâu dài, vì khi nó đã là quá khứ, thì nó không còn nữa. chúng con nên nói: Thời gian hiện tại đã lâu, vì khi là hiện tại, nó mới lâu dài; nó chưa qua đi để không còn nữa; cho nên nó là cái gì có thể là lâu; nhưng thoạt khi qua đi, thì đồng thời  nó thôi là lâu, vì thôi hiện hữu.

19               Vậy, hỡi linh hồn nhân loại, chúng ta hãy xem thời gian hiện tại có thể là lâu dài được không? Vì mi đã cảm thấy và đo lường nó, mi sẽ trả lời cho ta làm sao?

Một trăm năm hiện tại có phải là một thời gian lâu dài không? Trước hết, hãy xem: Một trăm năm có thể là hiện tại được không? Vì nếu năm thứ nhất đang trôi đi, thì kể nó là hiện tại, còn 99 năm kia là tương lai, cho nên chưa có. Nếu năm thứ hai đang trôi đi, thì năm thứ nhất đã qua rồi, năm thứ hai là hiện tại, các năm khác là tương l ai. Và như vậy ta thử đặt làm năm hiện tại bất cứ năm nào trong số 100 năm đó, thì những năm trước nó là quá khứ, và những năm sau nó là tương lai. Cho nên tất cả 100 năm không thể là hiện tại được.

Ít nữa ta hãy xem chính cái năm duy nhất đang trôi đi có phải là hiện tại không? Vì nếu tháng thứ nhất của nó đang trôi đi, thì các tháng khác là tương lai; nếu tháng thứ hai là hiện tại, thì tháng thứ nhất đã qua đi và các tháng khác chưa có. Cho nên năm hiện tại cũng không hiện tại toàn vẹn, và nếu không hiện tại toàn vẹn, thì không phải là một năm hiện tại. Vì một năm có 12 tháng, bất cứ một tháng nào đang trôi đi, thì chính nó là hiện tại, các tháng khác, hoặc là quá khứ, hoặc là tương lai. Tuy nhiên, cái tháng đang trôi đi cũng không phải là hoàn toàn hiện tại, thì các ngày khác là tương lai; nếu ngày cuối cùng là hiện tại, thì các ngày khác đã là quá khứ. Nếu lấy một ngày trung gian nào đó làm hiện tại, thì nó ở giữa các ngày quá khứ và các ngày tương lai.

20               Đó là thời gian hiện tại, mà chúng ta đã cho là duy nhất đáng được gọi là lâu dài, nhưng rút gọn vào khoảng một ngày. Chúng ta cũng hãy nghiên cứu về chính ngày đó, vì một ngày không phải là hoàn toàn hiện tại. Vì nó gồm 24 giờ, cả đêm và ngày: Giờ thứ nhất là hiện tại, thì các giờ khác là tương lai; giờ cuối cùng là hiện tại, thì các giờ khác là quá khứ; bất cứ giờ trung gian nào là hiện tại, thì các giờ về trước là quá khứ, các giờ về sau là tương lai. Và chính cái giờ duy nhất này cũng gồm những phần nhỏ bé chóng qua: Phần nào đã qua đi là quá khứ, phần nào còn lại là tương lai. Nếu quan niệm được một điểm nào trong thời gian mà không thể chia ra được từng phần, dù rất bé nhỏ đi nữa, thì chỉ có điểm đó mới gọi được là hiện tại. Tuy nhiên điểm đó cũng qua đi rất nhanh, từ tương lai đi vào quá khứ, đến nỗi nó không chiếm được một khoảng không nhỏ bé nào. Vì nếu có khoảng không, thì chia ra được quá khứ và tương lai: Còn như hiện tại thì không có khoảng không.

Vậy ở đâu có thời gian mà chúng ta gọi được là lâu dài? Có phải tương lai không? Nhưng chúng ta không gọi nó được là lâu dài, vì nó chưa có cái gì để mà gọi được là lâu dài; chúng ta phải nói: Nó sẽ lâu dài. Vậy khi nào nó sẽ là lâu dài? Nếu lúc này nó còn là tương lai, thì nó không thể là lâu dài, vì trong nó chưa có cái gì có thể là lâu dài. Nếu nó chỉ là lâu dài khi từ tương lai - là điều chưa có - nó qua hiện tại, để trở nên cái gì có thể là lâu dài, thì chính thời gian hiện tại đã lớn tiếng kêu gào trên kia, là nó không thể là lâu dài.

XVI-21      Tuy nhiên, lạy Chúa, chúng con nhận thấy những khoảng thời gian và so sánh chúng với nhau, chúng con nói: "Khoảng này lâu hơn, khoảng kia chóng hơn. Chúng con cũng đo lường cho biết khoảng thời gian nào dài hơn hay ngắn hơn khoảng thời gian khác; và chúng con trả lời là khoảng này gấp đôi hay gấp ba khoảng kia, được coi như đơn vị, hay là cả hai bằng nhau. Nhưng chúng con đo thời gian khi nó đi qua, và chúng con đo theo như chúng con cảm thấy. Còn về quá khứ, không còn nữa, hay tương lai chưa có, thì ai đo lường được, đừng kể có kẻ nào dám chủ trương là đo được hư vô? Vậy thời gian có thể được cảm thấy và đo lường khi nó đang qua; còn khi nó đã qua rồi, thì không đo được nữa, vì nó không còn.

XVII-22     Lạy Cha, con tìm hiểu, chứ không quả quyết; xin giúp đỡ con, lạy Chúa, xin hướng dẫn con47.

Có ai dám bảo con là không có ba thời gian, như khi còn trẻ chúng con đã học và sau này chúng con đã dạy các trẻ nhỏ là quá khứ, hiện tại và tương lai; nhưng chỉ có hiện tại là có; còn hai kia thì không có. Hay là phải nói: Chúng cũng có, nhưng hiện tại phát xuất từ một nơi bí ẩn nào, khi từ tương lai nó thành hiện tại; và quá khứ đi vào một nơi bí ẩn nào, khi từ hiện tại nó thành quá khứ? Thực ra những kẻ tiên báo về tương lai thì nhìn thấy nó ở đâu, nếu nó chưa có? Vì người ta không thể nhìn thấy cái gì là không có. Đàng khác những kẻ kể việc quá khứ hẳn là việc họ kể không thật, nếu họ không nhìn thấy rõ trong trí vẽ của họ. Nếu quá khứ là hư vô, thì không thể nào nhìn thấy được. Cho nên tương lai và quá khứ là những thực tại.

XVIII-23   Lạy Chúa, xin tha phép cho con tìm hiểu rộng hơn, Chúa là hy vọng của con48; đừng để cho cái gì phá rối sự chăm chỉ của con.

Nếu tương lai và quá khứ là những thực tại thì con muốn biết chúng ở đâu? Nếu đó là điều con chưa có thể biết, thì ít ra con biết được rằng: Bất cứ ở đâu, chúng sẽ không còn là tương lai hay quá khứ, mà là hiện tại. Vì nếu ở đó chúng là tương lai, thì chúng chưa có; và nếu ở đó chúng là quá khứ; thì chúng không còn nữa. cho nên bất cứ ở đâu, bất cứ là gì, chúng chỉ có thể là hiện tại. Khi chúng con kể những việc quá khứ có thật, thì không phải chính các thực tại đã qua đi phát xuất từ ký ức chúng con, mà là những tiếng nói được cấu tạo từ các hình ảnh mà các thực tại đó, khi đi qua giác quan đã in vào tâm trí chúng con như dấu vế của chúng. Như tuổi trẻ của con, không còn nữa, nó thuộc thời gian quá khứ không còn nữa, nhưng khi con nhớ lại và nói đến nó, thì con nhìn thấy hình ảnh của nó trong thời gian hiện tại, vì nó hãy còn ở trong ký ức con.

Công việc có giống như vậy khi tiên báo tương lai, nghĩa là linh hồn nhìn thấy hình ảnh của các thực tại chưa có, không? Ở đây, con xin xưng tụng với Chúa, lạy Chúa, là con không biết49. Nhưng con biết điều này là nhiều khi chúng con dự tính công việc tương lai của chúng con, và sự dự tính đó là 2hiện tại, còn việc mà chúng con dự tính thì chưa có, vì còn trong tương lai; khi chúng con khởi sự thi hành và bắt đầu làm việc đã dự tính, thì lúc đó việc làm sẽ hiện hữu. Nó sẽ không còn là tương lai, mà là hiện tại.

24               Việc dự cảm các sự tương lai, dù bằng cách nào bí mật đi nữa, thì người ta cũng chỉ có thể nhìn thấy cái gì hiện có. Nhưng cái gì hiện có, thì không phải là tương l ai, mà là hiện tại. Vậy khi nói: Người ta nhìn thấy tương lai, thì không phải là nhìn thấy chính các thực tại chưa có - nghĩa là chúng con ở trong tương lai - mà có lẽ là nhìn thấy các căn nguyên của chúng, các dấu hiệu tiên báo chúng, là những thực tại đang có. Cho nên chúng không phải là tương lai, mà là hiện tại, cho các người "thấu thị": Họ nhờ đó mà quan niệm và tiên báo các sự tương lai. Sự quan niệm đó đã là các thực tại, mà những kẻ tiên báo tương lai nhìn thấy như hiện tại trong trí họ50.

 

Con chỉ nêu ra một tỉ dụ trong muôn vàn.


Nhìn xem rạng đông, con tiên báo mặt trời sẽ mọc. Cái mà con nhìn là hiện tại, cái mà con tiên báo là tương lai: Không phải mặt trời là tương lai, vì nó đã là một thực tại, mà sự mọc lên của nó, là điều chưa có. Tuy nhiên, chính việc mọc lên này, nếu trí con không hình dung ra nó, đang khi nói đến nó, thì con không thể tiên báo nó được. Nhưng không được lẫn lộn sự mọc lên của mặt trời với rạng đông, mà con nhìn thấy ở trên trời và đi trước nó; cũng không được lộn với hình ảnh của sự mọc lên mà con có trong trí khôn; cả hai thực tại, rạng đông và hình ảnh kia, khi được nhìn thấy như hiện tại, thì con có thể tiên báo sự mọc lên của mặt trời.

Như vậy, tương lai là điều chưa có, và nếu chưa có, thì không là gì, và nếu không là gì, thì hoàn toàn không thể xem thấy được. Nhưng có thể tiên báo được là nhờ các sự hiện tại, là điều đang có xà xem thấy được.

XIX-25      Vậy Chúa là vua tạo vật của Chúa, Chúa dùng cách nào để dạy cho các linh hồn biết những sự tương lai? Vì Chúa đã dạy các tiên tri của Chúa. Vâng, Chúa đã dùng cách nào mà dạy về các sự tương lai? Hay đúng hơn, Chúa làm cách nào, mà dạy các sự hiện tại rút ở tương lai? Vì cái gì không có, thì hẳn là không thể cho biết được. Cách đó vượt quá tài trí con, nó quá mạnh đối với con; tự con, con không thể đạt tới51; nhưng nhờ Chúa, con có thể, khi Chúa ban ơn cho con, ôi ánh sáng êm dịu của con mắt con!52

 

Kết thúc một cuộc phân tích lâu dài


XX-26       Vậy lúc này, điều rõ ràng minh bạch là tương lai và quá khứ không là gì cả, cũng không đúng khi nói: Thời gian có ba thì, quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhưng có lẽ nói thế này đúng hơn: Có ba thời gian: Hiện tại của các sự quá khứ, hiện tại của các sự hiện tại, hiện tại của các sự tương lai. Ba cách thức đó, con thấy trong trí chúng con, mà không thấy ở nơi nào khác. Hiện tại của các sự quá khứ là ký ức, hiện tại của các sự hiện tại là trực quan, hiện tại của các sự tương lai là mong chờ. Nếu được phép nói như vậy, thì con thấy có ba thời gian và con nhìn nhận là có ba.

Người ta cứ nói: Có ba thời gian, quá khứ, hiện tại và tương lai, như thói quen đã lạm dụng; phải, người ta cứ nói. Con không cần, không phản đối, không chỉ trích, miễn là người ta hiểu điều mình nó, cũng đừng tưởng điều sẽ đến là đã có hay điều đã qua đi là hãy còn. Vì có ít sự chúng con nói một cách đích đáng, và nhiều sự không được đích đáng, nhưng thiên hạ biết rõ chúng con muốn nói gì.

 

Vấn nạn mới


XXI-27      Vậy, như trên đây một chút, con đã nói, là chúng con đo lường thời gian, khi nó trôi qua, để có thể nói được rằng: Thời gian này lâu gấp đôi hay cũng bằng thời gian trước kia, và chúng con cũng có thể dùng cách đo như vậy, mà tuyên bố về từng phần của thời gian.

Cho nên, như con đã nói, chúng con đo lường thời gian, khi nó trôi qua, và nếu có ai hỏi con: Bởi đâu anh biết được? Con sẽ trả lời: Tôi biết được, vì chúng tôi đo nó, và chúng tôi không thể đo những gì không có - mà quá khứ và tương lai là những cái không có - Nhưng về thời gian hiện tại, chúng con đo làm sao, vì nó không có khoảng không? Vậy chỉ đo được nó khi nó trôi qua, còn khi nó qua đi rồi, thì không đo được nữa, vì nó không còn là cái gì nữa để mà đo.

Nhưng thời gian này bởi đâu mà đến, qua đâu, và đi đâu, khi người ta đo nó? Bởi đâu, nếu không phải là nơi tương lai? Qua đâu, nếu không phải là qua hiện tại? Đi đâu, nếu không phải là đi vào quá khứ? Vậy nó bởi cái chưa có, qua cái không có khoảng không, đi vào cái không còn nữa.

Nhưng chúng con đo gì, nếu không phải là đo thời gian trong một khoảng không nào đó? Vì khi nói khoảng lâu bằng một đơn vị, hay gấp đôi, hay gấp ba, hay bằng nhau, hay theo tỷ lệ nào như vậy, là chúng con nói về khoảng không của thời gian. Vậy trong khoảng không ào chúng con đo thời gian đang trôi qua? Có phải trong tương lai, là nơi nó phát xuất để qua đi không? Nhưng cái gì chưa có, thì không đo được. Hay là trong hiện tại, là nơi nó tới? nhưng cái gì không có khoảng không, thì không đo được. Hay là trong quá khứ, nơi nó biến mất? Nhưng cái gì không còn nữa, thì không đo được.

 

Augutin xin Chúa soi cho


XXII-28     Trí con nóng nảy muốn biết bí mật này53. Lạy Chúa xin đừng cản trở; lạy Cha nhân lành, con nài xin Chúa vì Đức Kitô, xin đừng cản trở ước nguyện của con đi tới vấn đề quen thuộc và bí mật này. Xin cho ước nguyện của con được thấu đáo các sự này, và chúng được bừng lên nhờ ánh sáng của lòng thương xót Chúa, lạy Chúa. Con sẽ hỏi ai về các sự này? Và con sẽ xưng tụng với ai sự dốt nát của con, một cách hữu ích, nếu không phải là với Chúa, là Đấng không chán nản về lòng nhiệt thành rất hăng say của con đối với Kinh Thánh Chúa? Xin ban cho con điều con yêu mến, vì con yêu mến và sự yêu mến này cũng do Chúa ban cho con. Vâng, xin hãy ban cho con, lạy Chúa là Đấng thật sự biết ban những của tốt lành cho con cái Cha54. Xin hãy ban cho con, vì con đã khởi công tìm hiểu và trước mắt con đó là điều khó55, cho đến khi Chúa mở trí cho con. Con xin Chúa vì Đức Kitô, nhân danh Đấng thánh trên các thánh, đừng để cho ai quấy rầy con. Con đã tin ngay cả khi con nói56. Đây là hy vọng của con, làm cho con sống, là được chiêm ngưỡng sự khoái lạc của Chúa57. Đã từ lâu, Chúa ấn định các ngày của con58, và chúng qua đi, làm sao, con không biết.

Chúng con nói về một thời gian và một thời gian, về nhiều thời gian và nhiều thời gian: "Người ấy đã nói trong bao nhiêu thời gian". "Người ấy đã làm trong bao thời gian" và "Đã từ lâu, tôi không thấy việc đó", và "Vần này có một kỳ gian lâu gấp đôi vần ngắn kia". Các điều đó chúng con nói và chúng con nghe nói. Và người ta hiểu chúng con, và chúng con hiểu họ. Những điều đó rất rõ ràng và rất quen thuộc, thế mà lại rất bí ẩn và là những điều mới lạ, phải khám phá.

 

Bản chất của thời gian, giả thuyết sai


XXIII-29   Con đã được nghe một người thông thái nói là thời gian chỉ là sự vận hành của mặt trời, mặt trăng và các tinh tú. Và con đã không chấp nhận. Vì nếu như vậy, thì sao họ không đồng hoá thời gian với sự vận hành của tất cả mọi vật thể? Và nếu các tinh tú trên trời ngừng lại và bàn quay của thợ gốm tiếp tục hoạt động, thì không còn thời gian nữa để chúng con đo lường các vòng quay của nó và nói được rằng: Chúng quay cách quãng bằng nhau, hay có vòng chậm hơn, có vòng nhanh hơn, có vòng lâu nhiều, có vòng lâu ít, hay sao?59 Hoặc, khi nói như vậy, chúng con không nói trong thời gian hay sao? Chớ thì trong lời nói của chúng con, không có những vần dài, những vần ngắn, vì tiếng kia vang lâu hơn, tiếng này vang chóng hơn, hay sao?

Lạy Chúa, xin ban cho con người, trong một tỉ dụ nhỏ, những khái niệm chung cho các thực tại nhỏ và các thực tại lớn. Co 1nh tinh tú và đèn trời để làm dấu hiệu bày tỏ các mùa, các ngày và các năm. Hẳn là thế. Và con không dám bảo một vòng quay của chiếc bàn gỗ nhỏ kia là ngày, nhưng nhà thông thái kia cũng không nói được rằng: Một vòng quay đó không biểu thị một thời gian.

30               Phần con, con ước ao biết giá trị và bản chất của thời gian, nhờ đó chúng con đo lường sự vận hành của các vật thể, và, ví dụ như nói được rằng: Vật này di chuyển lâu gấp đôi vật kia. Đó là điều con tìm hiểu, vì một ngày không phải chỉ là thời gian mặt trời qua trên trái đất, phân ra một đàng là ngày, một đàng là đêm, mà là trọn vòng của nó, từ đông đến đông. Theo đó mà chúng con nói: "Đã qua bao nhiêu ngày - tiếng này nói đây, gồm cả đêm, chứ đêm không được tính riêng. Vì một ngày được tính theo sự di chuyển của mặt trời, trọn một vòng, từ đông tới đông, nên con muốn biết, cái gì làm nên ngày: Chính sự di chuyển đó, hay là thời gian di chuyển, hay là cả hai?

Nếu sự di chuyển của mặt trời làm nên ngày, thì cũng là một ngày, nếu mặt trời chỉ cần thời gian một giờ để quay trọn vòng. Nếu thời gian di chuyển làm nên ngày, thì sẽ không là một ngày, nếu từ lúc mọc trước đến lúc mọc sau, thời gian chỉ có một giờ. Và như vậy, mặt trời phải đi 24 vòng, mới được một ngày. Nếu các sự di chuyển và thời gian làm nên ngày, thì sẽ không phải là một ngày, nếu mặt trời chỉ cần thời gian một giờ để đi trọn vòng; cũng không phải là một ngày, nếu mặt trời đứng lại, đang khi thời gian cứ trôi đi bằng khoảng thời gian mà mặt trời quen sử dụng để đi trọn vòng từ sáng đến sáng.

Con không còn muốn hỏi ngày là gì, mà thời gian là gì, mà chúng con coi như thước đo một vòng mặt trời đi quanh trái đất? Vậy giả như vòng đó được thực hiện trong 12 tiếng đồng hồ, thì chúng con có thể nói: "Mặt trời đã đi trọn vòng trong một thời kỳ bằng nửa mọi khi". Và khi so sánh hai thời kỳ đó, chúng con có thể nói: "Thời kỳ này là một đơn vị, thời kỳ kia gấp đôi", dù một vòng mặt trời từ đông tới đông, có lần lâu bằng một thời kỳ, có lần lâu gấp đôi thời kỳ, hay sao?

Vậy đừng có ai bảo con rằng: Thời gian là sự vận hành của các thiên thể, vì khi đo lời cầu xin của một người60 mặt trời đã đứng lại, để ông thanh toán cuộc chiến thắng; mặt trời đã đứng lại, nhưng thời gian cứ trôi đi, vì thực ra ông đã có đủ thời gian để giao chiến và kết liễu cuộc chiến.

Vậy con nhìn thấy thời gian như một khoảng không. Nhưng con có nhìn thấy thật không? Hay là con chỉ tưởng tượng là nhìn thấy? Chính Chúa, ôi, ánh sáng, ôi chân lý, Chúa sẽ tỏ cho con thấy.

XXIV-31   Nếu có ai bảo con: Thời gian là sự vận hành của một vật thể, thì Chúa có truyền cho con phải chấp nhận không? Hẳn là không. Con chỉ nghe nói, và chính Chúa nói, là mọi vật thể chuyển vận trong thời gian. Trái lại, con không nghe nói, và Chúa không có nói, là sự vận chuyển của vật thể là thời gian61. Vì khi một vật thể vận chuyển, con dùng thời gian mà đo cho biết nó vận chuyển bao lâu, từ khi bắt đầu đến lúc ngừng lại. Và nếu con không thấy nó bắt đầu từ bao lâu, và nó tiếp tục vận chuyển, mà con không biết bao giờ nó ngưng, thì con không thể đo lường khoảng không của nó được, đừng kể khi con bắt đầu thấy nó cho đến khi con thôi thấy nó. Nếu con thấy nó lâu, thì con chỉ có thể tuyên bố là thời gian nó đi là lâu, chứ không nói rõ hơn được, là bao lâu, vì cho được nói rõ hơn, thì phải có sự so sánh, như khi chúng con nói: Cái này bao lâu, cái kia cũng thế, hoặc cái này gấp đôi cái kia, và tiếp tục như vậy. Nhưng nếu chúng con có thể ghi vào khoảng không khởi điểm và cực điểm của một vật thể vận chuyển hay là các phần của nó - nếu nó vận chuyển trên một bàn quay - thì chúng con có thể nói được rằng: Trong bao thời gian vật thể đó hay các phần của nó đã vận chuyển từ điểm này tới điểm nọ.

Như vậy một vật di chuyển là khác, mà đo lường sự di chuyển của nó là bao lâu, thì khác. Cho nên, ai lại không thấy phải gọi cái nào là thời gian? Vì một vật có lần di chuyển cách khác nhau, có lần ở yên. Mà chúng con dùng thời gian để đo lường không nhưng vận chuyển của nó, mà cả sự ở yên của nó nữa, và chúng con nói: Nó ở yên cũng lâu bằng vận chuyển, hoặc nó ở yên lâu gấp đôi, gấp ba thời gian nó vận chuyển; và những ước lượng khác như vậy của chúng con, hoặc chính xác, hoặc phỏng chừng, như người ta thường nói.

 

Cho nên, thời gian không phải là sự vận chuyển của vật thể.


XXV-32    Con xưng tụng Chúa, lạy Chúa, là con hãy còn chưa biết thời gian là gì, nhưng đàng khác, con cũng xưng tụng Chúa, lạy Chúa, là con biết rằng: Con nói các điều ấy trong thời gian và đã từ lâu con nói về thời gian, và cái lâu này chỉ là lâu vì mất nhiều thời gian. Vậy sao con biết được sự ấy, khi mà con không biết thời gian là gì? Hay là có lẽ vì con không biết diễn tả điều con biết? Khốn cho con, là người không biết cả đến điều mình không biết! Này đây, lạy Chúa con, trước mặt Chúa, con không nói dối: Lòng con có thế nào, con nói như vậy. Chúa sẽ chong đèn con lên, lạy Chúa là Chúa Trời con, cảnh tối tăm của con Chúa sẽ cho sáng rực!63

XXVI-33   Há chẳng phải với một lời xưng tụng chân thành, khi linh hồn con xưng tụng Chúa rằng: Con đo lường thời gian hay sao? Lạy Chúa Trời con, có phải con đo như vậy mà con không biết con đo cái gì, không? Con lấy thời gian mà đo lường sự vận chuyển của vật thể. Nhưng chính thời gian, con cũng không đo nó sao? Hay làm sao con đo được sự vận chuyển của nó và thời gian nó đi từ chỗ này tới chỗ, nếu con không đo thời gian, trong đó nó vận chuyển hay sao?

Nhưng con lấy gì mà đo thời gian? Hay chúng con lấy thời gian ngắn hơn mà đo thời gian dài hơn, như lấy bề dài thước tay mà đo bề dài cái xà ngang? Vì như vậy, người ta thấy chúng con lấy kỳ gian của vần ngắn mà đo kỳ gian của vần dài và bảo nó gấp đôi vần ngắn. Cũng vậy, chúng con đo kỳ gian của bài thơ nhờ kỳ gian của các câu thơ, và kỳ gian của các câu thơ nhờ kỳ gian của các chân (vận cước), và kỳ gian của các chân nhờ kỳ gian của các vần, và kỳ gian của vần dài nhờ kỳ gian của vần ngắn; và điều này không có trên giấy - vì như vậy là đo không gian, chứ không phải thời gian. Nhưng khi đọc, thì các tiếng qua đi và chúng con nói: Bài thơ này dài, vì gồm nhiều câu thơ; các câu thơ này dài vì gồm nhiều chân; các chân này dài vì gồm nhiều vần; vần dài vì gấp đôi vần ngắn.

Nhưng như vậy, người ta cũng không kiếm được một trắc độ nhất định cho thời gian, vì có thể xảy ra là một câu thơ ngắn, được ngâm trong một kỳ gian chậm rãi hơn, có thể làm cho người ta nghe lâu hơn là một câu thơ dài hơn được ngâm mau lẹ hơn. Cũng thế đối với một bài thơ, một chân, một vần.

 

Giải thích của Augutin về quan niệm thời gian


Như vậy, đối với con, thời gian chỉ là một khoảng rộng. Nhưng là khoảng rộng của cái gì? Con không biết. Và con sẽ lấy làm bỡ ngỡ nếu nó không phải là khoảng rộng của chính tâm hồn. Vì, lạy Chúa con, con xin hỏi, con đo cái gì khi con nói hoặc phỏng chừng rằng: "Thời gian này gấp đôi thời gian kia?". Con đo thời gian, con biết điều đó; nhưng con không đo tương lai, vì nó chưa có; con không đo hiện tại, vì nó không kéo dài trên một khoảng không nào; con không đó quá khứ, vì nó không còn nữa. Vậy con đo cái gì? Hay là thời gian đang khi nó trôi qua, chứ không phải khi nó đã qua đi rồi? Trên này con đã nói như vậy.

XXVII-34           Linh hồn ta ơi, hãy cố lên, và hết sức chăm chỉ: Chúa sẽ giúp đỡ ta; chính Người đã dựng nên chúng ta, chứ không phải chúng ta64. Hãy chăm chú vào nơi chân lý sáng ngời.

Tỉ dụ như một tiếng động vật chất bắt đầu vang lên, nó vang lên, nó vang mãi, rồi nó tắt đi, và là im lặng. Tiếng đó đã qua đi, không còn là tiếng nữa. Trước khi vang lên, nó chỉ là trong tương lai và không thể đo lường được, vì nó chưa có. Và bây giờ cũng không thể được, vì nó không còn nữa. Nhưng khi nó đang vang lên, thì có thể đo được, vì lúc đó nó có khả năng để đo được. Tuy nhiên, cả lúc đó nó cũng không dừng lại, nó đi và qua đi. Hay là như vậy, nó lại càng có thể đo được? Vì đang khi qua đi nó kéo dài trên một khoảng thời gian, cho phép đo được, vì hiện tại không có khoảng không.

Vậy nếu trong giai đoạn đó, nó có thể đo được, thì đây là một tỉ dụ thứ hai, một tiếng động bắt đầu vang lên, vang mãi liên tục và không ngớt. Chúng ta hãy đo nó, đang khi nó vang lên; vì khi nó thôi vang, thì nó đã qua đi và không còn có thể đo được nữa. Chúng ta hãy đo nó và hãy nói cho biết kỳ gian của nó. Nhưng nó còn vang mãi và nó chỉ có thể đo được từ khi nó bắt đầu vang lên cho đến lúc nó thôi đi. Vì chúng con phải đo mỗi khoảng cách từ đầu đến cuối. Cho nên một tiếng động chưa chấm dứt, thì không thể đo được, để nói được rằng: Nó lâu mau bao nhiêu; cũng không nói được là nó bằng một tiếng khác hay gấp đôi tiếng khác, hay cách nào giống như vậy. Nhưng khi tiếng đó thôi vang, thì nó không còn nữa, làm sao có thể đo được? Thế mà chúng con đo thời gian; nhưng không phải thời gian chưa có, hay không còn nữa, hoặc không kéo dài trên một khoảng không nào, hay là không có giới hạn. Vậy không phải là thời gian tương lai, hay quá khứ, hay hiện tại, hay đang qua đi, mà chúng con đo lường: Thế mà chúng con đo lường thời gian.

35               Câu thơ "Deus creator omnium"66 gồm có 8 vần, vần ngắn vần dài được đặt luân phiên: Có 4 vần ngắn là vần thứ 1, thứ 3, thứ 5, thứ 7; chúng đơn thuần sánh với bốn vần dài, là vần thứ 2, thứ 4, thứ 6 và thứ 8. Một vần dài lâu gấp đôi một vần ngắn. Con đọc lên và con khẳng định như thế. Và điều đó có như vậy, nhất là được giác quan cảm thức rõ ràng. Vì sự cảm thức rõ ràng ấy, mà con lấy vần ngắn đo vần dài và con cảm thấy nó gấp đôi vần ngắn. Nhưng vì vần này vang lên sau vần nọ, nếu vần trước là ngắn, vần sau là dài, thì làm sao con giữ được vần ngắn, và, để đo lường, làm sao con áp đặt được nó vào vần dài, để thấy vần này gấp đôi nó, vì vần dài chỉ bắt đầu vang lên, khi vần ngắn đã thôi vang? Và chính vần dài, dầu con có đo được nó, khi nó hiện tại? Con chỉ đo được nó, khi nó hết vang lên mà thôi. Nhưng khi nó hết vang là nó không còn nữa.

Vậy con đo cái gì? Vần ngắn mà con dùng để đo thì ở đâu? Vần dài mà con đo, thì ở đâu? Cả hai cùng đã được phát âm, đã vang lên, rồi đã qua đi, không còn nữa. Thế mà con đo chúng với tất cả tín nhiệm có thể có vào một quan năng từng trải, con trả lời là: Về thời gian, thì một vần  là đơn, một vần là kép. Và con chỉ nói được như vậy, khi tiếng vang đã qua đi và đã ngừng mà thôi. Vậy con đã không đo chính các tiếng vang đó, vì chúng không còn nữa, mà là đo một cái gì còn in lại trong ký ức con.

36               Chính trong mi, hỡi tâm hồn ta, mà ta đo thời gian67. Đừng phản đối ta làm gì, nghĩa là đừng để cho cảm giác lộn xộn của mi phản đối ta. Ta lắp lại: Chính trong mi mà ta đo thời gian. Cảm giác mà các thực tại đi qua đã để lại trong mi, nó hãy còn tồn tại, khi chúng đã qua đi; ta do chính cảm giác đó, nó còn hiện tại, chứ không phải các thực tại đã qua đi; ta đo chính cảm giác đó, khi ta đo thời gian. Cho nên, hoặc chính đó là thời gian, hoặc cái ta đo không phải là thời gian.

Nhưng sao! Khi chúng con đo sự im lặng và nói rằng: Thời gian ở lặng này cũng lâu bằng thời gian nói năng kia, chớ thì chúng con không để ý đến mức độ tiếng nói, như thể nó còn đang vang động, để có thể ấn định thành thời gian của sự im lặng, hay sao? Vì mặc dầu im tiếng, ngậm môi, chúng con đọc bằng tư tưởng những bài thơ, những câu văn hay một bài diễn thuyết nào đó, và chúng con đánh giá cách đọc của chúng và thời gian tương đối của chúng, như thể chúng con đọc lớn tiếng vậy. Nếu có ai muốn phát âm một cách chậm rãi hơn và ấn định trong tư tưởng sự chậm rãi đó là bao lâu, thì có thể suy tính khoảng thời gian bao lâu đó trong thinh lặng và ghi vào ký ức, rồi bắt đầu phát âm, và nó vang lên cho tới mức hạn đã ấn định trước. Hơn nữa, nó đã vang lên và sẽ vang lên; vì các âm qua đi đã vang lên, và như vậy cuộc phát âm được thành tựu, đang khi sự cố gắng hiện tại đem tương lai vào quá khứ: Tương lai bớt đi thì quá khứ thêm lên, cho đến khi tương lai bị tiêu diệt, để tất cả là quá khứ.

XXVIII-37          Nhưng tương lai bị giảm bớt và tiêu diệt làm sao, vì nó chưa có; hoặc quá khứ gia tăng sao được, vì nó không còn nữa, nếu chẳng phải là trí khôn làm việc đó hay sao? Việc đó gồm ba mục: Mong chờ, chăm chú, nhớ lại. Đối tượng của mong chờ đi qua chăm chú, biến thành nhớ lại. Vậy có ai không nhận: Tương lai là điều chưa có? Tuy nhiên sự mong chờ tương lai đã có trong trí khôn. Có ai không nhận: Quá khứ là điều không còn nữa? Tuy nhiên sự nhớ lại những sự quá khứ còn ở trong trí khôn. Và có ai không nhận rằng: Thời gian hiện tại không có khoảng không, vì nó qua đi như một cái chấm? Nhưng cái gì tồn tại trong trí khôn là sự chăm chú, nhờ nó cái gì là hiện tại hướng về cái gì không là hiện tại nữa. Vậy không có tương lai lâu dài, vì nó chưa có; mà một tương lai lâu dài là một sự mong chờ tương lai được quan niệm là lâu dài. Cũng không có quá khứ lâu dài, vì nó không còn nữa, mà một quá khứ lâu dài là một sự nhớ lại quá khứ tỏ ra lâu dài.

38               Con muốn hát một bài thuộc lòng: Trước khi bắt đầu, sự mong chờ của con hướng về tất cả bài hát, nhưng khi con bắt đầu, thì tất cả những gì con cho rơi vào quá khứ đề6u đến tăng cường ký ức của con, và tất cả hoạt động của con nhằm về hai chiều: Về nhớ lại đối với những gì con đã hát; về mong chờ, đối với những gì con sẽ hát. Tuy nhiên, sự chăm chú của con là hiện tại, nhờ nó những gì là tương lai qua đi để thành quá khứ. Hoạt động đó càng tiến triển, thì mong chờ càng rút ngắn, mà nhớ lại càng kéo dài, cho đến khi tất cả mong chờ bị tiêu tan, khi tất cả hoạt động chấm dứt và chuyển vào nhớ lại. Sự gì đã xảy ra cho cả bài hát, cũng xảy ra cho từng phần, và cho từng vần của nó. Cũng vậy, đối với một hoạt động rộng lớn hơn, mà có khi bài hát này chỉ là một phần bé nhỏ. Cũng vậy, đối với toàn thể đời sống con người mà mọi hoạt động nhân sinh chỉ là những phần nhỏ. Cũng vậy, đối với toàn thể lịch sử các thế hệ loài người68, mà mỗi đời sống cá nhân chỉ là một phần nhỏ bé.

 

Suy niệm cuối cùng


XXIX-39   Nhưng lòng thương xót của Chúa quý hơn mạng sống69 và này đời con chỉ là phung phá và tay phải của Chúa đã đón nhận con70 trong Chúa của con, Người là Con Người, là trung gian giữa Chúa độc nhất và chúng con đông đảo - trung gian trong nhiều sự và bằng nhiều cách - nhờ Người, con chiếm hữu được Đấng chiếm hữu con, và, tập trung hữu thể đã được giải thoát khỏi những ngày xưa, con bám sát vào Chúa độc nhất. Con quên đi dĩ vãng, không lo tìm kiếm những sự tương lai và quá khứ, mà chỉ hướng về những sự hiện tại. Con ra công loại bỏ mọi phân tán để con theo đuổi phần thưởng của ơn kêu gọi cao quý71, là nơi con sẽ được nghe lời ca tụng Chúa và chiêm ngưỡng sự khoái lạc của Chúa72, là điều không đi tới và không qua đi.

Nhưng bây giờ, các năm tháng của con trôi đi trong rầu rĩ73, mà Chúa, ôi niềm yên ủi của con, lạy Chúa, ôi Cha con, Chúa hằng có đời đời. Phần con, con đã bị phân tán trong thời gian mà con không biết trật tự, và các tư tưởng, là đời sống thâm thuý của hồn con, bị xâu xé bởi những thăng trầm náo nhiệt, cho đến ngày được thanh tẩy và được chảy lỏng ra nhờ lửa thương yêu của Chúa, làm cho con được hội lưu trong Chúa.

XXX-40    Được ổn định chắc chắn trong Chúa, trong chân lý của Chúa, như trong hình thể riêng của con, con không còn phải chịu đựng những vấn nạn của các kẻ, do tính tò mò tội lỗi, muốn uống nhiều hơn khả năng chịu đựng, đã hỏi con: "Thiên Chúa làm gì, trước khi tạo dựng trời và đất?", hoặc "Sao Người lại có ý tưởng làm một cái gì, mà trước kia, chưa bao giờ Người đã làm?".

Lạy Chúa, xin cho họ biết suy nghĩ về điều họ nói và nhận thấy rằng: Người ta không được nói tiếng "bao giờ" khi không có thời gian. Vì nói rằng: "Người chưa bao giờ làm" há chẳng phải là nói: Người đã không làm việc gì trong thời gian, hay sao? Vậy họ hãy nhìn nhận rằng: Không thể có thời gian, trước khi tạo dựng và họ đừng ăn nói viển vông74 như vậy. Họ cũng hãy chăm chú về những sự trước mắt75 và hiểu rằng: Chúa có trước thời gian, và không có thời gian nào, không có tạo vật nào, dù siêu thời gian đi nữa76 được tham dự sự vĩnh cửu của Chúa.

XXXI-41   Lạy Chúa của con, mầu nhiệm của Chúa cao sâu, bí ẩn dường nào và các hậu quả của tội lỗi con đã đẩy xa Chúa biết bao? Xin hãy chữa mắt con, để con cũng được vui hưởng ánh sáng của Chúa. Giả như trí khôn nào có một tri thức và một tiên tri sâu rộng đến nỗi biết được quá khứ và tương lai như con biết một bài hát rất thông thường, thì hẳn đó là một trí khôn lạ lùng, làm cho người ta phải kinh hoàng. Vì không có sự gì về quá khứ và tương lai của các thế kỷ che giấu được trí khôn đó, cũng như khi hát bài này, con thấy rõ, con đã hát được mấy câu từ bắt đầu, và còn mấy câu thì hết. Nhưng không hề bao giờ, con có ý tưởng đồng hoá tri thức đó với tri thức mà Chúa có về tương l ai và quá khứ. Ôi Đấng tạo hoá càn khôn, Đấng dựng nên các linh hồn và các thân xác. Tri thức của Chúa còn lạ lùng và mầu nhiệm xa vời. Khi người ta hát hay nghe hát một bài quen thuộc, người ta chờ đợi những giọng điệu sắp đến, người ta nhớ lại những giọng điệu mới qua đi, cái đó thay đổi cảm thức và làm cho tất cả các giác quan chăm chú. Nhưng không có gì như vậy xảy đến cho Đấng tạo hoá các trí khôn, Đấng tạo hoá vĩnh cửu bất biến, nghĩa là vĩnh cửu đích thực. Cho nên từ nguyên thuỷ77, Chúa đã biết trời và đất, mà tri thức của Chúa không thay đổi; thì cũng từ Nguyên thuỷ Chúa đã tạo dựng trời và đất, mà không có gì phân biệt hoạt động của Chúa.

Kẻ hiểu điều đó hãy ca tụng Chúa, và kẻ không hiểu cũng hãy ca tụng Chúa. Ôi, Chúa cao cả dường nào, và Chúa tìm nơi ở trong những kẻ có tâm hồn khiêm tốn!78 Vì Chúa nâng đỡ những người ngã quỵ79, và những kẻ lấy Chúa làm sự cao trọng của mình, thì không sa ngã.

***********************

 

QUYỂN MƯỜI HAI: CHÚ GIẢI TIẾP CÂU 1 SÁCH KHỞI NGUYÊN

 

Phải xin Chúa giúp để hiểu Thánh Kinh


I-1              Lạy Chúa, trong cuộc sống nghèo nàn hiện tại của con, tâm hồn con đâm ra áy náy, khi bị lời Thánh Kinh đánh đập. Vì thế mà hầu như mãi vậy, trí khôn con người nghèo nàn, thì lại đâm ra lắm miệng. Vì người ta nói nhiều để tìm hơn là để thấy; mất nhiều thời giờ để xin hơn là để được; bàn tay phải vất vả nhiều để đập hơn là để nhận. Nhưng chúng con nắm chắc lời Chúa hứa: "Nếu Thiên Chúa phò ta, thì ai chống lại được ta?"1. Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy; hãy gõ cửa, thì sẽ mở cho. Vì phàm ai xin thì được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì được mở ra cho2.

Đó là những điều Chúa đã hứa, và ai còn sợ bị lừa, khi chân lý đã hứa?

 

Trời của trời


II-2   Miệng lưỡi khiêm hạ của con xưng tụng với Chúa cao sang, vì Chúa đã làm nên trời và đất: Trời màcon xem thấy, đất mà con dày xéo dưới chân, và cái xác đất con mang đây, bởi đâu mà có? Vâng, Chúa đã làm nên chúng.

Nhưng, lạy Chúa, đâu là trời của trời, mà chúng con nghe được trong câu Thánh vịnh: "Trời của trời thuộc về Chúa, còn đất, Người đã ban cho con cái loài người?"3. Trời đó ở đâu, mà chúng con không xem thấy, và đối với nó, tất cả những gì chúng con xem thấy chỉ là đất? Vì tất cả thế giới hữu hình này, mà trái đất chúng con là nền tảng, đã nhận được một vẻ xinh đẹp mê ly, không phải khắp nơi đồng đều, hg cả đến những phần hèn kém nhất của nó. Nhưng sánh với trời của trời đó, thì trời của trái đất chúng con cũng chỉ là đất. Và hai vật thể lớn này, đúng lý ra, chỉ là đất, sánh với trời bí nhiệm nào, con không biết, thuộc về Chúa, chứ không thuộc về con cái loài người.

 

Tối tăm trên vực thẳm


III-3 Vậy lúc đó, trái đất hãy còn lờ mờ và lộn xộn4 và con không biết có vực thẳm nào, mà trên đó không có ánh sáng chiếu soi, vì không có hình thù nào cả, bởi đó Chúa đã truyền phải viết là có "tối tăm quản trị trên vực thẳm". Vậy tối tăm chẳng qua là không có ánh sáng. Vì nếu có ánh sáng, thì ánh sáng đó ở đâu, nếu không phải là ở trên để quản trị và soi sáng hay sao? Vậy nơi nào chưa có ánh sáng, thì sự có mặt của tối tăm há chẳng phải là sự vắng mặt của ánh sáng hay sao? Cho nên có tối tăm ở trên, cũng như ở đâu không có tiếng động là thinh lặng. Thực ra nơi thinh lặng là gì nếu không phải là nơi vắng tiếng động hay sao?

Lạy Chúa, há chẳng phải Chúa đã dạy linh hồn con là kẻ xưng tụng Chúa, như vậy hay sao? Lạy Chúa, há không phải Chúa đã dạy con5 rằng: Trước khi khối vật chất lờ mờ này nhận được nơi Chúa hình dạng và các khác biệt, thì không có gì có màu sắc, không có hình thù, không có thân thể, không có linh hồn, hay sao? Tuy nhiên, nó không phải là hư vô hoàn toàn, mà là một cái gì lờ mờ, không có một hình dạng nào hết.

 

Vật chất vô tổ chức


IV-4 Vật chất đó phải gọi là gì, nếu gợi ra một ý niệm nào, cả cho những trí khôn chậm hiểu nhất, nếu không phải là nhờ một danh từ quen thuộc, hay sao? Vậy trong khắp thế giới có tìm được cái gì giống với cái khối lờ mờ, vô hình dạng, cho bằng đất và vực thẳm không? Ở vào bậc hèn kém nhất, chúng không đẹp bằng tạo vật khác ở vào bậc trên, rõ ràng và sáng sủa. Vậy tại sao con lại không chấp nhận cho khối vật chất lờ mờ đó - mà Chúa đã tạo dựng không xinh đẹp gì, để lấy nó mà làm nên thế giới xinh đẹp - được trình bày một cách tiện lợi cho con người, với những danh từ "khối đất lờ mờ và lộn xộn?".

V-5   Vậy khi suy tư của chúng con tìm cho biết quan niệm được thế nào về khối vật chất đó, thì đã tự bảo mình: Nó không phải là một mô thể khả niệm, như sự sống, như sự công bình, vì nó là nguyên tố vật chất; nó cũng không phải là một mô thể khả giác, vì trong khối lờ mờ và lộn xộn không có cái gì thấy được và cảm thức được. Khi suy tư nhân loại tự bảo mình như vậy, thì chỉ còn cách là cố gắng hoặc để biết nó mà không biết, hoặc để không biết nó mà lại biết6.

 

Quan niệm của Augutin về vật chất đó


VI-6 Phần con, lạy Chúa, con muốn xưng tụng với Chúa bằng lời nói và bằng ngọn bút của con, tất cả những gì Chúa đã dạy con về khối vật chất này. Trước kia, khi nghe nói đến tên nó, con chẳng hiểu gì, vì những kẻ nói cho con cũng chẳng hiểu gì. Con đã tưởng tượng nó dưới vô vàn hình thức khác nhau, mà thực ra con đã không tưởng tượng được nó. Trí con đã bày ra những hình dạng lộn xộn, xấu xa, dữ tợn; tuy nhiên, đó là những hình dạng; và con gọi khối đó là vô dạng, mà là vì nó hiện ra trước mắt con dưới một hình dạng khác thường và kỳ cục, đến nỗi giác quan của con phải chán ghét và sự yếu đuối của con người phải kinh ngạc.

Thật ra, cái khối mà con đã tưởng tượng là vô dạng, không phải vì nó không có hình dạng, mà vì sánh nó với các hình dạng xinh đẹp hơn. Lý trí chân chính khuyên con là nếu con muốn quan niệm một vật chất tuyệt đối vô dạng, thì con phải loại khỏi hết mọi vết tích về hình dạng; nhưng con không thể làm được. Một vật chất mất hết mọi hình dạng, thì con thà coi nó như hư vô hơn là quan niệm nó như cái gì ở giữa hình dạng và hư vô: Không có hình dạng, cũng chẳng phải là hư vô; một vật vô dạng là hầu như hư vô.

Từ nay, lý trí thôi không còn hỏi trí vẽ của con, đầy dẫy những hình ảnh của các vật thể, mà nó tự tiện thay đổi và biến chế. Con phải chăm chú vào chính các vật thể; và suy nghĩ sâu xa hơn về tính bất định của chúng, làm cho chúng thôi cái chúng có trước và bắt đầu có cái chúng không có trước. Con nghi ngờ là sự biến chuyển từ hình này sang hình khác được thực hiện bằng cái gì vô dạng, chứ không phải bằng một hư vô tuyệt đối.

Nhưng con muốn biết chứ không phải chỉ nghi ngờ; và nếu tiếng nói và ngòi bút của con xưng tụng với Chúa tất cả những gì Chúa đã soi sáng cho con về vấn đề này, thì độc giả nào sẽ nhẫn nại để hiểu con?7 Nhưng lòng con sẽ không ngừng tán tụng Chúa và hát mừng về những mạc khải mà nó không biết phải diễn tả làm sao?

Chính tính bất định của các sự vật hay thay đổi làm cho chúng có khả năng đón nhận mọi hình dạng, trong đó, các sự vật hay thay đổi kế tiếp hiến sang. Nhưng tính bất định đó là gì? Là tinh thần? Là vật chất? Là một hình dạng của tinh thần hay của vật chất? Nếu có thể được, con sẽ bảo nó là một hư vô mà lại là một cái gì, vừa là hữu thể, vừa là phi hữu. Tuy nhiên nó phải là một hữu thể nào đó, để đón nhận được các hình dạng rõ rệt và thích hợp.

 

Khối vật chất đó bởi đâu mà có?


VII-7          Dù sao, nó bởi đâu mà có, nếu không phải bởi Chúa, vì bởi Chúa mà có mọi sự vì là có, hay sao? Nhưng một vật càng ít gần Chúa, thì càng xa Chúa: Đây không phải vấn đề không gian.

Như vậy, lạy Chúa, Chúa không phải lúc thế này, lúc thế nọ, nhưng Chúa vốn vậy, vốn vậy và vốn vậy; là thánh, là thánh và là thánh, Thiên Chúa toàn năng8, chính Chúa, trong Đấng nguyên thuỷ - bởi Chúa mà ra, trong Đấng khôn ngoan của Chúa, bởi bản thể Chúa mà sinh ra - Chúa đã bởi không mà làm nên mọi vật.

Chúa đã tạo dựng trời và đất; không phải từ bản thể của Chúa; chẳng vậy, chúng sẽ được ngang hàng với Con duy nhất của Chúa, và do đó ngang hàng với Chúa, và sẽ là điều bất công, nếu vật gì không từ bản thể Chúa mà ra, lại được ngang hàng với Chúa9. Và ngoài Chúa ra, không có sự gì khác để Chúa lấy đó mà làm nên trời và đất, ôi Chúa, một Chúa Ba Ngôi và Ba Ngôi một Chúa! Cho nên Chúa đã từ hư không mà làm nên trời và đất, một vật lớn, một vật nhỏ; vì Chúa toàn năng và tốt lành, ưa làm mọi sự tốt lành, trời mênh mông, đất bé nhỏ. Lúc đó Chúa hiện hữu và không có gì khác. Bởi cái không có, Chúa đã làm nên trời và đất, hai tạo vật đó, một gần Chúa, một gần hư vô, một có Chúa ở trên, một có hư vô ở dưới.

VIII-8        Nhưng trời của trời đó thuộc về Chúa, lạy Chúa, còn trái đất Chúa ban cho con cái loài người, để nhìn xem và sờ tới, lúc đó nó không như chúng con nhìn xem và sờ tới như bây giờ. Vì nó lờ mờ và lộn xộn, và có một vực thẳm, nghĩa là còn tối tăm hơn trong vực thẳm10. Vì cái vực nước đó, ngày nay đã thấy được, ngay tận đáy cùng của nó, có một thứ ánh sáng thuộc loại riêng, mà cá và các vật ngoi trong đáy nó, nhìn thấy được. Nhưng toàn thể khối đó hầu như hư vô, vì hoàn toàn không có hình dạng gì hết. Tuy nhiên nó ở vào tình trạng có thể đón nhận được một hình dạng.

Vậy chính Chúa, lạy Chúa, Chúa đã làm nên thế gian với một vật chất không có hình dạng; từ hư vô Chúa đã làm nên vật chất đó cũng hầu như hư vô, rồi do đó Chúa làm nên những vật vĩ đại mà chúng con, là con cái loài người, lấy làm gỡ ngỡ. Vì thật là lạ lùng, cái bầu trời vật chất, cái thinh không giữa nước và nước, mà Chúa đã làm nên ngày thứ hai, sau khi tạo dựng ánh sáng, bằng một lệnh truyền: Hãy có! Và đã có như vậy! Thinh không này, Chúa đã gọi nó là trời, nhưng là trời của trái đất này và của biển cả, mà Chúa đã làm nên ngày thứ ba11, bằng cách ban một hình dạng trông thấy được cho một vật chất vô dạng, mà Chúa đã tạo dựng trước khi có ngày. Vì Chúa đã làm nên một trời trước khi có ngày, nhưng đó là trời của trời này, bởi vì: Trong Nguyên thuỷ, Chúa đã tạo dựng trời và đất".

Còn về khối đất do Chúa dựng nên, nó còn lờ mờ và lộn xộn, và tối tăm ở trên vực thẳm: Từ khối đất lờ mờ và lộn xộn, từ cái vô dạng, từ cái hầu như hư vô đó, Chúa đã làm nên tất cả những sự làm cho thế giới hay thay đổi này đứng vững, mà thật ra không đứng vững, vì là nơi tỏ lộ sự thay đổi; làm cho chúng con cảm thấy thời gian và cho phép chúng con đo thời gian, vì thời gian được cấu tạo do sự biến đổi của các sự vật, khi biến hình, đổi dạng, mà vật liệu là khối đất lờ mờ và lộn xộn, con đã trên kia12

 

Sao không nói đến thời gian khi bắt đầu việc tạo dựng?


IX-9 Vì thế mà Thánh Linh, Thầy dạy của tôi tớ Chúa, khi nhắc nhở là "trong Nguyên thuỷ, cm đã tạo dựng trời và đất", không nói đến thời gian, hay đến ngày giờ. Vì trời của trời mà Chúa đã tạo dựng trong Nguyên thuỷ, là như một tạo vật trí tuệ, mặc dầu không vĩnh cửu như Chúa, ôi Ba Ngôi Thiên Chúa, nhưng cũng được tham dự sự vĩnh cửu của Chúa13. Tạo vật đó hạn chế được nhiều sự thay đổi của mình, nhờ việc chiêm ngưỡng Chúa rất êm dịu và diễm phúc; lại nhờ sự kết hợp kiên trì với Chúa, ngay từ khi được tạo dựng, tạo vật đó vươn mình lên trên mọi biến đổi chóng qua của thời gian.

Còn về tính cách vô dạng, về khối đất lờ mờ và lộn xộn đó, nó không được tính toán theo thứ tư ngày giờ. Vì nơi nào không có hình dạng, không có trật tự, thì không có gì tới, không có gì qua; và nơi nào không có sự kế tiếp như vậy, thì hẳn là không có ngày, không có sự thay đổi của thời gian.

 

Augutin xin chân lý giúp


X-10          Ôi chân lý, ánh sáng của của lòng con, xin đừng để cho tối tăm của con nói cho con! Con đã sa vào  nơi tối tăm và mắt con đã ra tăm tối, nhưng từ nới đó, vâng, từ nơi đó, con đã say mê Chúa. Trong khi lầm lạc14 con đã nhớ đến Chúa. Con đã nghe tiếng Chúa ở đàng sau gọi con trở lại15, nhưng con không nghe ra, vì sự huyên náo của các đam mê chưa được phỉ. Thì bây giờ, rất nồng nàn và khao khát, con trở lại mạch nước của Chúa. Đừng có ai ngăn trở con, con sẽ uống ở đó và như vậy, con sẽ được sống. Con không được là sự sống cho con, con đã sống xấu tại đó, con đã là cái chết cho con; con sống lại trong Chúa. Xin Chúa nói cho con, xin Chúa dạy con. Con đã tin vào các sách của Chúa, nhưng các lời trong đó rất là bí mật.

 

Những điểm đã thủ đắc


XI-11         Lạy Chúa, Chúa đã lớn tiếng nói vào tai linh hồn con rằng: Chúa vĩnh cửu, chỉ một mình Chúa là bất tử16. Vì Chúa không biến đổi về hình thù hay vận chuyển, và ý muốn Chúa không thay đổi theo thời gian. Vì một ý muốn lúc thế này, khi thế nọ, thì không phải là bất tử. Điều đó, trước mặt Chúa17, thật là rõ ràng cho con. Con xin Chúa cho con được biết một ngày môt rõ ràng hơn nữa, và dưới bóng cánh tay Chúa, con được ở yên trong sự mạc khải rõ ràng đó.

Lạy Chúa, Chúa cũng đã lớn tiếng nói vào tai linh hồn con rằng: Chúa đã làm nên mọi bản tính và mọi bản thể; chúng không hiện hữu như Chúa hiện hữu: Không có gì không bởi Chúa mà ra, trừ hư vô và một ý chí rời xa Chúa, là hữu thể tuyệt đối để đi tới các vật hèn hạ hơn. Thật vậy, sự rời xa đó là sai lầm và là tội lỗi; lại không một tội nào, hoặc hại được Chúa, hoặc phá rối được trật tự Nước Chúa, ở trên cao hay ở dưới thấp. Trước mặt Chúa, điều này thật là rõ ràng cho con; con cầu xin Chúa cho con được biết mỗi ngày một rõ ràng hơn và con được ở yên dưới bóng cánh tay Chúa, trong mạc khải rõ ràng này.

12               Chúa còn lớn tiếng nói vào tai linh hồn con rằng: Tạo vật này cũng không được vĩnh cửu như Chúa, tuy nó lấy một mình Chúa làm khoái lạc cho nó; nó được hưởng Chúa trong một sự thanh khiết triền miên, chẳng hề chia lòng trí ra đàng nào khác, và, luôn luôn có Chúa ở trước mặt, nó hết mình kết hợp với Chúa, không cần tương lai để trông chờ, không cần nhìn về quá khứ để mà nhớ, không có biến chuyển nào đổi thay được, không bị kéo dài trong thời gian.

Nếu có tạo vật nào như vậy, thì nó được diễm phúc dường nào, vì được kết hợp với hạnh phúc của Chúa, vì được làm nên nhà vĩnh cửu cho Chúa và được Chúa soi sáng cho! Con không thấy gì đúng hơn để được gọi là trời của trời thuộc về Chúa, cho bằng ngôi nhà này của Chúa, hằng được chiêm ngưỡng sự khoái lạc của Chúa, mà không một yếu đuối nào lôi kéo ra nơi khác; cho bằng trí tuệ thanh khiết này, được hợp nhất rất chặt chẽ trong dây hoà bình với các thần thánh, là công dân Nước Chúa trên trời, cao hơn trời của chúng con18

13               Chớ gì nhờ đó, mọi linh hồn hiểu được - con nói: Mọi linh hồn lìa xa Chúa trong cuộc lữ hành này, nếu họ đã khát khao Chúa, nếu nước mắt của họ trở thành cơm bánh hằng ngày cho họ, đang khi hằng ngày họ nghe nói: Chúa mi đâu?19 Nếu họ xin Chúa và họ chỉ ước ao một điều là được ở nhà Chúa suốt đời?20 Và đời của họ là gì, nếu không phải là Chúa; và ngày của Chúa là gì, nếu không phải là vĩnh cửu của Chúa, cũng như các năm của Chúa không qua đi21, vì Chúa hằng có mãi như vậy - Vâng, con xin lắp lại: Chớ gì nhờ đó mọi linh hồn hiểu được, nếu có thể, là sự vĩnh cửu của Chúa vượt rất xa mọi thời gian, khi mà nhà của Chúa, không lữ hành xa Chúa, dầu không vĩnh cửu như Chúa, tuy nhiên, vì được luôn luôn kết hợp bền chặt với Chúa, nó không lệ thuộc sự thay đổi của thời gian.

Trước nhan thánh Chúa, điều đó thật rõ ràng cho con, và con xin Chúa cho con được biết mỗi ngày một rõ ràng hơn, và dưới bóng cánh tay Chúa con được ở yên trong sự mạc khải đó.

14               Con không biết có một vật chất vô dạng nào trong các biến đổi của các sự vật hạ cấp và nhỏ bé. nhưng ai nói được cho con - trừ kẻ điên cuồng buông theo các ảo ảnh chóng qua của mình - vâng, trừ kẻ đó, ai dám bảo con rằng: Dù hết mọi hình thù bị bãi bỏ và tiêu diệt, nếu chỉ còn lại cái khối vô dạng đó - nhờ nó mà sự vật biến đổi từ hình này sang hình nọ - vâng, khối vô dạng đó có thể gây nên các sự thay đổi của thời gian? Điều đó không thể nào được, vì không có sự vận chuyển khác biệt, thì không có thời gian; và nơi đâu không có hình dạng nào thì không có khác biệt.

 

Những tạo vật ở ngoài thời gian


XII-15        Sau khi cứu xét các điều đó, theo như Chúa cho phép, lạy Chúa con, và theo như Chúa thúc giục con gõ cửa, và như Chúa mở cửa, khi con gõ, con thấy trong các tạo vật của Chúa có hai tạo vật không có thời gian, mặc dầu chúng không vĩnh cửu như Chúa. Tạo vật thứ nhất trọn hảo đến nỗi, vì nó không ngừng chiêm ngưỡng Chúa, vì không bị một quãng thời gian nào đến làm gián đoạn, nên mặc dầu tự bản tính hay thay đổi, nó cũng không thay đổi, vì nó được hưởng sự vĩnh cửu và sự bất biến của Chúa. Tạo vật thứ hai thì vô dạng đến nỗi, trong nó không có hình dạng nào để biến đổi sang hình dạng khác, hoặc động, hoặc tĩnh, bắt nó phải lệ thuộc vào thời gian. Nhưng Chúa đã không để tạo vật này trong tình trạng vô dạng, vì trước mọi ngày giờ, trong Nguyên thuỷ, Chúa đã làm nên trời và đất, là hai tạo vật con đã nói22. Nhưng lúc đó "đất còn lờ mờ và lộn xộn và tối tắm ở trên vực thẳm". Qua những lời đó, Thánh Kinh gợi ra ý niệm vô dạng, để từ từ thuyết phục những tâm hồn không thể quan niệm được rằng: Một vật thiếu hình dạng không nhất thiết là hư vô. Vì do khối vô dạng đó phát xuất một trời thứ hai, và một trái đất hữu hình và có tổ chức, và làn nước xinh đẹp, rồi đến tất cả những gì mà Kinh Thánh thuật lại trong việc tạo dựng thế gian, theo ngày giờ ấn định. Các sự vật đó đã được tạo dựng như thế, nên trong chúng có sự thay đổi do thời gian chi phối, theo nhịp sự biến hoá đều hoà của vận hành và hình thể.

XIII-16      Lạy Chúa, khi con nghe Kinh Thánh kể: "Trong Nguyên thuỷ, Thiên Chúa đã tạo dựng trời và đất. Mà đất thì lờ mờ và lộn xộn, và tối tăm ở trên vực thẳm", mà không nói đến ngày Chúa đã làm các việc đó, thì con hiểu, vâng, con hiểu đó là trời của trời, trời tinh thần, nơi trí tuệ hiểu được mọi sự cùng một lúc, chứ không phải từng phần, không phải cách lờ mờ, không phải như qua tấm gương, mà là toàn thể, là rõ ràng, là diện đối diện23; nơi trí tuệ biết được không phải lúc cái này, lúc cái nọ, mà như con đã nói, biết được tất cả cùng một lúc, không có sự thay đổi của thời gian. Con cũng hiểu đó là về trái đất lờ mờ và lộn xộn, không lệ thuộc sự biến đổi của thời gian. Vì chỉ thời gian mới có lúc đưa ra cái này, lúc đưa ra cái nọ; mà nơi nào không có hình dạng, thì không thể có cái này, cái nọ.

Về hai tạo vật đó: một hoàn toàn từ đầu, một hoàn toàn vô dạng; tạo vật trên là trời, mà là trời của trời; tạo vật dưới là đất, mà là đất còn lờ mờ và lộn xộn; vâng, con hiểu Thánh Kinh nói về hai tạo vật đó, nhưng Thánh Kinh của Chúa trình thuật mà không nói đến ngày giờ: "Trong Nguyên thuỷ, Thiên Chúa đã tạo dựng trời và đất". Liền đó, Thánh Kinh cho biết thêm là nói về đất nào? Thánh Kinh lại kể ngày thứ hai, thinh không được tạo dựng và được gọi là bầu trời, thì có ý cho hiểu về trời nào Thánh Kinh đã nói trên kia, mà không chỉ ngày tạo dựng.

XIV-17      Các lời Chúa sâu xa lạ lùng thay! Nó chỉ tỏ cho chúng con mọi bề mặt vui tươi như con nít; nhưng bề sâu lạ lùng thay, lạy Chúa, bề sâu lạ lùng thay! Người ta phải sợ hãi mà nhìn vào đó, sợ hãi vì tôn kính, run rẩy vì mến yêu! con ghét kẻ thù của Thánh Kinh: Sao Chúa không giết chết chúng bằng thanh gươm hai lưỡi24, để khỏi còn có kẻ thù? Con thích chúng chết như vậy cho mình, để được sống cho Chúa.

Nhưng có những người khác, không phải là những người dèm pha, mà là sùng mộ sách Khởi nguyên, họ bảo con rằng: "Thần linh Thiên Chúa không muốn cho người ta hiểu như vậy, qua những lời mà Người đã soi cho Maisen, tôi tớ của Người, viết ra; phải, Người không muốn cho người ta hiểu như anh nói, mà như chúng tôi nói".

Ôi, Chúa chung của chúng con hết thảy, con đã trả lời cho họ rằng: Chúa sẽ là trọng tài giữa chúng ta!

 

Tranh luận với ít kẻ chống đối


XV-18       Làm sao các anh bảo là sai điều mà chân lý đã lớn tiếng nói vào tai linh hồn tôi về tính vĩnh cửu đích thực của Đấng hoá công, về bản thể của Người không hề thay đổi theo thời gian và về ý muốn của Người không ở ngoài bản thể của Người. Bởi đó, Người không lúc thế này, lúc thế nọ; mà điều Người muốn một lần cho tất cả, đồng thời và mãi mãi; ý muốn của Người không có kế tiếp, không phải lúc muốn cái này, lúc muốn cái nọ, hoặc muốn điều trước kia không muốn, hoặc không muốn điều trước kia đã muốn. Vì một ý muốn như vậy là hay thay đổi, và cái gì hay thay đổi không phải là vĩnh cửu; mà Thiên Chúa chúng ta là Đấng vĩnh cửu.

Các anh cũng cho là sai hay sao điều mà sự chân thật đã nói vào tai linh hồn tôi, là việc trông chờ các sự tương lai trở thành chăm chú khi chúng là hiện tại; cũng vậy, việc chăm chú trở thành nhớ lại khi chúng qua đi? Lại trí tuệ hoạt động như vậy là hay thay đổi và hay thay đổi thì không phải là vĩnh cửu; mà Thiên Chúa chúng ta là Đấng vĩnh cửu? Tôi thu lượm và đúc kết các chân lý đ1o lại thì tôi thấy Thiên Chúa của tôi là Chúa vĩnh cửu, đã làm nên tạo vật, không do một ý muốn mới mẻ và tri thức của Chúa không chịu ảnh hưởng gì của những vật chóng qua.

19               Hỡi các người chống đối, các anh sẽ nói gì? Các điều đó sai cả hay sao? - Họ trả lời: "Không sai". Nhưng sao? Có phải là sai, khi nói rằng: Mọi tạo vật được thành hình, mọi vật chất khả dĩ thành hình, đều nhận được hữu thể của chúng nơi Đấng tốt lành tuyệt đối, vì Người là Hữu thể tuyệt đối, hay sao? - Họ trả lời: Chúng tôi cũng không chối điều đó. - Vậy thì sao? Các anh có chối điều này không, là có một tạo vật cao thượng, với một tình yêu thanh khiết, kết hợp chặt chẽ với Chúa chân thật và thật là vĩnh cửu, đến nỗi, mặc dầu không đồng vĩnh cửu như Thiên Chúa, nó không hề rời bỏ và lìa xa Người, để rơi vào những biến đổi phức tạp của thời gian, nhưng được nghỉ yên trong sự chiêm niệm chân lý duy nhất của mình? Vì nó yêu mến Chúa như Chúa truyền dạy, lạy Chúa, nên Chúa tỏ mình ra cho nó25 và Chúa thoả mãn nó. Cho nên nó không rời bỏ Chúa và cũng không quay về mình? Đó là nhà của Thiên Chúa26, không thuộc về đất, cũng không thuộc về thiên thể hữu hình, mà là nhà thiêng liêng và được tham dự sự vĩnh cửu của Chúa, vì nó không có tì ố cho đến muôn đời. Thật vậy, Chúa đã thiết lập nó cho đến ngàn đời và muôn ngàn đời. Chúa đã thiết lập một lề luật sẽ không qua đi27. Tuy nhiên, nó không đồng vĩnh cửu với Chúa, vì nó đã bắt đầu, nó đã được tạo dựng.

20               Hẳn là chúng con không thấy thời gian có trước sự khôn ngoan. Vì sự khôn ngoan đã được tạo dựng trước mọi tạo vật28. Và hẳn là đây không phải sự khôn ngoan, mà Chúa là Cha, lạy Chúa chúng con, và hoàn toàn ngang hàng và đồng vĩnh cửu với Chúa, và nhờ Người mọi sự đã được tạo thành, vì "trong Nguyên thuỷ Chúa đã tạo dựng trời và đất". Mà đây chính là sự khôn ngoan được tạo dựng, là tạo vật trí tuệ, được chiêm ngưỡng ánh sáng Chúa, mà trở thành ánh sáng. Mặc dầu được tạo dựng, người ta cũng gọi nó là sự khôn ngoan. Nhưng có sự khác biệt giữa ánh sáng soi và vật được soi sáng, thì cũng có khác biệt giữa sự khôn ngoan sáng tạo và sự khôn ngoan được tạo dựng, như giữa sự công chính hoá và công chính được phát sinh bởi sự công chính hoá: Há chính chúng con không được gọi là sự công chính của Chúa hay sao? Vì một tôi tớ Chúa đã nói: "... để chúng ta nhờ Người mà trở nên sự công chính của Thiên Chúa"29. Vậy có một sự khôn ngoan được tạo dựng trước mọi tạo vật, được tạo dựng như một tinh thần có lý trí và thông minh, trong thành thánh, là mẹ chúng con, là vương quốc trên cao, tự do và vĩnh cửu trên các tầng trời30. Các tầng trời nào, nếu không phải là các tầng trời hãy ca mừng Chúa, vì đây là trời của trời thuộc về Thiên Chúa, hay sao? Vâng, hẳn là chúng con không thấy có thời gian trước sự khôn ngoan đó, vì được tạo dựng trước mọi tạo vật, nó đi trước cuộc tạo dựng thế gian. Nhưng trước nó, đã có sự vĩnh cửu của chính Đấng hoá công, nó nhận nguồn gốc ở Người, khi được tạo dựng, không theo thời gian, vì thời gian chưa có, mà theo số phận của nó là tạo vật.

21               Cho nên, nó bởi Chúa mà ra, lạy Chúa chúng con. Nhưng nó khác Chúa mọi đàng và không cùng một yếu tính, mặc dầu không những trước nó mà trong nó nữa, chúng con không thấy có thời gian. Vì nó được đặc ân hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Chúa31, không hề rời bỏ; cho nên nó không lệ thuộc vào sự thay đổi nào. Nhưng vốn tính hay thay đổi, nó có thể trở nên tối tăm và giá lạnh, nếu nó không nhờ một tình yêu mến lớn lao mà kết hợp với Chúa, như với chính ngọ, luôn luôn được Chúa sáng soi và sưởi ấm.

Ôi, toà nhà sáng láng và xinh đẹp! Tôi đã yêu mến vẻ huy hoàng, nơi lưu ngụ vinh quang của Chúa32, là Đấng đã dựng nên ngươi và chiếm hữu ngươi! Cuộc lữ hành của tôi hướng về ngươi, và tôi xin Đấng đã dựng nên ngươi, cũng chiếm hữu tôi trong ngươi, vì Người cũng đã dựng nên tôi. Tôi đã phiêu lưu như con chiên lạc33, nhưng tôi mong được mang về với ngươi trên vai của chủ chăn tôi34, là Đấng đã xây dựng ngươi.

22               Các anh bảo tôi làm sao? Hỡi những người chống đối, mà tôi đang nói với? Thế mà các anh vốn coi Maisen là tôi tớ trung thành của Chúa và các sách của ngài đều là sấm ngôn của Chúa Thánh Thần? Đó có phải là nhà của Thiên Chúa, mặc dầu không đồng vĩnh cửu với Người, nhưng cũng có một thứ vĩnh cửu riêng của mình ở trên trời35, nơi mà các anh luống công tìm mà không thấy sự thay đổi của thời gian? Vì nhà ấy vượt trên mọi chiều dài, chiều rộng của thời gian, vì tất cả hạnh phúc của nó là luôn kết hợp với Thiên Chúa36 - Họ trả lời con: "Đúng như thế" - Vậy trong các điều mà lòng tôi đã kêu lên37 Chúa tôi, khi nó nghe thấy trong mình cung giọng tạ ơn38 Chúa, có điều gì các anh cho là sai? Hay là vì tôi đã nói là có vật chất vô dạng, trong nó không thể có một trật tự nào, vì không có hình thù nào, chăng? Nhưng ở đâu có trật tự, thì cũng không có thể có thay đổi thời gian. Tuy nhiên, khối vật chất hầu như hư vô này, vì nó không thuần tuý hư vô, nó cũng phát xuất bởi Đấng, mà bất cứ một vật gì hiện hữu đều bởi Người mà ra? - Họ trả lời: Chúng tôi cũng không chối từ điều đó.
 
 

MẤY NGUYÊN TẮC VỀ PHƯƠNG PHÁP CHÚ GIẢI

 

Augutin không muốn tranh luận với một số địch thù


XVI-23      Trước nhan thánh Chúa, lạy Chúa, con chỉ muốn thảo luận với những người chấp nhận là thật tất cả các điều mà chân lý của Chúa hằng nói lên trong trí khôn con. Còn những người từ chối các điều đó, thì họ tha hồ cắn sủa, chỉ thêm mệt xác họ. Con sẽ cố gắng khuyên họ hãy bình tĩnh và hãy mở đường cho lời Chúa đi vào lòng họ. Nếu họ không ưng và xua đuổi con, thì con xin Chúa, lạy Chúa, đừng lìa bỏ con thinh lặng39. Phần Chúa, xin hãy nói thật trong lòng con, vì chỉ có Chúa nói như vậy. Và con để cho họ ở ngoài, khuấy bụi cát cho mù mắt. Con sẽ đi vào thâm cung lòng mình40 và sẽ hát cho Chúa nghe những bài tình ca đầy giọng thở than khôn tả trong cuộc lữ hành, và con tin tưởng nhớ hướng về Giêrusalem - Giêrusalem quê hương con, Giêrusalem mẹ con41 - và hướng về Chúa là Đấng cai trị nó, soi sáng nó, là Cha nó, là Đấng đỡ đần nó, là Lang quân của nó, là sự khoái lạc thanh khiết và lành mạnh của nó, là niềm vui chắc chắn của nó, đồng thời là thiện hảo duy nhất, tuyệt đối và chân thật. Con sẽ không lìa bỏ Chúa, cho đến khi - thống nhất toàn thể con người con sau bao năm phân tán và cải thiện con sau bao hư hỏng - Chúa đã đón nhận con vào nơi bình yên của mẹ rất yêu quý này, nơi tập trung các của đầu mùa của trí khôn con, cũng như do nơi đó mà các chân lý này đã đến với con, để làm cho con được xứng hợp và vững mạnh đến muôn đời. Ôi Chúa con, ôi Đấng từ bi của con!42

 

Những thắc mắc được chấp nhận


Nhưng đối với những người không cho tất cả các sự chân thật này là sai, những người tôn trọng và cùng với chúng con coi Thánh Kinh, do thánh nhân Maisen đã chép, như một quyền hành cao nhất phải noi theo, mà lại chống đối chúng con điều gì, thì con trả lời cho họ rằng: Xin Chúa là Chúa chúng con, làm trọng tài xét xử các lời xưng tụng của con và các bác luận của họ43

 

Chú giải khác nhau


XVII-24     Vậy họ nói: "Mặc dầu các điều đó có thật, nhưng Maisen đã không để ý đến hai thực tại đó, khi, nhờ Thánh Linh mạc khải, ông viết: "Trong Nguyên thuỷ, Thiên Chúa đã tạo dựng trời và đất". Tiếng trời không chỉ tạo vật tinh thần hay trí tuệ hằng chiêm ngưỡng tôn nhan Thiên Chúa. Tiếng đất cũng không chỉ khối vật chất vô dạng! - Vậy là gì? Họ thưa: "Điều chúng tôi nói đáp ứng với tư tưởng và từ ngữ của Maisen". - Thế nghĩa là gì? Họ thưa: "Qua tiếng trời và đất, trước hết Maisen đã muốn chỉ, cách đại khái và vắn tắt, tất cả thế giới hữu hình, để sau phân tách toàn khối đó ra từng khoản, theo thứ tự các ngày, như Thần Linh đã muốn cho trình thuật như vậy. Vì thính giả của Maisen là một dân quê mùa xác thịt, gồm những con người mà ông xét chỉ nên cho biết những công trình của Chúa, mà họ xem thấy được!

Đàng khác, họ đồng ý với con là khối đất lờ mờ và lộn xộn và vực thẳm tối tăm - do đó tất cả thế giới hữu hình, và mọi người đều biết, đã được từ từ xuất hiện và được tổ chức theo công việc các ngày - hiểu được là khối vật chất vô dạng mà không có gì là bất tiện.

25               Nhưng sao? Nếu một người khác nói: "Chính tiếng 'trời và đất', thoạt tiên, khêu gợi ý niệm một khối vật chất vô dạng và lộn xộn, vì từ đó thế giới hữu hình này, cùng mọi tạo vật xuất hiện rõ ràng, thường được gọi là trời đất, đã được tạo dựng và hoàn thành".

Sao nữa? Nếu một người khác nói44: "Không phải là không đúng, khi gọi các tạo vật vô hình và hữu hình là trời và đất, và, như thế, là toàn thể tạo vật - do Thiên Chúa tạo dựng, trong sự Khôn ngoan, nghĩa là trong Nguyên thuỷ - được hiểu ngầm trong hai danh từ đó. Tuy nhiên, vì các tạo vật được tác thành, không từ chính bản thể của Thiên Chúa, mà từ hư vô, vì chúng không đồng nhất với Thiên Chúa và nơi chúng vốn có một tiền năng hay thay đổi - hoặc chúng thường trực như nhà vĩnh cửu của Thiên Chúa, hoặc chúng biến đổi như linh hồn và thân xác con người - cho nên vật liệu chung cho tất cả các thụ tạo vô hình và thụ tạo hữu hình, lúc đó hãy còn là vô dạng, nhưng có khả năng đón nhận hình dạng và bởi đó sẽ làm nên trời và đất. Hay nói cách khác: Toàn thể tạo vật (có thứ vô hình có thứ hữu hình, khi đã nhận được hình dạng) đã được mệnh danh bằng những tiếng "đất lờ mờ và lộn xộn và tối tăm trên vực thẳm". Nhưng phải phân biệt điều này, là tiếng "đất lờ mờ và lộn xộn" được hiểu như vật liệu thể chất trước mọi ấn định về hình dạng; và tiếng "tối tăm trên vực thẳm" được hiểu như vật liệu thiêng liêng, trước khi tính lưu thông vô tận của nó bị cầm giữ và trước khi sự khôn ngoan soi sáng nó!

26               Một người khác nữa có thể nói, nếu họ muốn: "Khi chúng tôi đọc rằng: 'Trong nguyên thuỷ, Thiên Chúa đã tạo dựng trời và đất'; thì tiếng trời và đất không ám chỉ các thực thể vô hình và các thực thể hữu hình, đã được thành hình và hoàn tất. Các tiếng đó ám chỉ một phác hoạ vô dạng của các vật, một vật liệu có thể nhận được mọi hình dạng và có thể được tác thành, vì trong nó đã hiện hữu một cách lờ mờ, không phân biệt hình dạng và phẩm chất, các tạo vật sau này sẽ được xếp đặt theo thứ tự của chúng. Cái đó người ta gọi là trời và đất, một chỉ tạo vật thiêng liêng, một chỉ tạo vật thể chất".

 

Augutin đặt một nguyên tắc khoan đại cho mọi cuộc tranh luận về Thánh Kinh


XVIII-27   Con lắng nghe, con nghiên cứu tất cả các chú giải đó. Nhưng con không muốn tranh luận về danh từ. Điều đó không ích gì, chỉ hại cho người nghe45. Trái lại, pháp luật là tốt để xây dựng, khi người ta dùng nó cho phải phép, vì mục đích pháp luật là bác ái phát xuất tự tấm lòng trong sạch, lương tâm thiện hảo và đức tin không giả đối46. Và Thầy chúng con biết trong hai điều nào Người đã tóm tắt toàn thể pháp luật và lời các tiên tri47. Đối với con là kẻ đã sốt sắng xưng tụng các điều ấy, thì, lạy Chúa là ánh sáng mắt con48 trong đêm tối, có gì bất tiện cho con khi các lời ấy được chú giải cách này hay cách khác, mà chân thật cả? Vâng, có gì bất tiện cho con đâu, khi có người cho là ý nghĩa đích thực của tác giả Thánh Kinh, một ý nghĩa khác với ý nghĩa của con? Hẳn là hết mọi người chúng con, khi đọc Thánh Kinh đều cố gắng tìm tòi để thấu hiểu ý tứ của kẻ chúng con đọc, và vì tin ông nói sự thật, nên chúng con không dám gán cho ông điều gì mà chúng con biết hay tưởng là sai. Vậy khi mỗi người chúng con đều ra công khám phá trong Thánh Kinh tư tưởng đích thực của tác giả, thì có gì là xấu, ôi ánh sáng của mọi trí khôn thành thực, nếu chúng con thấy được một điều mà Chúa tỏ cho chúng con là chân thật, mặc dầu điều đó không phải là tư tưởng đích thực của gác giả, cũng là kẻ đã nghĩ sự thật, dầu không nghĩ như chúng con?

 

Phải cương quyết duy trì những điểm nào?


XIX-28      Vậy, lạy Chúa, điều có thật là Chúa đã tạo dựng trời và đất. Điều có thật là "Nguyên thuỷ" là sự khôn ngoan của Chúa, trong Người, Chúa đã làm nên mọi sự49. Cũng là điều có thật là thế giới hữu hình này gồm hai phần lớn là trời và đất, để tóm tắt tất cả những gì Chúa đã tạo dựng và tác thành. Điều có thật là tất cả mọi vật hay thay đổi gợi cho trí khôn chúng con ý niệm về một cái gì vô dạng, nhưng có thể đón nhận hình dạng, và, do đó, thay đổi và biến hoá. Điều có thật là sự thay đổi của thời gian không ảnh hưởng đến tạo vật được kết hợp rất mật thiết với một mô thể bất biến, đến nỗi, mặc dầu tự bản tính hay thay đổi, nó cũng không thay đổi bao giờ. Điều có thật là vật vô dạng, là hầu như hư vô, không lệ thuộc vào sự thay đổi của thời gian. Điều có thật là vật liệu để làm nên một thụ tạo có thể theo kiểu nói đã được chấp nhận, mang tên của thụ tạo sẽ bởi nó mà ra. Như vậy, người ta có thể gọi là trời và đất cái khối vô dạng, sẽ được dùng để làm nên trời và đất. Điều có thật là trong các thực thể đã được tạo dựng, không gì gần khối vô dạng cho bằng đất và vực thẳm. Điều có thật là chẳng những tất cả các sự vật đã được tạo dựng và tác thành, mà cả những gì có thể được tạo dựng và tác thành, đều là công trình của Chúa, vì bởi Chúa mà có mọi sự50. Điều có thật là tất cả những gì được tác thành từ một vật liệu vô dạng, thì trước hết nó là vô dạng, sau nó mới nhận được hình dạng.

 

Ai nấy có thể chọn trong các chân lý đó


XX-29       Các chân lý đó, những người được Chúa ban cho nhìn thấy bằng con mắt bề trong, thì không chối bỏ, họ còn vững dạ tin rằng: Maisen, tôi tớ Chúa, đã nói theo Thần linh chân lý; vậy trong các chân lý đó, có kẻ chọn một và nói: "Trong Nguyên thuỷ, Thiên Chúa đã tạo dựng trời và đất" có nghĩa là trong Ngôi Lời của Chúa, cũng vĩnh cửu như Chúa, Thiên Chúa đã làm nên các tạo vật khả niệm và khả giác hay là tinh thần và vật thể. Người thứ hai chọn chân lý khác và nói: "Trong Nguyên thuỷ, Thiên Chúa đã tạo dựng trời và đất", có nghĩa là trong Ngôi Lời, đồng vĩnh cửu với Ngài, Thiên Chúa đã làm nên toàn khối vũ trụ hữu hình này, với mọi vật nó chứa đựng, như chúng tỏ hiện và như ta biết.

Người thứ ba nói: "Trong Nguyên thuỷ, Thiên Chúa đã tạo dựng trời và đất", có nghĩa là trong Ngôi Lời đồng vĩnh cửu với Ngài, Thiên Chúa đã làm nên một vật chất vô dạng cho các tạo vật tinh thần và vật thể. Người thứ tư nói: "Trong Nguyên thuỷ, Thiên Chúa đã tạo dựng trời và đất", có nghĩa là trong Ngôi Lời đồng vĩnh cửu với Ngài, Thiên Chúa đã làm nên vật chất vô dạng của tạo vật vật thể, trong đó trời và đất hãy còn lẫn lộn, mà ngày nay ta thấy mỗi vật đã có hình dạng riêng biệt và nhất định trong khối vũ trụ này. Người thứ năm nói: "Trong Nguyên thử, Thiên Chúa đã tạo dựng trời và đất", có nghĩa là khi bắt đầu công việc tác tạo, Thiên Chúa đã làm nên một khối vật chất vô dạng, bao gồm lẫn lộn trời và đất, đã được tác thành từ đó và ngày nay xuất hiện rõ ràng với mọi vật chúng chứa đựng.

XXI-30      Cũng phải làm như vậy để hiểu các lời Kinh Thánh kế tiếp. Trong các cách hiểu khác nhau, nhưng chân thật cả, ai nấy chọn theo như mình muốn51. Một người nói: "Đất lờ mờ và lộn xộn, và tối tăm trên vực thẳm", nghĩa là khối vật thể mà Thiên Chúa đã tạo dựng làm vật liệu cho các thụ tạo vật thể hãy còn là vô dạng, vô trật tự, không ánh sáng. Người thứ hai nói: "Đất lờ mờ và lộn xộn, và tối tăm trên vực thẳm", có nghĩa là tất cả khối mà người ta gọi là trời và đất lúc đó hãy còn là một khối vật chất vô dạng và tối tăm, từ đó sẽ xuất hiện trời vật thể và đất vật thể, với tất cả những gì chúng chứa đựng, mà quan năng thân xác ta biết được. Người thứ nói: "Đất thời lờ mờ và lộn xộn và tối tăm trên vực thẳm", có nghĩa là toàn khối mà người ta gọi là trời và đất, lúc đó hãy còn là một khối vật chất vô dạng và tối tăm, từ đó phải phát xuất trời tinh thần - mà nơi khác gọi là trời của trời - và đất, tức là tất cả thụ tạo vật thể; tiếng đó cũng chỉ trời vật thể. Hay nói cách khác: Từ khối vật chất vô dạng và tối tăm đó, phát xuất mọi tạo vật hữu hình và vô hình. Người thứ tư nói: "Đất thời lờ mờ và lộn xộn, và tối tăm trên vực thẳm", không phải khối vô dạng mà Thánh Kinh gọi tên là trời và đất; khối đó đã có trước, mà Thánh Kinh gọi là đất lờ mờ và lộn xộn và vực thẳm tối tăm: Thánh Kinh đã nói trước là từ đó Thiên Chúa đã làm nên trời và đất, tức là tạo vật tinh thần và tạo vật vật thể. Người thứ năm nói: "Đất thời lờ mờ và lộn xộn và tối tăm trên vực thẳm", nghĩa là có một khối vô dạng nào đó làm vật liệt, mà Thánh Kinh đã nói trước, là Thiên Chúa sẽ lấy đó làm nên trời và đất, tức là tất cả cái khối vật thể của thế giới, được chia làm hai phần lớn, một ở trên, một ở dưới, với mọi tạo vật chúng chứa đựng và ta thường thấy.

XXII-31     Về hai cách hiểu cuối cùng, người ta có thể chống lại rằng: Nếu các anh không muốn cho gọi cái khối vật chất vô dạng là trời và đất, thì sẽ có một vật mà Thiên Chúa chưa dựng nên, để lấy đó mà làm ra trời và đất. Vì Thánh Kinh đã không nói đến việc Thiên Chúa dựng nên vật đó, đừng kể là người ta phải hiểu rằng: Nó đã được ám chỉ trong tiếng trời và đất, hoặc trong tiếng đất mà thôi khi Kinh Thánh nói: "Trong Nguyên thuỷ Thiên Chúa đã tạo dựng trời và đất". Còn câu theo sau "Đất thời lờ mờ và lộn xộn", dầu Thánh Kinh ưa gọi đó là vật chất vô dạng, thì chúng tôi Chúa không thể hiểu đó là một vật chất khác vật chất Thiên Chúa đã tạo dựng từ ban đầu, khi Thánh Kinh nói: "Thiên Chúa đã tạo dựng trời và đất". Về bác luận này, những người chủ trương hai cách hiểu mà chúng con đã nhắc đến cuối cùng - hoặc một trong hai cách hiểu đó - có thể trả lời rằng: "Chúng tôi không chối là vật thể vô dạng đó đã do Thiên Chúa tạo dựng, vì mọi sự thiện hảo52 đều bởi Chúa mà ra. Vì như chúng tôi đã nói: Những gì đã được tạo dựng và tác thành là điều tốt hảo hạng, thì chúng tôi cũng công nhận là những gì có khả năng được tạo dựng và tác thành, thì tốt ít hơn, nhưng cũng tốt.

"Còn như Thánh Kinh im lặng về việc Thiên Chúa tạo dựng khối vô dạng đó thì cũng đã im lặng về nhiều vật khác, như về các thiên thần vệ binh, thiên thần sốt mến và các vị mà thánh Phaolô đã phân biệt rõ ràng như: Ngai thần, quản thần, lãnh thần, uy thần, mà tất cả đều rõ ràng là công trình của Thiên Chúa53. Nếu người ta muốn rằng: Câu "Thiên Chúa đã tạo dựng trời và đất" bao gồm mọi sự, thì chúng tôi nói gì được về nước, mà Thần khí bay lượn bên trên? Nếu người ta hiểu tiếng đất bao gồm cả nước, thì làm sao chấp nhận được tiếng này ám chỉ một vật chất vô dạng, khi chúng tôi nhìn thấy nước tốt đẹp như vậy? Nếu muốn chấp nhận như vậy, thì sao Kinh Thánh lại nói: Bởi vật chất vô dạng đó thinh không được tạo dựng và được gọi là trời, mà lại không nói đến nước được tạo dựng? Vì nước mà chúng tôi thấy lưu thông xinh đẹp như vậy, thì không phải là không thấy được và vô dạng. Phải chăng nước đã nhận lãnh vẻ xinh đẹp đó, khi Thiên Chúa phán: "Nước dưới bầu trời hãy tụ lại", như thể việc tụ lại chính là lúc nó được tạo dựng? Thì người ta sẽ trả lời làm sao về nước ở trên vòm trời? Vì chưa được hình thành, nó không đáng được một chỗ vinh dự như vậy, mà Kinh Thánh cũng không nói: Do lời nào đã được tác thành?

"Cho nên, nếu sách Khởi Nguyên không nhắc đến việc Thiên Chúa đã tạo dựng một vật nào đó, thì đã rõ không một đức tin mạnh nào, cũng như không một trí khôn chắc chắn nào lại nghi ngờ việc tạo dựng đó. Bởi vậy, cũng chẳng có giáo huấn đoan chính nào dám nói rằng: Nước đồng vĩnh cửu với Thiên Chúa, bởi lẽ sách Khởi Nguyên nói đến nó, mà không cho biết nó được tạo dựng lúc nào? Như vậy, tại sao chúng ta lại không hiểu theo ánh sáng của chân lý, là khối vật chất vô dạng đó, mà Kinh Thánh gọi là đất lờ mờ và lộn xộn và vực thẳm, cũng đã được Thiên Chúa tạo dựng bởi hư vô, và như vậy, không đồng vĩnh cửu với Người, mặc dầu trình thuật đó đã không cho biết lúc nào nó đã được tạo dựng?".

 

Thái độ của Augutin trước các cách hiểu Kinh Thánh khác nhau


XXIII-32   Sau khi lắng nghe và cân nhắc những cách hiểu khác nhau đó, theo khả năng yếu đuối của con, mà con xưng tụng Chúa, là Đấng biết rõ con, lạy Chúa, con thấy là khi có một sứ điệp nào được loan báo bằng dấu hiệu do những sứ giả chân thật, thì có thể xảy ra hai loại bất đồng ý kiến: Một nhằm vào chân lý của sứ điệp, một nhằm vào ý tứ của sứ giả. Vì trong việc tạo dựng, tìm cho biết chân lý của sự việc thì khác, mà tìm cho biết điều gì Maisen, người tôi tớ kỳ diệu của đức tin Chúa, đã muốn cho người đọc và nghe sứ điệp của ông hiểu biết, là khác.

Về điểm thứ nhất, xin hãy xa con tất cả những kẻ cho các giáo lý sai lầm là chân thật. Về điểm thứ hai, cũng xin hãy xa con, tất cả những kẻ chủ trương là Maisen đã nói những điều sai54. Nhưng lạy Chúa, con muốn kết hợp trong Chúa và vui mừng trong Chúa với những người tự dinh dưỡng bằng chân lý Chúa, trong bác ái sung mãn của Chúa. Chúng con phải cùng nhau tới gần lời sách Chúa và phải tìm trong đó tư tưởng của Chúa, qua tư tưởng của tôi tớ Chúa, mà Chúa dùng ngòi bút để phân phát cho chúng con.

XXIV-33   Nhưng tư tưởng đó, ai trong chúng con tìm ra được giữa bao nhiêu tư tưởng cùng chân thật - mà lời Chúa gợi ra cho những kẻ tìm kiếm, mà lại hiểu khác nhau - đến nỗi quả quyết được rằng: Đây là tư tưởng của Maisen, đây là điều ông muốn cho người ta hiểu trong trình thuật của ông; cũng như quả quyết được rằng: Điều này là thật, mà có khi Maisen nghĩ thế, có khi nghĩ thể khác, không chừng?

Vậy phần con là tôi tớ Chúa55, lạy Chúa, con đã hứa dâng lên Chúa hy lễ xưng tụng của con trong sách này, con xin lòng nhân từ Chúa giúp con giữ trọn lời hứa56. Vậy phần con, con quả quyết rằng: Trong Ngôi Lời bất biến của Chúa, Chúa đã tạo dựng mọi sự vô hình cũng như hữu hình. Nhưng thử hỏi: Con có thể quả quyết như vậy được rằng: Maisen không có ý tưởng nào khác trong đầu óc, khi ông viết: "Trong Nguyên thuỷ, Thiên Chúa đã tạo dựng trời và đất?". Vì nếu nhờ chân lý của Chúa, con thấy điều đó là thật, tuy nhiên, con không biết ông còn tưởng như vậy không, khi ông viết câu đó?

Vì khi ông viết: "Trong Nguyên thuỷ", ông có thể nghĩ đến "khởi đầu" cuộc tạo dựng. Qua tiếng trời và đất, ông có thể muốn cho chúng con hiểu về tạo vật tinh thần hay vật thể, không phải đã được hình thành và trọn hảo, mà cả hai còn ở trong tình trạng phác hoạ và vô dạng? Con thấy rằng: Cả hai ý nghĩa đó đều có thể xác định là thật. Nhưng con không thấy rõ: Maisen đã có ý nghĩa nào trong hai ý nghĩa đó, khi ông viết lời Kinh Thánh? Cho dù, khi ông viết, ông có trong đầu óc ý nghĩa nào trong hai ý nghĩa đó, hoặc một ý nghĩa nào khác nữa, mà con không nhắc tới ở đây, thì con vốn đinh ninh rằng: Một vĩ nhân như ông đã nhìn thấy chân lý và đã trình bày một cách thích hợp57.

XXV-34    Vậy đừng có ai làm phiền con mà bảo con rằng: "Maisen đã không nghĩ như anh nói, mà ông đã nghĩ như tôi nói!". Giả như họ hỏi con rằng: "Bởi đâu anh biết được là Maisen đã nghĩ theo như anh chú giải các lời của ông?". Thì con phải nhẫn nại, và có khi con sẽ trả lời như trên kia, hoặc dài dòng hơn. Nhưng khi họ bảo con: "Maisen không nghĩ như anh nói, mà như tôi nói"; mà họ công nhận cả hai ý kiến là thật, thì, ôi sự sống của các kẻ khó nghèo, ôi Chúa con, trong lòng Chúa không có sự chống đối, xin Chúa làm mưa xuống lòng con một trận sương sa êm dịu, để giúp con chịu đựng những người như vậy! Họ bảo con như vậy, không phải vì họ là những người của Chúa, và nhìn thấy trong lòng tôi tớ Chúa điều họ nói, nhưng vì họ kiêu ngạo; họ cũng chẳng biết tư tưởng của Maisen, mà họ chỉ ưa thích tư tưởng của họ, không phải vì tư tưởng đó là thật, mà vì là của họ. Chẳng vậy, họ cũng ưa thích tư tưởng của kẻ khác, cũng là chân thật, như con ưa thích điều họ nói, khi họ nói sự thật, không phải vì là của họ, nhưng vì là sự thật. Một khi cách hiểu nào của họ là sự thật, thì không còn là của riêng họ nữa. Nếu họ ưa thích điều đó, vì là sự thật, thì điều đó vừa thuộc về họ, vừa thuộc về con, vì nó trở thành của chung cho những kẻ yêu chân lý.

Nhưng khi họ quả quyết rằng: Maisen đã không nghĩ như con nói, mà như họ nói, thì con không chịu, con không thích, vì dầu có đúng như thế nữa, thì sự táo bạo của họ không dựa trên khoa học, mà trên sự to gan, là hậu quả không phải của sự thông minh, mà của tính kiêu ngạo.

Cho nên, lạy Chúa, lý đoán của Chúa thật đáng kinh sợ, vì chân lý của Chúa không thuộc về con hay về kẻ này, người kia, mà là của tất cả chúng con. Chúa công khai kêu gọi chúng con tham gia vào đó, với lời khuyến cáo đáng sợ này, là chúng con không được giữ như của riêng mình, kẻ sẽ bị tước đoạt mất. Kẻ nào đòi riêng cho mình điều mà Chúa đề nghị cho mọi người được hưởng, và muốn thuộc về mình điều thuộc về mọi người, thì sẽ bị đẩy ra khỏi sản nghiệp chung, mà rơi vào tư sản của mình, tức là khỏi chân lý, mà vào sự giả dối. Vì kẻ nói dối là nói theo bản chất của mình58.

35               Xin hãy nghe59, lạy Chúa, là quan xét tuyệt vời, là chính chân lý, xin hãy nghe, vâng, xin hãy nghe điều con nói với kẻ chống đối này. vì con nói trước mặt Chúa và trước mặt các anh em con, là những kẻ biết sử dụng pháp luật một cách hợp pháp, là quy nó về mục đích bác ái60. xin Chúa hãy nghe và hãy xem điều con nói với họ, nếu là đẹp ý Chúa.

 

Luật bác ái


Đây là những lời huynh đệ và hoà bình con nói với họ: "Nếu hai chúng ta thấy điều anh nói là thật và cả hai chúng ta thấy điều tôi nói là thật, thì tôi xin hỏi: Chúng ta thấy sự đó ở đâu? Hẳn không phải trong anh mà tôi thấy sự đó, cũng không phải trong tôi mà anh thấy sự đó. Nhưng cả hai chúng ta đều thấy  như vậy trong chân lý bất dịch, vượt lên trên trí khôn chúng ta. Nếu chúng ta đồng ý với nhau về chính ánh sáng của Chúa chúng ta, thì tại sao chúng ta lại bài bác tư tưởng của anh em chúng ta?61 Tư tưởng đó chúng ta không thể trông thấy được như trông thấy chân lý bất dịch. Chính Maisen có hiện ra mà bảo chúng ta: "Tư tưởng của tôi là như vậy", thì chúng ta cũng không nhìn thấy tư tưởng ông, nhưng phải tin ông. Cho nên, đừng vượt quá bản văn, mà tự phụ phò người này, chống lại người kia62. Chúng ta hãy yêu mến Chúa chúng ta hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn chúng ta, và hãy thương yêu anh em như chính mình chúng ta63. Nếu chúng ta không tin rằng: Maisen chỉ suy tưởng nhằm vào luật bác ái kép, tất cả những gì ông đã suy tưởng trong các sách đó, thì chúng ta đổ cho Thiên Chúa là nói dối64, khi chúng ta ước đoán về tâm tư của tôi tớ người khác với điều ông dạy. Anh hãy coi: Từ những lời Thánh Kinh có thể r1t ra được biết bao nhiêu tư tưởng rất chân thật, thì rõ ràng là điên cuồng, mới dám táo bạo quả quyết là Maisen chỉ để ý đến một tư tưởng nào đó thôi, và, với những cuộc tranh luận tai hại, xúc phạm đến chính bác ái, là mục tiêu cho các lời ông đã nói và chúng ta đang ra công giải thích".

 

Nếu con là Maisen?


36               Nhưng, lạy Chúa, Đấng nâng con lên, khi con tự hạ; Đấng là an nghỉ khi con vất vả; Đấng nghe các lời xưng tụng của con và tha thứ tội lỗi cho con, vì Chúa truyền cho con phải yêu tha nhân, như chính mình con, nên con không thể tin được rằng: Maisen là tôi tớ rất trung thành của Chúa, lại được Chúa ban cho ít ơn huệ hơn là con cầu chúc và ước muốn cho chính mình con, nếu con được sinh trưởng trong thời ông và được Chúa đặt thay ông, để qua sự phục vụ của tâm hồn và miệng lưỡi con, phân phát cuốn Thánh Kinh, mà bao lâu sau mang lại lợi ích cho muôn dân và vượt mọi giáo thuyết sai  lầm và ngạo mạn, nhờ có một uy thế rất lớn lao trong khắp hoàn cầu.

Giả như lúc đó con là Maisen - vì tất cả chúng con đều bởi bùn đất mà ra, và con người là gì, nếu Chúa không nhớ tới?65 - Vâng, giả như lúc đó con là Maisen và Chúa truyền cho con viết sách Khởi Nguyên, thì con muốn Chúa ban cho con một tài ăn nói và một văn thể thích hợp, đến nỗi cả những kẻ chưa hiểu được Thiên Chúa tạo dựng thế nào, cũng không bài bác lời nói của con như thể vượt quá sức họ; và những kẻ đã có khả năng hiểu biết, sẽ tìm thấy, không sót điều nào, trong những lời vắn tắt của tôi tớ Chúa, tất cả những chân lý, mà sự suy gẫm của họ đã phát giác được. Lại nếu có ai, nhờ ánh sáng chân lý của Chúa, nhận ra được một cách chú giải nào khác, thì chính điều đó cũng đã được hiểu ngầm trong các lời của con.

 

Kinh Thánh đơn sơ mà chú giải được rất nhiều cách


XXVII-37           Cũng như một cái mạch trong nơi nhỏ bé, có nước dồi dào hơn, và nhờ nhiều sông, suối, tưới gội được một vùng rộng lớn hơn là bất cứ dòng nước nào bởi nó mà ra, lưu thông qua nhiều xứ sở. Cũng vậy, trần thuật của kẻ phân phát lời Chúa có lợi cho nhiều chú giải về sau, chỉ nhờ mấy tiếng đơn sơ mà lưu thông được một nguồn chân lý sáng ngời. Từ đó ai nấy rút ra cho mình những điều chân thật có thể, liên hệ đến các sự việc đó: Kẻ này điều này, kẻ kia điều nọ, để rồi quảng diễn thành những bài khúc chiết dài dòng66.
Khi đọc hay nghe các lời Kinh Thánh đó, có những người tưởng tượng Thiên Chúa như một người hay một khối có một sức mạnh vô tận, do một quyết định mới mẻ hay bất ưng, đã làm nên - ở ngoài mình và như thể ở nơi xa cách - trời và đất, hai vật khổng lồ, một ở trên, một ở dưới, bao gồm mọi sự. Và khi họ nghe câu: "Thiên Chúa phán: Phải có cái này!... Và cái này đã có", thì họ nghĩ đến những tiếng nói bắt đầu và chấm dứt, vang lên một lúc, rồi thôi đi. Và khi âm thanh vừa qua đi, thì lập tức hiện hữu vật mà Chúa đã truyền phải hiện hữu! Vì họ quan niệm theo lối xác thịt, họ cũng tưởng như vậy về bất cứ việc gì khác.

Họ là những trẻ thơ sống theo thú tính67, bao lâu họ để cho kiểu nói rất đơn sơ đó cưu mang sự yếu đuối của họ như trong lòng một người mẹ, thì đức tin của họ được kiến thiết một cách lành mạnh. Đức tin đó làm cho họ coi là chắc và nắm chắc rằng: Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự, mà sự khác biệt lạ lùng ở khắp nơi đập vào giác quan của họ.

Nhưng nếu có người nào trong bọn họ khinh chê lời Chúa như thể quá tầm thường; lại vì kiêu ngạo và ngu đần, họ vượt ra ngoài cái tổ, nơi đã nuôi nấng họ, thì, ôi thôi, họ sẽ sa ngã khốn nạn! Lạy Chúa, xin thương họ68, xin đừng để cho những người qua đày giày xéo69 lên con chim nhỏ bé, chưa có lông; và xin hãy sai một thiên thần của Chúa70 lại đặt nó vào tổ, để nó sống cho tới lúc biết bay!

XXVIII-38          Nhưng đối với bọn người khác, các lời Thánh Kinh không còn là cái tổ, mà là cái rừng rậm rạp: Chúng nhìn thấy ở trong đó những trái bị lá che, chúng vui mừng bay nhảy, chúng ríu rít tìm tòi và rúc rỉa.

Khi đọc hay nghe các lời sách Khởi Nguyên, họ nhận thấy rằng: Do tính thường tồn vĩnh cửu và bất biến, Chúa vượt trên mọi thời gian, quá khứ và tương lai. Tuy nhiên, không có tạo vật nào trong thời gian mà Chúa không tác tạo. Họ nhận thấy rằng: Ý muốn của Chúa đồng hoá với Chúa, đã tạo dựng, mà không bị thay đổi cách nào, cũng không xảy đến một quyết định nào trước kia không có. Họ nhận thấy rằng: Chúa đã dựng nên muôn vật, không phải là rút ở Chúa ra một hình ảnh của Chúa, là mô phạm cho mọi vật, mà rút từ hư vô một vật chất vô dạng, không giống Chúa cách nào, nhưng có khả năng nhận được một hình dạng, giống hình ảnh Chúa, bằng cách trở về với Chúa, là Hữu thể duy nhất, tuỳ theo ức độ đã được ấn định và phú bẩm cho mỗi vật, hợp với giống của nó. Họ nhận thấy rằng: Hết mọi vật đều rất tốt đẹp, hoặc vì chúng ở chung quanh Chúa, hoặc vì ít nhiều xa Chúa trong thời gian và không gian, chúng gây ra hoặc phải chịu những biến đổi lạ lùng.

Họ nhận thấy các sự ấy và họ vui mừng trong ánh sáng chân lý của Chúa, theo khả năng của họ ở đời này.

39               Trong bọn họ, có kẻ để ý đến những lời: "Trong Nguyên thuỷ, Thiên Chúa đã tạo dựng" và họ cho Nguyên thuỷ là sự Khôn ngoan, vì chính sự khôn ngoan đang nói với chúng con71. Kẻ khác nghiên cứu lời đó, thì hiểu Nguyên thuỷ là trước hết, là "bắt đầu" cuộc tạo dựng, và theo họ thì nói "trong Nguyên thuỷ Thiên Chúa đã tạo dựng" cũng như nói "Bắt đầu Thiên Chúa đã tạo dựng".

Trong các kẻ hiểu câu "trong Nguyên thuỷ" là trong sự khôn ngoan, Chúa đã tạo dựng trời và đất, thì có kẻ hiểu tiếng trời và đất chỉ vật liệu có khả năng được tạo dựng thành trời và đất. Kẻ khác cho là ám chỉ các vật đã được hình thành và phân biệt. Kẻ khác cho là tiếng trời chỉ các vật đã được hình thành và thiêng liêng; tiếng đất chỉ các vật vô dạng và vật chất.

Còn những kẻ hiểu tiếng trời và đất ám chỉ một vật chất còn vô dạng, để dùng mà làm nên trời và đất, thì chính họ cũng không hiểu một cách như nhau. Kẻ thì cho là nhờ vật chất đó mà hoàn thành các tạo vật khả niệm và khả giác. Kẻ khác cho là nhờ đó hoàn thành khối vật thể khả giác, chứa đựng trong nội bộ của nó tất cả các vật, với hình dạng và trang sức của chúng.

Những kẻ cho là trong đoạn văn này, danh từ trời và đất chỉ các vật đã được tổ chức và an bài, cũng không hiểu như nhau: Đối với kẻ này, đây là thế giới vô hình và hữu hình; đối với kẻ kia, đây chỉ là thế giới hữu hình, trong đó chúng con thấy trời sáng láng và đất tối tăm và các vật chúng chứa đựng.

 

Có những chú giải gây ra bác luận


XXIX-40             Nhưng có kẻ hiểu câu "Trong nguyên thuỷ, Thiên Chúa đã tạo dựng" có nghĩa như "bắt đầu Thiên Chúa đã tạo dựng". Kẻ ấy không có cách nào để hiểu cho đúng danh từ "trời và đất", đừng kể họ hiểu đó là vật liệu của trời và đất, nghĩa là của toàn thể các thụ tạo khả niệm và vật thể. Vì nếu họ muốn hiểu đó là một toàn thể đã được hình thành, thì người ta có lý  mà hỏi họ: "Nếu Thiên Chúa bắt đầu làm việc đó, thì sau Người sẽ làm gì? Khi mà toàn thể đã cho là được tạo thành, thì không còn gì nữa, và họ bị bó buộc phải nghe vấn nạn này: "Bắt đầu nghĩa là gì, nếu sau không còn gì nữa?".

Nhưng nếu họ trả lời rằng: "Thiên Chúa bắt đầu dựng nên vật chất vô dạng, rồi sau mới cho nó có hình dạng", thì đó không phải là điều phi lý, miễn là họ có khả năng phân biệt cái gì là ưu tiên về vĩnh cửu, về thời gian, về lựa chọn và về nguồn gốc? Tỉ dụ như về vĩnh cửu: Thiên Chúa có trước mọi sự; về thời gian: Hoa có trước trái; về lựa chọn: Trái hơn hoa; về nguồn gốc: Âm thanh đi trước ca hát.

Trong bốn ưu tiên mà con đã nêu ra, thì cái thứ nhất và cái cuối cùng rất khó hiểu; hai cái ở giữa thì rất dễ hiểu. Vì là điều rất hoạ hiếm và rất khó khăn, lạy Chúa, là nhìn thấy và hiểu được tại sao, Chúa vĩnh cửu, làm nên những vật hay thay đổi, mà lại không bị thay đổi? Cho nên, Chúa hiện hữu trước chúng. Rồi ai có trí khôn sắc sảo để có thể không vất vả là bao mà hiểu được làm sao âm thanh có trước ca hát? Thật vậy, ca hát là âm thanh có tổ chức, và một sự vật rất có thể hiện hữu, mà không được tổ chức; nhưng không thể tổ chức một cái gì không hiện hữu.

Cũng vậy, vật chất có trước sự vật bởi nó mà được làm nên. Nhưng nó có trước không phải vì nó tạo nên vật kia, vì nó cũng chỉ là thụ tạo. Cũng không phải có trước về thời gian. Vì chúng con không bắt đầu đưa ra những âm thanh vô tổ chức, không phải là ca hát, rồi về sau mới thích nghi hay đặt chúng vào hình thức ca hát, cũng như người ta lấy gỗ làm chiếc rương, lấy bạc làm cái ly. Các vật liệu này có trước các đồ người ta lấy chúng mà làm nên. Nhưng về ca hát thì không thế được. khi ca hát người ta nghe thấy âm thanh của ca hát: Không có âm thanh vô tổ chức trước đã, rồi sau biến thành ca hát. Vì khi một âm thanh nào đã vang lên, thì nó qua đi, không còn lại gì nữa, để nhạc sĩ nắm lấy mà hoà điệu. Như vậy, ca hát được cấu tạo bằng âm thanh: Âm thanh là vật chất của ca hát: Nó nhận được một hình dạng, để trở thành ca hát. Và bởi vậy, như con đã nói, vật liệu âm thanh có trước hình thức ca hát. Nhưng ưu tiên này không phải bởi quyền năng tác tạo, vì âm thanh không phải là người làm nên ca hát. Nó do cơ quan thân xác cung cấp cho tâm hồn nhạc sĩ, để làm nên ca hát. Cũng không phải là ưu tiên về thời gian, vì âm thanh được phát xuất đồng thời với ca hát. Cũng không phải ưu tiên về lựa chọn, vì không ai ưa âm thanh hơn ca hát, khi ca hát chẳng những là âm thanh, mà còn là âm thanh duyệt nhĩ. Nhưng là ưu tiên về nguồn gốc, vì ca hát không nhận hình dạng để trở nên âm thanh, mà âm thanh nhận hình dạng để trở nên ca hát.

Nhờ tỉ dụ này, ai có thể được thì hãy hiểu là vật liệu của thế giới đã được tạo dựng trước và được gọi là trời và đất, vì bởi nó mà Thiên Chúa làm nên trời và đất. Nó không được dựng nên trước đã theo thời gian, vì thời gian được khai sinh khi các vật đã hình thành, mà vật chất đó là vô dạng và nó được xuất hiện trong thời gian với chính thời gian. Tuy nhiên, người ta không thể kể gì về nó, mặc dầu trên cán cân, nó là bét nhất, vì thực ra cái gì có hình dạng vốn hơn cái gì vô dạng. Dù sao Đấng tạo hoá vĩnh cửu đã có trước vật chất đó, để đưa nó từ hư vô ra hiện hữu, rồi để lấy nó mà làm nên các vật khác.

 

Lại kêu đến luật bác ái


XXX-41    Trong tình trạng có nhiều ý kiến khác nhau và cũng chân thật cả, thì chính chân lý phải thiết lập sự hoà hợp. Xin Chúa chúng con thương xót chúng con, để chúng con biết sử dụng pháp luật một cách hợp pháp, là nhằm vào bác ái trong sạch là mục đích của pháp luật72.

Bởi vậy, nếu có ai hỏi con rằng: "Maisen, tôi tớ Chúa, đã để ý đến ý kiến nào trong các ý kiến đó?". Con sẽ quên đi ngữ điệu của sách Tự Thuật, nếu con không xưng tụng với Chúa rằng: "Con không biết!". Nhưng con biết các ý kiến đó đều chân thật, trừ những quan niệm xác thịt, mà con đã nói tất cả ý kiến của con về chúng. Tuy nhiên, kẻ nghe theo các ý kiến thô lỗ đó là những trẻ con - nhưng còn hy vọng - các lời sách Chúa không làm cho họ sợ: Các lời đó khiêm tốn mà cao siêu, vắn vỏi mà phong phú.

Nhưng hết mọi người chúng con, mà con thú nhận là nhìn thấy và nói lên những sự thật về các bản văn đó, chúng con phải yêu thương nhau, đồng thời phải kính mến Chúax73, là Chúa chúng con, là mạch chân lý, nếu thật sự chúng con khao khát không phải những hư ảo, mà chính sự chân thật. Chúng con phải tôi kính tôi tớ Chúa, là kẻ được tràn đầy Thần linh của Chúa, mà phân phát Kinh Thánh này cho chúng con. Và chúng con phải tin rằng: Khi được Chúa mạc khải để viết các điều đó, thì ông chỉ nhằm cái gì trổi vượt trong đó, là những chân lý sáng ngời và những hoả quả hữu ích.

XXXI-42             Như vậy, khi một người bảo con: "Maisen đã nghĩ như tôi!". Và người khác bảo: "Không phải thế, mà như tôi!". Con tưởng con sẽ trả lời một cách đạo đức hơn rằng: "Tại sao Maisen lại không nghĩ đến cả hai quan điểm, nếu cả hai đều chân thật? Nếu có ai nhìn thấy trong các lời Kinh Thánh một ý nghĩa thứ ba, thứ tư, hay một ý nghĩa nào khác nữa, mà đều chân thật cả, thì sao không tin được rằng: Maisen đã nhìn thấy tất cả các ý nghĩa đó, ông là kẻ được Thiên Chúa độc nhất nhờ cậy để thích nghi các Sách Thánh với trí khôn của nhiều độc giả, sẽ nhìn thấy trong đó những sự chân thật và khác nhau?".

Về phần con, hẳn là từ đáy lòng, con mạnh dạn tuyên bố rằng: Nếu được đặt tới chóp đỉnh uy thế, con phải ví6t một cái gì, thì con sẽ viết cách nào đó, để mỗi một người có thể nghe thấy trong các lời của con tiếng vang của các tư tưởng đúng đắn mà họ có thể quan niệm được về các sự vật, thay vì chỉ nhằm một tư tưởng chân thật đủ rõ ràng, để loại bỏ các tử tưởng  khác, dù chúng không có gì là sai, có thể xúc phạm đến con. Cho nên, lạy Chúa, con không muốn vội tin rằng:Vĩ nhân đó không được Chúa ban cho một ơn như vậy! Vâng, Maisen, khi viết các lời đó, ông đã có trong tư tưởng, trong trí vẽ, tất cả các chân lý, mà chúng con có thể tìm được trong các lời của ông, và tất cả những điều có thể tìm thấy trong đó, mà chúng con đã không có thể, hay chưa có thể tìm được.

 

Kinh cuối cùng


XXXII-43           Sau hết, lạy Chúa, Chúa không phải là xác thịt hay máu me, mà là Thiên Chúa, nếu con người không trông thấy được tất cả, thì Thần linh Chúa, Đấng dẫn đưa con trên đường ngay thẳng74, Ngài có không biết điều nào trong các điều mà Chúa đã muốn mạc khải qua các lời Kinh Thánh cho các độc giả tương  lai, mặc dầu ký lục của Ngài chỉ nghĩ đến một trong nhiều ý nghĩa chân thật của các lời đó, không? Nếu sự thể như vậy, thì hẳn là ý nghĩa mà ông nghĩ đến phải trổi vượt các ý nghĩa khác. Nhưng, lạy Chúa, xin Chúa hãy tỏ cho chúng con ý nghĩa đó, hay ý nghĩa chân thật khác, mà Chúa muốn. Dù Chúa tỏ cho chúng con cùng một ý nghĩa như cho tôi tớ Chúa, dù Chúa tỏ cho chúng con một ý nghĩa khác, nhân dịp các lời ấy, thì chính Chúa nuôi nấng chúng con, chứ không phải sự sai lầm lừa dối chúng con.

Lạy Chúa Trời con, Chúa thấy chúng con đã viết rất nhiều; vâng, xin lỗi Chúa, chúng con đã viết rất nhiều về mấy câu Kinh Thánh đó! Theo kiểu này, thì làm sao chúng con có đủ sức lực và thời giờ cho các sách của Chúa?

Vậy, xin Chúa ban phép cho con rút ngắn cuộc xưng tụng của con về chúng và chọn lấy một ý nghĩa nào mà Chúa linh ứng cho là chân thật, chắc chắn và tốt lành, mặc dầu có nhiều ý nghĩa khác xuất hiện với con, ở chỗ nhiều ý nghĩa có thể xuất hiện được. chớ gì cuộc xưng tụng của con được trung thành, đến nỗi, nếu con gặp được tử tưởng của ký lục Chúa, con biết trình bày cách trọn hảo - vì đó àl điều con phải cố gắng - nếu con không đạt được ý nghĩa của ký lục Chúa, thì ít ra con trình bày điều mà chân lý của Chúa muốn nói với con, qua các lời ấy, vì chân lý Chúa cũng đã nói cho Maisen điều Chúa muốn.
 
*********************

 

QUYỂN MƯỜI BA: CÁCH DÙNG DỤ NGÔN

 

Kinh cảm tạ


I-1              Con kêu cầu Chúa, lạy Chúa chí nhân của con1. Chúa đã dựng nên con và đã không quên kẻ đã quên Chúa. Con kêu cầu Chúa ngự vào linh hồn con, mà Chúa chuẩn bị để đón nhận Chúa, khi xui giục nó ước ao Chúa. Bây giờ con kêu cầu Chúa, xin đừng bỏ rơi con, Chúa đã đón trước2 lời con kêu cầu và đã nhiều lần lắp lại lời kêu gọi của Chúa, để ép con phải nghe tiếng Chúa từ đàng xa, mà trở lại và kêu cầu Chúa, Đấng kêu gọi con.

Vậy, lạy Chúa, Chúa đã xoá bỏ mọi tội lỗi con đã phạm, để khỏi phải oán phạt công việc của tay con đã làm cho con bất trung với Chúa. Chúa lại đón trước các việc lành con làm để thưởng công3 việc tay Chúa đã dựng nên con. Vì đã có Chúa trước khi con có, và con không có, nếu Chúa đã không ban cho có. Thì này đây, con đã có, nhờ lòng từ bi Chúa đã đi trước các ơn huệ này, là Chúa đã dựng nên con. Chúa không cần đến con, hoặc con là một thiện hảo nào để Chúa được nhờ, ôi Chúa con, ôi Chúa Trời con! Nếu con phục vụ Chúa, không phải như để Chúa khỏi mệt mỏi vì hành động; hoặc như thiếu sự phục vụ của con, thì sợ quyền năng của Chúa trở nên yếu kém. Nếu Chúa đòi con thờ phượng Chúa, thì không phải như vườn ruộng cần được cày bừa, kẻo trở nên hoang phế!4 Không phải thế, con phục vụ Chúa và thờ phượng Chúa, là để được Chúa ban hạnh phúc, vì nhờ Chúa mà con có hữu thể, một hữu thể có khả năng hạnh phúc.

 

Cuộc tạo dựng dầu mới sơ  khai cũng đã là ơn huệ của Chúa


II-2   Do sự tốt lành sung mãn của Chúa, mà tạo vật của Chúa được hiện hữu: Đó là một sự tốt lành, tuy nó không làm lợi gì cho Chúa và nó cũng chẳng bằng Chúa, nhưng vì nó đã có thể bởi Chúa mà ra.

Trời và đất có công gì với Chúa, mà đã được Chúa tạo dựng trong Nguyên thuỷ?5 Chúng hãy nói, chúng đã có công gì với Chúa, các tạo vật linh thể và vật thể, mà Chúa đã dựng nên trong đức Khôn ngoan của Chúa6 và lệ thuộc vào Ngài, dù chúng mới được phác hoạ và vô dạng, tuỳ theo loại của chúng là linh thể hay vật thể; dù chúng chiều theo sự hỗn loạn và rất xa khác Chúa? Một linh thể vô dạng trổi hơn một vật thể có hình dạng; một vật thể vô dạng trổi hơn một hư vô thuần tuý. Như vậy, các vật này lệ thuộc vào Ngôi Lời của Chúa, cứ ở trong tình trạng vô dạng mãi, nếu Ngôi Lời không đưa chúng về sự hợp nhất của Chúa, bằng cách ban cho chúng hình dạng và sự rất tốt đẹp7 bởi Chúa mà ra, là Đấng tốt đẹp tuyệt vời. Vậy, chúng đã có công gì với Chúa, để được có một hiện hữu, dầu là vô dạng, là điều ngoài Chúa ra chúng không thể có được?

3                 Nó đã có công gì với Chúa, cái khối chất liệu vật thể, để được hiện hữu, ít là lờ mờ và lộn xộn, vì nếu Chúa không làm nên nó, thì nó cũng chẳng được như vậy? Cho nên, vì chưa hiện hữu, nó đã không thể có công vì với Chúa, để được hiện hữu.

Hoặc là tạo vật linh thể mới được phác hoạ đã có công gì với Chúa, để được lưu thông tăm tối, giống như vực thẳm, và khác xa Chúa, nếu Ngôi Lời không kéo nó lại với Ngài, Đấng đã dựng nên nó, và soi sáng nó, để nó thành ánh sáng, mặc dầu không bằng Chúa, nhưng giống hình ảnh Chúa?

Cũng như đối với một vật thể, hiện hữu và hiện hữu tốt đẹp là hai điều khác nhau - chẳng vậy không có vật thể nào xấu - cũng vậy, đối với một linh thể, sống và sống khôn ngoan là hai điều khác nhau - chẳng vậy, mọi linh thể đều khôn ngoan một cách vĩnh viễn. Nhưng hạnh phúc của nó là được kết hợp luôn luôn với Chúa8, kẻo ánh sáng nó đã nhận được, vì quay về với Chúa, nó sẽ đánh mất, vì quay đi khỏi Chúa, và rơi vào cuộc đời giống như vực thẳm tối tăm, chăng?

Chúng con cũng vậy, vì có linh hồn, chúng con là tạo vật linh thể. Vì quay đi khỏi Chúa là ánh s1ng của chúng con, nên trước kia chúng con đã là tối tăm9 ở đời này, và chúng con đã vất vả trong cảnh tối tăm còn lại của chúng con, cho đến ngày chúng con được là sự công chính của Chúa, trong Con duy nhất của Chúa, như núi thần non thánh: Vì chúng con đã là tài phán của Chúa như vực thẳm bao la!10

III-4 Còn về lời Chúa phán, khi bắt đầu tạo dựng: "Hãy có sự sáng!"11 Thì con hiểu lời đó thích ứng với tạo vật linh thể, lúc đó đã là một sự sống nào rồi, vì được Chúa soi sáng cho. Nhưng nó không có công gì với Chúa, để trở thành sự sống đó, hầu được Chúa soi cho; cũng vậy, khi đã được thành sự sống, nó đã không có công gì với Chúa, để được sáng soi. Vì sự vô dạng của nó không đẹp lòng Chúa, nếu nó không trở thành sự sáng, không phải tại nó hiện hữu, mà tại nó chiêm ngưỡng sự sáng soi cho và kết hợp với sự sáng đó. Cho nên, chỉ có nhờ vào ơn Chúa, mà nó được sống và được sống hạnh phúc, vì do một sự thay đổi có lợi, nó quay về với Đấng không thể thay đổi nên tốt hơn hay ra xấu hơn - quay về với Chúa là Hữu thể độc nhất, vì Chúa là Đấng độc nhất đơn thuần: Đối với Chúa, sống và sống hạnh phúc chỉ là một, vì Chúa là hạnh phúc của Chúa.

IV-5 Vậy, Chúa thiếu gì cho được hạnh phúc, vì chính Chúa là hạnh phúc cho Chúa, dầu các tạo vật này không hiện hữu, hoặc hiện hữu trong tình trạng vô dạng? Chúa đã dựng nên chúng không phải vì cần đến chúng, nhưng chỉ vì lòng tốt lành sung mãn của Chúa, mà Chúa điều động chúng đi tới một hình dạng, mà chúng cũng không thêm gì cho sự vui của Chúa. Chúa là Đấng hoàn toàn, nên sự bất toàn của tạo vật không đẹp lòng Chúa; Chúa kiện toàn chúng, để chúng đẹp lòng Chúa; Chúa không như vật bất toàn, phải được kiện toàn do sự hoàn toàn của chúng. Thần khí tốt lành của Chúa bay lượn trên nước, mà nước không mang Ngài, như thể Ngài nghỉ ngơi trên nước. Vì khi nói Thần khí Chúa nghỉ trên những kẻ nào12, là Người làm cho họ được nghỉ trong Người. Nhưng ý chí bất hoại, bất biến và tự túc của Chúa bay lượn trên sự sống mà Chúa đã tạo dựng, đối với sự sống này, thì sống không phải là sống hạnh phúc, vì nó sống cả khi nó lưu thông trong sự tối tăm của nó. Nó còn phải trở lại với Đấng đã làm nên nó, phải sống càng ngày càng gần mạch sự sống, phải  nhìn ánh sáng trong ánh sáng trong ánh sáng của Người13 và như vậy, nó sẽ được trọn lành, sáng láng và hạnh phúc.

 

Thiên Chúa Ba Ngôi được nhận thấy trong hai câu đầu sách Khởi Nguyên


V-6   Này con nhìn thấy Thiên Chúa Ba Ngôi một cách lờ mờ14, chính là Chúa, lạy Chúa, vì Chúa là Cha, Chúa đã tạo dựng trời và đất trong Nguyên thuỷ sự khôn ngoan của chúng con, là sự khôn ngoan của Chúa, bởi Chúa mà sinh ra, bằng Chúa và vĩnh cửu như Chúa, tức là trong con Chúa. Chúng con đã nói nhiều về trời của trời, về đất lờ mờ và lộn xộn, và về vực sâu tăm tối, sẽ theo sự phiêu lưu lai láng của linh thể vô dạng, nếu nó không trở về với Đấng dựng nên  mọi sự sống, để được ánh sáng của Người làm cho sống động và tốt lành, hầu trở nên trời của trời, được tạo dựng về sau giữa nước và nước.

Vậy, trong danh từ Thiên Chúa, con đã hiểu về Chúa Cha, Đấng đã dựng nên các sự ấy. Trong danh từ Nguyên thuỷ, con đã hiểu về Chúa Con, trong Người, Chúa Cha đã tạo dựng các sự ấy. vì tin Thiên Chúa của con có Ba Ngôi, con tìm trong các sấm ngôn của Người một tiếng vang của đức tin con, thì đây "Thần linh của Chúa bay lượn trên nước". Vậy con có Thiên Chúa Ba Ngôi của con: Cha, Con và Thánh Thần, hoá công của toàn thể tạo vật.

 

Vai trò của Thần linh, theo sách Khởi Nguyên


VI-7 Nhưng tại sao, ôi ánh sáng chân thật, - con đưa lòng con tới gần Chúa, để nó khỏi dạy con những sự hư ảo, xin hãy phá tan tối tăm của nó, và nói cho con biết, con xin Chúa, vì "mẹ bác ái" của chúng con15, - vâng, con xin Chúa hãy nói cho con biết tại sao, sau khi nói đến trời, đến đất lờ mờ và lộn xộn, đến tối tăm trên vực thẳm, Kinh Thánh mới nói đến Thần linh Chúa? Hay là vì cần phải trình bày Người như vậy, để nói được rằng: Người bay lượn bên trên, và không thể nói được như vậy, nếu trước đó không nhắc đến vật, mà Thần linh Chúa có thể bay lượn bên trên? Vì Người không thể bay lượn trên Chúa Cha, hay Chúa Con; lại danh từ bay lượn không được dùng cách chính xác, nếu Người không bay lượn trên một vật gì. Cho nên trước hết phải nói đến vật mà Người bay lượn bên trên, rồi sau mới  nói đến Đấng mà chỉ có thể nói được là bay lượn bên trên. Vậy tại sao, chỉ được nhắc đến Người, khi nói Người bay lượn như vậy?

VII-8          Kể từ đây, ai có thể, thì hãy lấy trí khôn mà theo dõi vị tông đồ của Chúa, khi ngài nói: "Bác ái Chúa được đổ vào lòng ta, nhờ Thần linh đã được ban cho ta". Khi dạy về những sự thiêng liêng, ngài trình bày con đường cao siêu của bác ái và ngài quỳ gối cầu cho chúng con trước mặt Chúa, cho chúng con biết khoa học cao siêu về bác ái của Đức Kitô16.

 

Cho nên, cao siêu nhất ngay từ đầu, Thần linh bay lượn trên nước.


Nhưng con sẽ nói cho ai, con sẽ nói làm sao, về nhục dục nặng nề lôi kéo chúng con xuống dốc vực sâu, và về bác ái nâng chúng con lên, nhờ Thần linh Chúa bay lượn trên nước? Con sẽ nói cho ai? Con sẽ nói làm sao? Chúng con chìm xuống và chúng con nhô lên? Nhưng đây không phải là vấn đề nơi chốn, chỗ chúng con chìm xuống và nhô lên. Tỉ dự này vừa rất giống, mà lại vừa rất khác! Đây là những tình tứ, những ái ân của chúng con, những nhơ nhớp của tâm hồn dìm chúng con xuống đáy, vì ưa thích những sự gây lo lắng. Đàng khác, sự thánh thiện của Chúa nâng chúng con lên, vì yêu mến sự chắc chắn của Chúa, để chúng con nâng tâm hồn lên cùng Chúa, nơi Thần Linh Chúa bay lượn trên nước và chúng con đạt tới sự yên nghỉ cao siêu nhất, khi linh hồn chúng con đã trải qua nước không bản chất17.

 

Hãy có sự sáng!


VIII-9        Thiên thần đã sa ngã, linh hồn người ta đã sa ngã; và cả hai đã cho thấy vực thẳm của toàn thể tạo vật trí tuệ sẽ chìm vào tối tăm sâu thẳm đến thế nào, nếu ngay từ đầu Chúa đã không phán dạy: "Phải có sự sáng!". Và sự sáng đã có; và tất cả các tạo vật trí tuệ phục tùng của thiên quốc đã kết hợp với Chúa và được nghỉ yên trong Thần linh Chúa, Đấng bất biến bay lượn trên mọi vật hay biến đổi. Chẳng vậy, thì chính trời của trời sẽ chỉ là một vực tối tăm. Nhưng bây giờ nó là ánh sáng trong Chúa18.

Trong chính cảnh lo âu khốn nạn của các tạo vật trí tuệ sa ngã và trưng bày sự tối tăm của họ, vì đã bị một mất áo quang minh của Chúa, Chúa đủ tỏ cho thấy Chúa đã làm nên tạo vật trí tuệ lớn lao dường nào, vì không một vật nào kém Chúa có thể cho nó được hạnh phúc và nghỉ ngơi, và do đó, chính nó không tự túc được. Chính Chúa, lạy Chúa chúng con, Chúa sẽ soi sáng sự tối tăm của chúng con19; Chúa mặc cho chúng con ánh sáng của Chúa, và tối tăm của chúng con sẽ như chính ngọ!20

Xin ban Chúa cho con, lạy Chúa con, xin trả Chúa lại cho con. Này con yêu mến Chúa, nếu còn ít, thì chớ gì con yêu mến Chúa nhiều hơn. Con không thể đo lường cho biết tình yêu của con còn thiếu cái gì cho đầy đủ, để đời sống con chạy ôm lấy Chúa, cho đến khi được ẩn nấp trong mầu nhiệm của nhan thánh Chúa21. Con chỉ biết điều này, là ngoài Chúa ra, không những ngoài con mà cả trong con, con cũng cảm thấy khó ở, và, đối với con, mọi sự giàu có không phải là Chúa, thì chỉ là nghèo nàn.

IX-10         Nhưng Chúa Cha, hay Chúa Con, không bay lượn trên nước hay sao?

Nếu người ta quan niệm cử chỉ bay lượn đó như của một vật thể trong một nơi chốn, thì các lời đó cũng không áp dụng vào Chúa Thánh Thần được. Nếu người ta coi đó là uy quyền bất biến của Thiên Chúa trên mọi vật hay biến đổi, thì Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần đều bay lượn trên nước.

Vậy tại sao ở đây, Thánh Kinh chỉ nói đến Thần linh của Chúa? Tại sao chỉ nói về Người như thể Người ở nơi chốn, mà không phải là nơi chốn. Cũng chỉ nói về một mình Người là ơn huệ của Chúa22. Sự yên nghỉ của chúng con ở đâu, là chỗ chúng con ở đó.

Tình yêu nâng chúng con tới nơi yên nghỉ đó và Thần linh tốt lành của Chúa nâng cao sự khiêm tốn của chúng con từ cửa thần chết23. Đối với chúng con, sự bình yên ở thiện chí24. Theo trọng lượng của mình, mọi vật thể hướng về chỗ riêng của nó. Một trọng lượng không chỉ hướng về phần hạ, mà về nơi riêng của nó. Ngọn lửa thì lên, hòn đá thì xuống. Chúng bị trọng lượng lôi kéo và tìm về chỗ riêng của mình. Dầu đổ vào nước, thì nổi trên mặt nước; nước đổ vào dầu, thì chìm xuống dưới dầu. Chúng chiều theo trọng lượng riêng của mình, mà tìm về chỗ riêng của chúng. Những vật kém được xếp đặt theo trật tự từ không được yên. Những vật được xếp đặt trật tự thì ở yên. Trọng lượng của con là tình yêu của con; con đi dâu là do nó đưa đi. Ơn huệ Chúa phấn khích chúng con và đưa chúng con lên cao. Chúng con sốt sắng và đi lên. Chúng con leo thang của linh hồn và chúng con hát bài ca lên đền25. Lửa của Chúa, lửa tốt lành của Chúa làm chúng con sốt sắng và đi lên. Chúng con đi tới sự bình an của Giêrusalem: Vì con được vui mừng biết mấy, khi nghe nói chúng ta sẽ về nhà Chúa!26 Ý chí ngay lành sẽ đặt chúng con ở đó, và chúng con không còn ước ao gì khác, là được ở lại đó cho đến muôn đời!27

X-11          Phúc cho tạo vật nào không biết cảnh huống khác, vì tự nó sẽ ra khác, nếu ngay từ khi được tạo dựng, ơn Chúa bay lượn trên các vật hay thay đổi, đã không tức khắc nâng nó lên theo lời kêu gọi này của Chúa: "Phải có sự sáng". Và sự sáng đã có. Nhưng ở nơi chúng con thì có sự phân biệt giữa thời gian mà chúng con đã là tối tăm và lúc chúng con trở thành ánh sáng28. Còn về tạo vật đó, thì Thánh Kinh chỉ nói: Nó sẽ là gì, nếu không được soi sáng? Và nói như vậy, là như thể trước kia nó phiêu lưu và tăm tối, để đề cao nguyên do làm cho nó ra khác, nghĩa là để quay về với ánh sáng bất diệt, cho nó trở thành ánh sáng. Ai có thể hiểu, thì hãy hiểu, họ hãy cầu xin Chúa cho được hiểu. Tại sao họ quấy rầy con, như thể con là ánh sáng, soi cho mọi người khi bước vào thế gian?29

 

Làm sao có một ý niệm về Thiên Chúa Ba Ngôi?


XI-12         Ai hiểu được Ba Ngôi toàn năng? Thế mà có ai không nói về Người? Hoạ có linh hồn khi nói về Người biết được điều mình nói. Người ta bài bác, người ta tranh luận, nhưng chẳng ai chiêm ngưỡng được thị kiến đó, nếu không có sự bình yên trong tâm hồn.

Con ước mong người ta để ý đến ba hiện tượng này nơi họ, cả ba rất khác xa Thiên Chúa Ba Ngôi, nhưng nêu ra để cho họ tập suy nghĩ và nghiệm xét và nhận thấy họ còn xa mầu nhiệm đó dường nào!

Vậy ba hiện tượng đó là: Có, biết và muốn. Vì con có và con biết và con muốn: Con có biết và muốn, con biết con có và muốn, con muốn có và biết.

Đời sống chúng con liên kết rất chặt chẽ trong ba hiện tượng đó - một đời sống duy nhất, một trí khôn duy nhất và một tình yêu duy nhất - cũng không thể phân biệt chúng ra được, tuy sự phân biệt có thật: Ai có thể hiểu được, thì hãy hiểu! Ai nấy ở trước mặt mình, họ hãy nhìn vào mình họ, họ hãy xem30 và trả lời cho con.

Nhưng khi họ tìm được chút gì giống ở các hiện tượng đó và trả lời cho con, thì họ cùng đừng tưởng là đã đi tới thực tại bất biến, vượt trên các hiện tượng đó, và có một cách bất biến, và biết một cách bất biến. Có phải cả ba hiện tượng đó làm nên Ba Ngôi Thiên Chúa hay là ở trong mỗi một ngôi đều có cả ba hiện tượng, và trở thành gấp ba, để mỗi ngôi có tất cả ba? Hay là cả hai giả thuyết đó đều được thực hiện một cách lạ lùng: Vừa đơn giản, vừa phức tạp. Vì Thiên Chúa Ba Ngôi là mục đích vô cùng và nội tại của mình, do đó mà Ba Ngôi vừa có, vừa biết, vừa tự túc một cách bất biến như nhau, theo bản tính độc nhất vô cùng sung mãn của mình? Ai quan niệm được mầu nhiệm đó một cách dễ dàng? Ai biết làm sao mà diễn tả được? Bằng cách nào đi nữa31, ai dám táo bạo phát biểu về mầu nhiệm này!

 

Chú giải theo nghĩa bóng (Gn 1,1-3)


XII-13        Hỡi đức tin của ta, hãy tiến xa hơn, trong việc xưng tụng của mi. Hãy thưa với Chúa mi: Thánh, thánh, thánh32, lạy Chúa Trời con! Chúng con đã được rửa tội nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần33, vì Thiên Chúa cũng đã nhờ Đức Kitô của Người tạo dựng giữa chúng con một trời và một đất, nghĩa là những người thiêng liêng và những xác thịt của Giáo Hội Người; và đất chúng con, trước khi nhận lãnh hình dạng của giáo lý, thì lờ mờ và lộn xộn, và chúng con bị sự tối tăm mê muội bao vây, vì Chúa đã phạt con người về tội nó34, và lý đoán của Chúa là một vực thẳm bao la35.

Nhưng vì Thần linh Chúa bay lượn trên nước, lòng từ bi Chúa đã không quên bỏ sự khốn nạn của chúng con. Chúa đã phán: Phải có sự sáng! Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần kề! Hãy sám hối36; hãy có sự sáng! Và vì tâm hồn chúng con bối rối trong mình, chúng con nhớ đến Chúa, lạy Chúa, trên bờ sông Giođan37 và trên núi cao ngang với Chúa, nhưng đã hạ mình xuống vì chúng con, và chúng con đã chán ghét sự tối tăm của chúng con, và chúng con quay về với Chúa và đã có sự sáng. Vâng, trước kia chúng con là tối tăm, nhưng bây giờ chúng con là sự sáng trong Chúa38.

 

Chúng ta là sự sáng hiểu theo nghĩa nào?


XIII-14      Tuy nhiên, chúng con mới là sự sáng nhờ đức tin, chứ không phải nhờ sự xem thấy39. Vì chúng con được cứu rỗi trong hy vọng. Nhưng hy vọng mà thấy được, thì không còn là hy vọng nữa40. Vực còn kêu gọi vực, nhưng bằng tiếng thác của Chúa41. Chính kẻ nói câu: "Tôi không thể nói với anh em như với những người thiêng liêng, mà như với những người xác thịt42, chính ngài cũng chưa tin rằng: Ngài đã đi tới đích, và, quên đi mọi sự dĩ vãng, ngài hướng về những sự trước mặt43 và rên rỉ dưới gánh nặng44, và tâm hồn ngài khát khao tới Thiên Chúa trường sinh, tựa như con nai tới mạch nước, mà rằng: "Bao giờ tôi sẽ tới?"45 Nghĩa là ngài ước ao được mặc lấy nhà của mình ở trên trời46, và ngài kêu gọi vực ở dưới rằng: "Anh em đừng bắt chước thế gian, anh em hãy cải tạo, hãy canh tân tâm hồn"47. Ngài còn nói: "Anh em đừng như những trẻ con về hiểu biết, nhưng hãy là những trẻ con về gian ác, để trở nên trọn lành về hiểu biết"48. Ngài nói nữa: "Ôi, người Galát điên rồ! Ai đã mê hoặc anh em?"49. Nhưng không còn là tiếng của ngài nữa, mà là tiếng Chúa. Chúa đã từ trên cao sai Thần linh xuống50 do Đấng đã lên trời51 và đã mở các thác ân huệ của Chúa, để sông cái, sông con làm vui thành đô của Chúa52.

Chính về thành trì của Chúa mà bạn hữu của tân lang53 khao khát hướng về, vì đã có nơi người của đầu mùa của Thánh Linh54. Nhưng ngài còn than thở tận đáy lòng, mong chờ ơn nghĩa tử, sự cứu chuộc của thân xác mình. Ngài khao khát hướng về thành đô - vì ngài là chi thể của tân lang (Giáo Hội) - và sốt sắng cho thành đô, vì ngài là bạn của tân lang. Ngài sốt sắng cho thành đô, chứ không cho mình, vì do tiếng thác của Chúa, chứ không do tiếng ngài, mà ngài kêu gọi vực khác. Ngài vừa sốt sắng vừa lo sợ cho vực khác. Ngài lo sợ vì kẻo như con rắn đã dụ dỗ Evà bằng mánh lới thế này, thì óc não của những người yếu đuối cũng sẽ bị hủ hoá, mất sự thánh thiện ở trong tân lang của chúng con55 là Con duy nhất của Chúa, chăng? Nhưng ánh sáng của thị kiến đó rực rỡ biết bao, khi chúng con sẽ được trông thấy Người như Người có thật56, thì các nước mắt của con sẽ qua đi. Vâng, những nước mắt đã thành cơm bánh ngày đêm cho con, đang khi hằng ngày người ta hỏi con: "Chúa của mi ở đâu?"57

XIV-15      Con cũng kêu lên: Chúa của con đâu! Vậy Chúa ở đâu? Con được thở một chút58, khi để cho tâm hồn thổ lộ với con, trong giọng điệu vui mừng và ca tụng, thành bài hát đại lễ. Nhưng nó còn buồn rầu, vì nó ngã lại và thành vực sâu, hay đúng hơn, nó cảm thấy nó còn là vực sâu. Đức tin, mà Chúa đã nhóm lên trong đêm tối trước bước chân con, bảo nó: "Linh hồn tôi ơi, tại sao mi thổn thức và ấm ức trong tôi? Hãy trông cậy Chúa!59 Lời Người là đen soi bước mi đi60. Hãy trông cậy, hãy kiên tâm, cho đến khi đêm tối qua đi, nó là mẹ những người bối rối; cho đến khi cơn thịnh nộ của Chúa qua đi; mà chúng con là con cái61, đã một thời gian chúng ta là tối tăm, chúng ta kéo lê vết tích sự tối tăm trong thân xác, mà sự tối tăm đã giết chết62, cho đến khi ngày thổi gió làm cho tăm tối tan đi63. "Hãy trông cậy Chúa". Ngay từ sáng, con sẽ chỗi dậy, sẽ chiêm ngưỡng và sẽ luôn xưng tụng Chúa. Ngay từ sáng, con sẽ chỗi dậy và sẽ thấy64 ơn cứu độ của con, là Chúa con, Đấng sẽ tác sinh thân xác chết của chúng con, nhờ Thần linh ở trong chúng con65, vì Người đã thương bay lượn trên làn nước tối tăm của cuộc đời nội tâm của chúng con. Cho nên, trong cuộc lữ hành dương thế, chúng con đã nhận được bảo chứng, là đã thành ánh sáng, đang khi chúng con hãy còn trong hy vọng được cứu rỗi và từ con cái của ban đêm và của tối tăm, chúng con đã trở thành con cái của sự sáng và của ban ngày66.

Giữa các kẻ khác và chúng con, trong hoàn cảnh khoa học loài người còn chưa chắc chắn, chỉ có mình Chúa mới phân biệt được, Chúa là Đấng giám sát tâm tình chúng con67 và gọi ánh sáng là ngày và tối tăm là đêm. Vì ai phân biệt được chúng con, nếu không phải là Chúa? Nhưng chúng con có gì, mà đã không nhận lãnh ở nơi Chúa?68 Bởi cùng một khối, mà chúng con đã được làm nên những bình vinh dự, và họ, những bình tủi nhục!69

 

Chú giải nghĩa bóng, bầu trời là Thánh Kinh


XV-16       Còn ai, nếu không phải là Chúa, lạy Chúa, đã trải ra trên chúng con một bầu trời uy thế trong Thánh Kinh của Chúa? Vì trời được cuốn đi như quyển sách70 và bây giờ nó được căng ra trên chúng con, tựa tấm da. Vì Thánh Kinh Chúa có một uy thế siêu việt, khi những kẻ hay chết, mà Chúa đã dùng để cung cấp cho chúng con, đã chết cái chết đó. Và Chúa biết, lạy Chúa, Chúa biết Chúa đã làm sao để mặc áo bằng da cho những người sau khi đã trở thành hay chết vì tội?71 Vậy Chúa đã căng ra như tấm da bầu trời Kinh Thánh, gồm các mạc khải hoà hợp với nhau, mà Chúa đã thiết lập trên chúng con, nhờ thừa tác vụ của các kẻ hay chết72. Chính cái chết của các ngài mà cốt cách của uy quyền Thánh Kinh, do các ngài rao giảng, được căng ra trên tất cả những gì ở bên dưới, với một tính cách cao thượng, mà khi các ngài còn sống, nó chưa được căng ra cao thượng như vậy. Là vì Chúa chưa căng bầu trời tựa tấm da, Chúa chưa phổ biến khắp nơi cái chết lừng danh của các ngài.

17               Lạy Chúa, xin cho chúng con được xem thấy Chúa73. Xin hãy phá tan mây mù khỏi mắt chúng con, đã bị Chúa bao phủ. Nơi Kinh Thánh chứa đựng chứng ngôn của Chúa dạy khôn trẻ dại74. Lạy Chúa, xin hãy kiện toàn lời ca tụng Chúa từ miệng trẻ thơ và những đứa còn măng sữa75. Vì chúng con không biết có sách nào khác thích ứng như vậy để tiêu diệt tính kiêu ngạo, tiêu diệt kẻ thù và những trạng sư chống lại sự hoà giải của Chúa, bằng cách bênh vực tội mình. Con không biết, lạy Chúa, con không biết ở đâu có những lời sấm thanh khiết76 như vậy, khả dĩ khuất phục con phục vụ Chúa một cách nhưng không. Xin cho con hiểu lời Chúa, lạy Cha nhân lành, xin ban ơn ấy cho con, là kẻ đã chịu ở bên dưới, vì Chúa đã thiết lập các sách đó một cách rất chắc chắn cho những tâm hồn tùng phục.

 

Nước ở trên là thiên thần


18               Con tưởng còn có làn nước khác ở trên bầu trời chúng con; nước bất tử, được giữ gìn khỏi sự hư hoại của trái đất. Chúng hãy ngợi khen danh Chúa! Dân cư ở bên trên các tầng trời, là các thiên thần, hãy ngợi khen Chúa77. Các ngài không cần phải nhìn lên bầu trời này, cũng chẳng cần phải đọc, để biết lời Chúa. Vì các ngài hằng xem thấy mặt Chúa78, và, không phải đánh vần theo thời gian, các ngài đọc ở đó ý muốn đời đời của Chúa. Các ngài đọc, các ngài chọn, các ngài mến. Các ngài đọc luôn luôn và điều các ngài đọc không hề qua đi. Các ngài đọc chương trình bất biến của Chúa để chọn lựa và yêu mến. Và trương mục của các ngài không hề đóng, và sách của các ngài không bao giờ gấp lại, vì chính Chúa là sách của các ngài và cho đến muôn đời. Vì Chúa đã đặt các ngài bên trên bầu trời này, bầu trời được thiết lập bên trên sự yếu đuối của các dân tộc dưới đất; từ nơi đây, họ sẽ nhìn lên và nhận biết lòng từ bi Chúa, bằng bày tỏ Chúa trong thời gian, Chúa là Đấng làm nên thời gian. Vì lạy Chúa, lòng từ bi Chúa ở trên trời và chân lý Chúa thấu tận tầng mây!79 Mây qua đi, nhưng trời ở lại. Các kẻ giảng lời Chúa từ bỏ đời này qua đời sau, nhưng Thánh Kinh Chúa được phổ biến trên các dân tộc cho đến tận thế. Trời và đất sẽ qua đi, nhưng các lời của Chúa sẽ không qua đi80, vì tấm da đó sẽ cuộn lại và cỏ rả, mà nó trải lên trên, sẽ qua đi với sư xinh tươi của chúng, nhưng lời Chúa tồn tại đến muôn đời81. Bây giờ lời ấy tỏ hiện cho chúng con trong mây lờ mờ82, và qua tấm kính bầu trời, không phải như có thật. Cả chúng con nữa, dầu được Con Chúa yêu thương, chúng con sẽ ra sao, điều đó cũng chưa được tỏ hiện83. Con Chúa đã nhìn chúng con qua màn da thịt của Người, Người đã vuốt ve chúng con chạy theo mùi thơm của Người84. Nhưng khi Người xuất hiện, chúng con sẽ được giống như Người, vì chúng con sẽ thấy Người như Người có thật85. Thấy Người, như Người có thật, lạy Chúa, đó là đặc ân của chúng con, mà chúng con chưa được hưởng.

XVI-19      Vì cũng như một mình Chúa là hữu thể tuyệt đối, thì cũng một mình Chúa biết được thật sự; Chúa có một cách bất biến, và biết một cách bất biến, và muốn một cách bất biến. Sự có của Chúa biết và muốn một cách bất biến; và sự biết của Chúa có và biết một cách bất biến. Trước mặt Chúa, điều này xem ra bất công, là ánh sáng bất biến biết mình thế nào, thì một tạo vật hay thay đổi và được Người soi cho, cũng biết được Người như vậy! Cho nên, trước mặt Chúa, linh hồn con đây như một mảnh đất không có nước86. Vì cũng như tự nó không soi sáng cho mình giãn khát. Vì gần Chúa có mạch nước hằng sống, cho nên cũng trong ánh sáng Chúa, chúng con nhìn thấy sự sáng87.

 

Nước ở dưới là thế gian (Gn 1,9)


XVII-20     Ai đã quy tụ thành một khối các thứ nước đắng cay?88 Chúng có cùng một mục đích như nhau, là hạnh phúc tạm thời và trần thế; chúng làm mọi sự nhằm hạnh phúc đó, mặc dầu chúng giẫy giụa trăm ngàn lo âu khác biệt. Có ai ngoài Chúa, lạy Chúa, đã bảo nước phải tụ tập lại thành một khối và xuất hiện đất khô89 khao khát Chúa, chẳng? Vì biển là của Chúa, và chính Chúa đã dựng nên nó và tay Chúa đã làm nên đất khô này90. Vì không phải sự đắng cay của các ý muốn mà là sự tụ tập các nước lại, được gọi là biển. Chúa cũng dẹp các đam mê xấu của các tâm hồn, và ấn định các giới hạn cho nước biển chỉ được lan tới đó và buộc sóng của nó phải vật lại mình91. Như vậy, Chúa đã tổ chức biển cả theo trật tự quyền năng thống trị của Chúa trên mọi sự.

 

Đất khô là việc lành


21               Còn những linh hồn khao khát Chúa, được xuất hiện ra trước mặt Chúa, và, để nhằm một mục đích khác, Chúa đã phân rẽ nó khỏi nước biển, Chúa đã tưới gội nó bằng một thứ nước mạch nhiệm mầu và ngon ngọt, để trái đất phát sinh hoa trái: Nó phát sinh hoa trái, và, theo lệnh Chúa, là Chúa của nó, linh hồn chúng con trổ sinh các việc thiện, theo loại của mình92: Là thương tha nhân và giúp đỡ các nhu cầu vật chất của họ. Nó ôm ấp trong mình mầm mống từ tâm giống với họ: Vì cảm thấy sự khốn nạn của mình, chúng con thương yêu những kẻ thiếu thốn, cứu giúp họ, đỡ đần họ, như chúng con cũng muốn được cứu giúp khi hoàn cảnh như vậy.

Sự giúp đỡ này không phải chỉ bằng những việc dễ, như cỏ sinh hạt, mà bằng cả sự bênh vực, sự đỡ đần mạnh mẽ, như cây sinh trái là việc phước thiện, để cứu kẻ bị bất công, khỏi tay người quyền thế, để cung cấp cho nó bóng mát chở che, thế lực mạnh của đức công bình chính trực.

 

Đất phải phì nhiêu


XVIII-22   Lạy Chúa, Chúa thường ban vui vẻ và sức lực, con xin Chúa cũng ban cho trái đất trổ sinh chân lý và từ trời cao công bình nhìn xuống93, và trên bầu trời các tinh tú xuất hiện94. Chúng con phải chia sẻ cơm bánh của chúng con cho kẻ đói; và đưa vào nhà chúng con người nghèo không có nơi trú; mặc áo quần cho kẻ trần trụi và không khinh chê những kẻ cùng nòi giống chúng con95.

 

Từ việc thiện, đến chiêm niệm


Đất sinh hoa trái như vậy, xin Chúa hãy nhìn và nói: "Quả là tốt đẹp!". Và ánh sáng của chúng con sẽ bừng lên, như ý muốn96, và từ mùa màng phúc thiện hèn kém đó, chúng con đi tới sự khoái lạc cao hơn, là chiêm niệm Ngôi Lời sự sống. Lúc đó chúng con sẽ xuất hiện trong thế gian như những tinh tú97, được gắn chặt vào vòm trời Kinh Thánh Chúa.

Trong đó, Chúa dạy bảo chúng con98, để chúng con biết phân biệt những sự khả niệm và những sự khả giác, giữa ngày và đêm, cũng như giữa các linh hồn chuyên cần về những sự khả niệm, và những linh hồn mê say những sự khả giác. Như vậy, Chúa không còn đơn độc một mình trong toan tính nhiệm mầu của Chúa, để phân biệt giữa ánh sáng và tối tăm. Mà cả những con người thiêng liêng của Chúa được đặt vào vị trí của mình trong bầu trời đó, nhờ ơn Chúa được tỏ hiện khắp thế gian, các ngài cũng chiếu soi trên trái đất, và phân chia ngày với đêm, và chỉ định thời gian99. Vì đã có lời chép rằng: "Các sự cũ đã qua, cuộc canh tân đã được thực hiện"100; "phần rỗi chúng con được gần hơn khi chúng con mới có đức tin"; "đêm đã gần tàn, ngày đã tới"101; "Chúa ban phúc lành kết thúc năm của Chúa"102; "Chúa sai thợ đi gặt lúa103 của Chúa, mà thợ khác đã vất vả gieo"104. Chúa cũng sai thợ đi gieo ở nơi khác, mà mùa gặt sẽ vào ngày cánh chung.

Như vậy, Chúa nghe ước nguyện của kẻ công chính và ban phúc lành cho năm của họ. Nhưng Chúa hằng mãi vậy, và trong các năm của Chúa không qua đi105, Chúa chuẩn bị kho lẫm cho các năm lần lượt qua đi.

 

Ơn khôn ngoan hơn ơn suy biết


23               Do ý định đời đời, Chúa ban những sự lành thiên quốc cho trái đất, vào thời kỳ thuận tiện: Kẻ này được Thần linh ban lời nói khôn ngoan, tựa một tinh tú lớn hơn, nhằm làm cho những kẻ yêu chuộng ánh sáng của một chân lý huy hoàng như rạng đông. Kẻ khác được cũng một Thần linh ban ơn suy biết, tựa một tinh tú nhỏ hơn. Kẻ khác được ơn đức tin; kẻ khác được ơn chữa bệnh, kẻ khác được ơn làm phép lạ; kẻ khác được ơn nói tiên tri; kẻ khác được ơn phân biệt các thần khí; kẻ khác được ơn ngôn ngữ. Các ơn này giống như các tinh tú. Vì tất cả là công trình của cùng một Thánh Linh, Người phân phát các ơn lành cho từng người, như Người muốn, và Người cho các tinh tú đó xuất hiện và chiếu sáng, nhằm lợi ích của mọi người106.

Nhưng ơn suy biết bao gồm mọi mầu nhiệm107, thay đổi tuỳ thời tiết như mặt trăng. Còn các ơn khác mà con đã nhắc đến và coi như các tinh tú, thì khác xa ánh sáng huy hoàng chói lọi của ơn khôn ngoan, là niềm vui của ngày sắp đến, chúng chỉ là như ánh sáng hoàng hôn về chiều. Tuy nhiên, chúng cần thiết cho những kẻ, mà người tôi tớ rất khôn ngoan của Chúa đã không thể nói với họ như với những người thiêng liêng mà với những người xác thịt108. Người chỉ giảng về khôn ngoan giữa những kẻ trọn lành109.

Còn về con người xác thịt, được coi như trẻ nhỏ trong Đức Kitô và còn phải bú sữa, cho đến khi có đủ sức để ăn đồ cứng và con mắt đủ cứng để nhìn xem mặt trời; họ đừng tưởng họ bị bỏ rơi trong đêm tăm tối, họ hãy thoả mãn với ánh sáng mặt trăng và các vì tinh tú.

Đó là những điều Chúa dạy bảo chúng con, ôi Thiên Chúa chúng con, Đấng khôn ngoan tuyệt đối, trong sách Chúa, bầu trời của Chúa, để chúng con biết phân biệt mọi sự bằng một cuộc chiêm niệm lạ lùng, mặc dầy hãy còn bị giới hạn trong các dấu hiệu, thời giờ, ngày đêm và năm tháng110.

 

Chú giải thêm về đất khô


XIX-24      Nhưng trước hết, các ngươi hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy, hãy loại bỏ sự dữ khỏi tâm hồn các ngươi và khỏi mắt Ta, để đất khô xuất hiện. Hãy làm điều lành, hãy xét xử cho kẻ mồ côi, hãy bênh vực người quả phụ, để đất sinh cỏ nuôi và cây sinh hoa trái, và hãy đến, chúng ta thảo luận với nhau, lời Chúa phán111, hầu có những tinh tú trên bầu trời để soi cho trái đất.

Người giàu ấy xin Thầy nhân lành cho biết phải làm gì cho được sống đời đời? Và Thầy nhân lành, mà y đã tưởng là một phàm nhân, không hơn không kém - nhưng Người tốt lành vì là Thiên Chúa - Người đã trả lời cho y là, nếu y muốn được sống, y phải giữ giới răn, phải xa lánh nước đắng cay của tội lỗi và gian tà, y không được giết người, không làm tà dâm, không ăn trộm cướp, không làm chứng gian, hầu đất khô xuất hiện và phát sinh sự tôn kính cha mẹ, và yêu mến tha nhân. Người giàu trả lời: Tôi đã làm các điều đó! Vậy nếu đất tốt, thì bởi đâu có nhiều gai góc như vậy? Hãy đi, hãy nhổ các bụi um tùm hà tiện, hãy bán các của mi có, hãy thu hoạch nhiều hoa trái bằng việc bố thí cho kẻ nghèo khó, mi sẽ có một kho trên trời; rồi, nếu mi muốn trọn lành, thì hãy theo Chúa, hãy kết nghĩa với những kẻ được nghe Đấng biết phân biệt cái gì thích hợp cho ngày đêm, đàm đạo về sự khôn ngoan112, thì mi cũng sẽ biết họ, và họ cũng sẽ trở nên cho mi như những tinh tú trên trời. Điều đó sẽ không có thể, nếu tâm hồn mi không ở trên đó; và tâm hồn mi sẽ không ở trên đó, nếu kho tàng của mi đã không ở trên đó113, theo như mi đã được nghe Thầy nhân lành dạy bảo. Nhưng đất khô tỏ vẻ buồn sầu114 và gai góc đã làm ngột lời Chúa115.

25               Còn các ngươi, hỡi  nòi giống được lựa chọn, hỡi những kẻ yếu đuối trong thế gian116, các ngươi đã bỏ mọi sự để đi theo Chúa117, các ngươi hãy đi theo Người, và hãy làm bẽ mặt những kẻ mạnh118. Hãy đi theo Người với những bàn chân xinh đẹp119 và hãy soi sáng vòm trời, để các tầng trời cao rao vinh danh Chúa120, phân chia giữa ánh sáng của các kẻ trộm lành, - tuy chưa được như thiên thần - và sự tối tăm của các kẻ bé nhỏ, nhưng chưa thất vọng. Hãy chiếu soi cả trái đất, để ngày rực rỡ ánh mặt trời báo cho ngày lời khôn ngoan, và để đêm được mặt trăng soi sáng, báo cho đêm lời suy biết. Mặt trăng và các ngôi sao chiếu sáng cho đêm; nhưng đêm không làm lu mờ được chúng, vì chúng chỉ soi cho đêm theo như đêm có thể nhận lãnh. Vì như thể Chúa phán: "Hãy có các tinh tú trên bầu trời", "thì lập tức có tiếng động từ trời, như một cơn gió mạnh thổi, và thấy xuất hiện những lưỡi lửa, phân tán ra và đỗ trên từng người trong bọn họ". Và có "những tinh tú trên bầu trời121 mang theo lời sự sống". Hãy chạy khắp nơi, hỡi lửa thánh, hỡi lửa tốt lành!122 Vì các ngươi là ánh sáng thế gian, các người không ở dưới thùng. Đấng các ngươi gắn bó đã được vinh thăng, và đã vinh thăng các ngươi. Các ngươi hãy chạy khắp nơi và hãy cho các dân thiên hạ biết các ngươi!

 

Loài bò sát ám chỉ các bí tích (Gn 1,20)


XX-26       Biển cũng hãy thai  nghén và sinh ra các công trình của Chúa, và nước hãy sinh ra các loài bò sát có hồn sống123. Vì khi phân biệt vật quý khỏi vật hèn, các ngươi trở thành miệng của Thiên Chúa124, qua đó Người nói: "Nước hãy sản xuất... không phải hồn sống, đất sẽ sản xuất nó, mà là các vật bò sát có hồn sống, và các loài chim trên mặt đất. Các vật bò sát đó, lạy Chúa, ám chỉ các bí tích: Nhờ công việc của các thánh Chúa, các bí tích len lỏi qua các làn sóng cám dỗ của thế gian, để thấm nhiễm vào các dân tộc nước thánh tẩy, được trao ban nhân danh Chúa.

 

Chim trời ám chỉ sứ giả lời Chúa


Trong các việc đó có những sự lạ cả thể125 được thực hiện, sách được như những kình ngư dưới biển, và tiếng nói của các sứ giả Chúa phi hành trên trái đất, theo sát bầu trời Linh thánh Chúa, mà uy thế che chở cuộc phi hành của họ ở bất cứ nơi nào. Vì "đây không còn phải là những lời nói, những diễn từ, mà âm thanh không được nghe thấy: Khi tiếng các ngài đã vang khắp địa cầu và lời các ngài đã đi tận cùng trái đất"126. Vì chính Chúa, lạy Chúa, đã ban phép lành cho lời giảng được gia tăng bội hậu.

 

Dấu hiệu được tạo nên vì sự yếu đuối của loài người


27               Hay là con nói dối, hay là con lẫn lộn, không biết phân biệt những ý niệm rõ ràng về các thực tại ở bầu trời và các công trình vật thể được thực hiện trong biển náo động, dưới bầu trời? Thật vậy, ý niệm về các thực tại đó, như ánh sáng sự khôn ngoan và suy biết, thì chắc chắn và hoàn toàn, không còn gia tăng theo các thế hệ. Đàng khác, các thực tại đó có những công trình vật thể nhiều và khác biệt, và do sự tiến triển không ngừng, chúng gia tăng lên mãi, với phúc lành của Chúa, lạy Chúa, là Đấng nâng đỡ các giác quan yếu đuối của loài hay chết, là chúng con, bằng cách tha phép cho một chân lý duy nhất được hình dung và diễn tả nhiều cách cho trí khôn, nhờ các công trình vật thể thích hợp.

Nước đã sản xuất các công trình đó, nhưng nhờ vào Lời Chúa. Nhu cầu của các dân tộc xa lạ với chân lý vĩnh cửu của Chúa đã đòi hỏi các công việc đó, nhưng nhờ Phúc Âm Chúa. Thật vậy, chính nước đã sản xuất chúng, nhưng sự chua chát bạc nhược của nước đã nên cớ cho Ngôi Lời can thiệp để kéo chúng ra khỏi đó.

 

Từ dấu hiệu đến chân lý


28               Mọi sự đều tốt đẹp, vì do Chúa làm nên. Nhưng Chúa là Đấng đã làm nên mọi sự thì tốt đẹp tuyệt vời. Nếu Ađam đã không sa ngã, thì từ lòng dạ ông đã không phát xuất làn nước mặn của biển - con muốn nói về nhân loại, với tính tọc mạch phi thường, kiêu ngạo điên cuồng, hay thay đổi quá đỗi - và như vậy, thì các kẻ phân phát lời Chúa sẽ không cần phải biến đổi trong làn nước, các ngôn hành mầu nhiệm của Chúa thành những công trình vật thể và khả giác. Lúc này con hình dung họ như các loài bò sát và chim bay như vậy đó. Những người được họ giáo dục và khai tâm đều lệ thuộc vào các dấu hiệu vật chất, sẽ không tiến xa hơn được, nếu tâm hồn chúng không có một đời sống thiêng liêng cao độ, và, sau đợt khai tâm, nếu chúng không khát khao một cuộc đời trọn hảo hơn.

 

Hồn sống chỉ linh hồn Kitô hữu (Gn 1,2)


XXI-29      Cho nên nhờ Lời Chúa, đây không phải là biển thẳm, mà là khối đất đã được tách khỏi nước mặn, đất này cũng không sản xuất loài bò sát có hồn sống, và loài chim, mà là hồn hằng sống127. Hồn hằng sống không cần phép thánh tẩy - nó cần thiết cho lương dân - như đã cần khi nó còn bị nước bao phủ. Vì người ta không vào được Nước Trời cách nào khác, từ khi Chúa đã ấn định điều kiện gia nhập đó. Hồn hằng sống cũng không đòi hỏi những phép lạ cả thể, để tin. Nó tin, dù không thấy dấu kỳ và việc lạ128, vì nó là đất trung tín đã được tách khỏi sự bất tín đắng cay của nước biển, và ơn nói tiếng lạ là dấu hiệu không phải cho tín hữu, mà cho kẻ chưa tin129. Đất được Chúa xây trên nước, cũng không cần loài chim mà Chúa đã cho nước sản xuất. Xin Chúa hãy gởi Lời Chúa đến cho trái đất, qua các sứ giả của Chúa! Vì chúng con chỉ có thể kể công việc của các ngài, nhưng chính Chúa là Đấng hoạt động trong các ngài để các ngài làm nên công việc: Một hồn hằng sống!

Đất sản xuất hồn hằng sống, vì đất là nguyên do cho công trình tạo dựng hồn này trên nó, cũng như biển là nguyên do cho việc sản xuất các loài bò sát có hồn sống, và các loài chim dưới bầu trời. Nhưng các vật đó, đất không cần nữa, mặc dầu nó cần ăn cá, được câu từ các vực sâu130 ở bàn tiệc mà Chúa đặt trước mặt các tín hữu131. Nếu cá đã được câu từ các vực thẳm, là để nuôi đất khô. Và chim là con đẻ của biển, nhưng chúng được gia tăng trên mặt đất. Vì nếu sự bất tín của nhân loại đã là nguyên do cho việc rao giảng Phúc Âm lần thứ nhất, thì các tín hữu vốn rút ra được những lời khuyên nhủ và những phúc lành mỗi ngày một dồi dào hơn. Còn về hồn hằng sống đã khởi nguyên từ đất, tức là các tín hữu, chỉ được lợi ích khi họ từ bỏ lòng yêu chuộng đời này, để hồn họ được sống cho Chúa, vì hồn đó đã chết khi sống trong khoái lạc132, khoái lạc giết chết - lạy Chúa, là khoái lạc tác sinh của một tâm hồn trong sạch.

 

Xây dựng tâm hồn tín hữu


30               Vậy, xin Chúa cho các thừa tác viên của Chúa hoạt động trên trái đất, không như nước trong nước biển bất trung, nơi họ đã loan truyền và rao giảng, với phép lạ, dấu kỳ và những lời bí mật, để thu hút sự chăm chú của kẻ dốt nát - dốt nát là mẹ sự ngạc nhiên, vì sợ hãi các điều bí mật - đó là con đường đưa tới đức tin của con cháu Ađam, đã quên bỏ Chúa, bao lâu chúng ẩn mặt Chúa133, và trở thành vực thẳm. Xin các thừa tác viên của Chúa hãy hoạt động như trên mặt đất khô, đã được tách khỏi vực thẳm, và xin các ngài hãy trở thành mẫu mực cho các tín hữu134, bằng cách sống trước mặt họ và khuyên giục họ bắt chước.

Như vậy, họ nghe không phải chỉ để nghe, mà còn để thực hành điều họ đã nghe: "Hãy tìm kiếm Thiên Chúa, thì tâm hồn các ngươi sẽ được sống"135, và trái đất sẽ phát sinh một hồn hằng sống. "Các ngươi đừng bắt chước thế gian này",136, hãy xa lánh nó. Linh hồn chỉ sống khi tránh đam mê, làm cho nó chết. Hãy giữ mình khỏi tính kiêu ngạo hung tàn, nhục dục hèn nhát, khoa học giả hiệu, để trở thành những dã thú hiền lành, những gia súc thuần thục và những con rắn vô hại. Vì theo nghĩa bóng, chúng tượng trưng cho các biến động của linh hồn: Sự ba hoa của tính kiêu ngạo, khoái lạc xấu của đam mê và nọc độc của tính hiếu kỳ, đều là những biến động của linh hồn đã chết. Nhưng cái chết của nó không phải là mất mọi biến động, vì nó chết bằng cách lìa xa mạch sự sống; và như vậy, thế gian chóng qua đón nhận nó và nó rập theo thói thế gian.

31               Nhưng lời Chúa, là "mạch sự sống vĩnh cửu"137, và sẽ "không qua đi". Cho nên lời Chúa cấm chúng con xa lìa Người, khi Người dạy bảo: "Các ngươi đừng có rập theo thói thế gian này", để trái đất phát sinh nơi mạch sự sống một hồn hằng sống trong Lời Chúa, nhờ hoạt động của các kẻ rao giảng Tin Mừng, một linh hồn tự chủ, bắt chước các kẻ bắt chước Đức Kitô của Chúa138. Đó là ý nghĩa của câu "theo loại của mình"139, vì tình nghĩa làm cho người ta ganh đua với nhau, như thánh tông đồ dạy: "Anh em hãy như tôi, vì tôi cũng như anh em"140.

Như vậy, trong tâm hồn hằng sống sẽ chỉ có những súc vật hiền lành, hành động cách ôn hoà. Vì Chúa đã truyền dạy rằng: "Hãy hành động cách ôn hoà, thì sẽ được mọi người yêu mến"141. Các gia súc cũng hiền lành, nếu chúng ăn, chúng không mang tiếng là những vật tham ăn, chúng cũng không chịu là thiếu thốn142. Các con rắn hiền lành, không còn nọc độc để hại, nhưng vốn tinh khôn để đề phòng và chúng chỉ tìm hiểu cuộc tạm bợ này vừa đủ, để từ các tạo vật vươn lên đến cái nhìn khả niệm về vĩnh cửu143. Các vật này phục vụ lý trí, khi, từ bỏ con đường đưa đến sự chết, chúng được sống và tốt lành.

 

Linh hồn phải nhằm cao hơn thế nữa


XXII-32     Như vậy, lạy Chúa, là Chúa Trời chúng con, là Đấng dựng nên chúng con, khi tâm tình chúng con được tách khỏi đam mê thế tục - các tâm tình ấy đã làm cho chúng con chết, vì sống xấu - và khi linh hồn chúng con, vì sống tốt, bắt đầu là hồn sống thật, và khi được thực hiện lời Chúa phán qua miệng tông đồ: "Anh em chớ rập theo đời này"144, thì cũng sẽ được thực hiện lời huấn giới mà Chúa đã tức khắc thêm vào: "Một hãy cải tạo tâm trí anh em cho ra mới". Chúa đã không dạy: "Hãy cải tạo theo loại của mình", như thể hãy bắt chước tiền nhân, hoặc sống theo gương một người trọn hảo hơn. Chúa đã không nói: "Con người phải được tạo dựng theo loại của nó"; nhưng đã nói: "Ta hãy tạo dựng con người giống hình ảnh của Ta"145, để chúng con được thấy rõ ý Chúa làm sao?146

Cho nên, kẻ phân phát lời Chúa đó, đã nhờ Phúc Âm Chúa mà sinh sản con cái147; Ngài không muốn chỉ có mãi những trẻ thơ để cho bú sữa, và để phải coi sóc như vú nuôi148. Ngài đã phải kêu lên rằng: "Anh em hãy cải tạo tâm trí anh em cho ra mới, hầu biết rõ thánh ý Chúa tốt lành, thú vị, trọn hảo dường nào!149 Vậy, Chúa đã không nói: "Hãy có con người", mà nói: "Chúng ta hãy làm...". Chúa không nói: "theo loại của nó", mà "giống hình ảnh Chúng Ta". Kẻ đã được tâm trí canh tân, kẻ chiêm ngưỡng, kẻ hiểu biết chân lý của Chúa, thì không cần một người nào khác trình bày, để bắt chước loại mình, nhưng là nhờ Chúa bày tỏ, chính nó thấy rõ thánh ý của Chúa tốt lành, thú vị và trọn hảo dường nào! Và vì nó đã có khả năng hấp thụ, Chúa sẽ dạy cho nó biết Ba Ngôi của một Thiên Chúa, hay một Thiên Chúa có Ba Ngôi. Vì thế, Chúa đã nói ở số nhiều: "Chúng ta hãy làm nên con người"; rồi ở số ít: "Và Thiên Chúa đã làm nên con người". Chúa lại nói ở số nhiều: "giống hình ảnh Chúng Ta"; rồi ở số ít: "Giống hình ảnh Thiên Chúa". Như vậy, con người được canh tân, để biết Thiên Chúa, theo hình ảnh Đấng đã dựng nên nó150, và con người thiêng liêng xét đoán mọi sự, thực ra đáng được xét đoán. Còn nó, thì chẳng bị ai xét đoán151.

 

Con người thiêng liêng điều khiển, xét đoán mọi sự


XXIII-33   Người thiêng liêng xét đoán mọi sự, nghĩa là nó có quyền trên cá biển, chim trời, trên gia súc và dã thú, trên trái đất và trên các loài bò sát ở mặt đất152. Nó làm việc ấy nhờ trí khôn, làm cho nó có khả năng nhận biết được cái gì thuộc về Thần linh Chúa153. Chẳng vậy, con người được đặt lên hàng vinh dự mà không có trí thức, thì đồng hoá với súc vật vô lý trí và nên giống như chúng154 vậy thôi.
Cho nên, trong Giáo Hội Chúa, lạy Chúa chúng con, theo như ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội - vì chúng con là công trình đã được tạo dựng giữa các công trình tốt đẹp của Chúa155 - thì không những chỉ có các người điều khiển theo Thánh Linh, mà còn có các kẻ, theo Thánh Linh, phục tùng những người điều khiển. Chúa đã dựng nên loài người có nam có nữ156; nhưng về phương diện ơn nghĩa, trong trật tự thiêng liêng, thì không có khác biệt giữa giới nam hay nữ, cũng như không có người Do Thái hay Hy Lạp, người nô lệ hay tự do157. Vậy các người thiêng liêng, dù là kẻ điều khiển, dù là kẻ phục tùng, xét đoán cách thiêng liêng. Nhưng họ không xét đoán về những trí tuệ thiêng liêng, chiếu soi trên bầu trời - vì không được xét đoán về một uy quyền cao trọng như vậy. Cũng không xét đoán Thánh Kinh của Chúa, mặc dầu trong đó có điều chưa được rõ ràng, vì chúng con bắt trí khôn vâng phục Thánh Kinh, và chúng con chắc chắn rằng: Có điều gì còn ẩn nấp cái nhìn của chúng con, thì cũng đã được viết ra cách thẳng thắn và chân thật. Vì thế, con người, dù thuộc hạng thiêng liêng và đã được canh tân trong sự hiểu biết về Thiên Chúa, theo hình ảnh của Đấng đã dựng nên mình158, thì cũng phải thi hành, chứ không xét đoán pháp luật159. Họ cũng không xét đoán về sự phân biệt các người thiêng liêng và các người xác thịt: Chúa nhìn thấy, lạy Chúa, và Chúa biết rõ họ. Họ chưa tỏ mình cho chúng con bằng công việc của họ, để chúng con xem hoa trái mà biết họ160. còn Chúa, lạy Chúa, Chúa đã biết họ, Chúa đã phân chia họ và đã kêu gọi họ trong ý định nhiệm mầu của Chúa, trước khi tạo dựng bầu trời. Mặc dầu, là người thiêng liêng, họ không được xét đoán bọn người lộn xộn ở đời này. Vì đâu phải việc của họ xét đoán những kẻ ở ngoài161, vì họ không biết được ai sẽ bỏ đó mà đến hưởng sự êm đềm của ơn Chúa, và ai sẽ ở lại trong sự đắng cay vĩnh viễn của sự dữ?

 

Xét đoán những gì?


34               Như vậy, con người mà Chúa đã tạo dựng giống hình ảnh Chúa, đã không nhận lãnh quyền hành trên các tinh tú ở bầu trời, hay trên tầng trời bí mật, hay trên ngày và đêm, mà Chúa đã kêu gọi trước khi tạo dựng trời, cũng không trên khối nước tụ tập thành biển. Một đã nhận được quyền hành trên cá biển, chim trời và mọi súc vật, trên tất cả trái đất và mọi vật bò ở mặt đất.

Vậy nó xét đoán và phê phán những gì nó thấy là tốt và không thừa nhận những gì nó thấy là xấu, hoặc trong việc cử hành các bí tích, để nhập môn các kẻ mà lòng từ bi Chúa tìm kiếm được trong đáy nước; hoặc trong lễ nghi trưng bày con Cá, đã câu được từ vực thẳm, để nuôi trái đất kính tin; hoặc trong dấu hiệu và lời kêu gọi của các kẻ giảng dưới uy thế của Thánh Kinh, như những chim bay dưới bầu trời, để giải thích, trình bày, tranh luận, bàn bạc, chúc tụng và kêu cầu Chúa, phát xuất từ miệng lưỡi họ, thành dấu hiệu vang lên, để dân chúng thưa: Amen! Nếu các tiếng này phải được phát ra một cách vật chất, là vì vực thẳm trần gian, sự mù quáng xác thịt ngăn trở không cho nhìn thấy tư tưởng thuần tuý, nên cần dùng tiếng nói đập vào tai họ. Như vậy, mặc dầu loài chim được gia tăng trên mặt đất, chúng bắt nguồn từ dưới nước mà ra.

Con người thiêng liêng cũng xét đoán bằng cách phê chuẩn cái gì thấy đúng, không phê chuẩn cái gì thấy sai trong hành vi và hạnh kiểm của các tín hữu, trong việc bố thí của họ như hoa quả của trái đất. Nó còn xét đoán về hồn hằng sống, mà các đam mê đã trở nên thuần thục, nhờ trinh  khiết, chay tịnh162, suy tư đạo đức liên hệ đến các đối tượng mà giác quan phần xác nhìn thấy được. Vậy bây giờ nói tóm lại, là con người thiêng liêng xét đoán về những sự mà nó cũng có quyền sửa trị.

 

Hãy sinh sản và gia tăng


XXIV-35             Nhưng việc này làm sao, mầu nhiệm thế nào? Này, Chúa ban phúc lành cho con người, lạy Chúa, để họ sinh sản gia tăng cho đầy trái đất. Há chẳng phải Chúa muốn cho chúng con tìm hiểu cái gì ở đây chăng? Tại sao Chúa không chúc lành như vậy cho ánh sáng, mà Chúa đã gọi là ngày, không cho bầu trời, không cho đèn trời, các tinh thú, trái đất và biển? Con dám nói, lạy Chúa chúng con, là Đấng đã dựng nên chúng con, giống hình ảnh Chúa, con dám nói rằng: Chúa đã muốn dành phúc lành này cho loài người, nếu Chúa đã không chúc lành như vậy cho cá biển và kình ngư, để chúng sinh sản, gia tăng và tràn đầy nước biển; và cho chim chóc gia tăng trên mặt đất. Vâng, con dám nói rằng: Phúc lành này được dành cho các loài tự lưu truyền qua việc sinh sản, nếu con thấy được ban cho cây cối và súc vật trái đất. Nhưng thực ra, Chúa đã không nói cho thảo mộc, hay cho súc vật và rắn rết: "Hãy sinh sản và gia tăng", mặc dầu tất cả các loài này cũng sinh sản như cá, chim, và loài người, và bảo tồn chủng loại của chúng.

 

Biện hộ cho nghĩa bóng


36               Vậy con sẽ nói gì, ôi ánh sáng của con, ôi chân lý? Con sẽ nói rằng: Câu đó vô nghĩa lý, không có giá trị gì, hay sao? Hẳn là không! Ôi, Cha đáng kính, hẳn là tôi tớ lời Chúa không chủ trương như vậy đâu! Và nếu con không hiểu lời đó có ý nghĩa gì, thì kẻ tốt hơn con, nghĩa là thông thạo hơn con, đã biết lợi dụng tốt hơn con các lời đó, theo như sự thấu đáo mà Chúa đã ban cho từng người, lạy Chúa.

Nhưng xin Chúa vui lòng nghe lời xưng tụng của con trước mặt Chúa163: Con không thể tin được là Chúa đã phán dạy như vậy một cách vô ích, lạy Chúa. con cũng không im lặng về những tư tưởng mà bài Thánh Kinh này đã khêu gợi cho con. Vì đó là những tư tưởng chân thật, và con không thấy có gì ngăn trở con hiểu như vậy về những đoạn văn bóng bảy trong sách Chúa. Vì con biết rằng: Một tư tưởng được trí khôn quan niệm một cách, có thể được diễn tả nhiều cách, qua những hình ảnh vật chất; đàng khác, trí khôn quan niệm nhiều cách một tư tưởng được trình bày một cách qua một hình ảnh loại đó. Tỉ dụ như một ý niệm đơn giản về mến Chúa và yêu tha nhân, có biết bao là biểu trưng, vô vàn ngôn ngữ, và trong mỗi một ngôn ngữ có biết bao nhiêu kiểu nói để bày tỏ một cách vật chất?

Theo ý nghĩa đó, các sinh vật dưới nước được sinh sản và gia tăng! Xin độc giả của tôi để ý điều này nữa, là điều mà Thánh Kinh đưa ra và lời nói diễn tả một cách như: "Trong Nguyên thuỷ, Thiên Chúa đã tạo dựng trời và đất", há chẳng chú giải được nhiều cách - loại trừ một cách sai lầm - vì có nhiều cách hiểu đúng đắn khác nhau, hay sao? Theo ý nghĩa đó, các con cái loài người được sinh sản và gia tăng!

37               Nếu chúng con xem xét yếu tính của tạo vật, không theo nghĩa bóng, mà theo nghĩa đen, thì lời "Hãy sinh sản và gia tăng" thích hợp với mọi vật được phát sinh do hạt giống. Còn nếu chúng con hiểu theo nghĩa bóng - là điều con tưởng Thánh Kinh để ý hơn, vì không phải vô ích mà Kinh Thánh dùng phúc lành này riêng cho các vật dưới nước và cho loài người - thì chúng con thấy sự gia tăng đó trong trời và đất, nơi các tạo vật thiêng liêng và vật chất; trong ánh sáng và tối tăm, nơi các linh hồn công chính và bất chính; trong bầu trời được thiết lập chắc chắn giữa nước và nước, nơi các tác giả Thánh Kinh là thừa tác viên của luật Chúa; trong biển cả, nơi xã hội các dân tộc đầm đìa giữa đắng cay; trong đất khô, nơi lao động chăm chỉ của các linh hồn đạo đức; trong cỏ rả sinh hạt và cây sinh trái, nơi các việc từ thiện được thực hiện ở đời này; trong các đèn đuốc trên trời, nơi các ơn thiêng liêng của Thánh Linh được ban phát nhằm lợi ích cho con người; trong hồn hằng sống, nơi các tâm tình đã được tôi luyện nhờ đức tiết độ.

Trong các vật khác nhau đó, chúng con nhìn thấy có sự sinh sôi nảy nở, gia tăng. Nhưng việc sinh sản, gia tăng này có ý nói là một sự được trình bày nhiều cách và một cách trình bày được hiểu nhiều kiểu khác nhau. Điều đó chúng con chỉ thấy trong các dấu hiệu vật chất được trình bày và trong các đối tượng tinh thần được quan niệm.

Các dấu hiệu vật chất của trình thuật được hiểu như các sản vật của nước: Chúng rất cần thiết, vì xác thịt tội lỗi quá nặng nề; còn các quan niệm tinh thần về đối tượng được hiểu như các thế hệ loài người, vì sự phong phú của lý trí.

 Vì thế mà, lạy Chúa, chúng con tưởng Chúa đã phán bảo hai tạo vật đó rằng: "Hãy sinh sản và gia tăng". Trong phúc lành đó con tưởng là Chúa đã ban cho chúng con khả năng và quyền hành để trình bày nhiều cách một quan niệm duy nhất, nhưng tối nghĩa. Nước biển tràn đầy là thế, nó chỉ bị khuấy động nhờ các chú giải khác nhau; trái đất cũng tràn ngập con cái loài người là thế, sự khô ráo của nó được xuất hiện trong việc nghiên cứu tìm tòi, nhờ lý trí điều khiển164.

 

Cỏ để ăn là giáo dân cấp dưỡng kẻ giảng (Gn 1,20)


XXV-38    Lạy Chúa, con cũng muốn nói điều mà câu Thánh Kinh kế tiếp gợi ra cho con. Con sẽ nói mà không lo sợ, vì con chỉ nói sự thật, bởi lẽ chính Chúa linh ứng cho con điều mà từ các lời đó Chúa đã muốn cho con phải nói. Vì con tin rằng: Ngoài Chúa ra chẳng có ai khác linh ứng cho con nói sự thật, vì Chúa là chân lý, còn mọi người là giả dối165. Cho nên kẻ nói dối là nói theo ý riêng của mình166. Vậy cho được nói sự thật, con sẽ nói theo ý Chúa.

Chúa đã ban cho chúng con làm của ăn mọi rau cỏ sinh hạt trên khắp mặt đất và mọi thứ cây có trái sinh hạt giống167. Chúa đã ban các của đó không phải chỉ cho chúng con, mà cho các chim trời, các súc vật và rắn rết, chỉ trừ cá biển và kình ngư.

Chúng con đã nói rằng: Các hoa quả trái đất ám chỉ và tượng trưng các việc từ thiện, do trái đất phì nhiêu cung cấp cho nhu cầu đời sống này. Tín hữu Onesiforus là một thứ đất như vậy. Chúa đã tỏ lòng thương gia đình ông, vì ông năn uý lạo Phaolô của Chúa và ông không hổ thẹn về xiềng xích của ngài168. Cũng đã làm như vậy và như đã thu lượm được một mùa gặt phong phú các a0 từ Macedon, đã cung cấp cho Phaolô những gì ngài thiếu thốn169. Vậy tại sao ngài phàn nàn về một số cây, vì đã không cho ngài hoa trái mà chúng phải cho, khi ngài nói: "Lần biện hộ đầu tiên của ta, không một ai hộ vực ta, song mọi người đều bỏ mặc ta. Thôi, mặc họ!170 Vì những hoa trái đó là nợ ta mắc với những kẻ đã khai tâm cho ta về giáo lý thiêng liêng, giúp ta hiểu các mầu nhiệm đạo Chúa, và như vậy, ta mắc nợ họ về phương diện loài người. Ta lại mắc nợ họ vì họ là những hồn hằng sống, cung cấp cho ta những gương mẫu về sự tự chủ hoàn toàn. Ta còn mắc nợ họ, vì lời giảng của họ vang lừng khắp thế gian!171

 

Chấp nhận cứu trợ với tinh thần nào?


XXVI-39   Nhưng kẻ tiêu dùng các hoa trái là những kẻ tìm được niềm vui trong đó; nhưng không có sự vui cho những lấy bụng làm chúa chính172. Ở nơi kẻ cung cấp cũng vậy, không phải của dâng, mà ý tứ của kẻ dâng làm nên hoa trái đó. Cho nên, về thánh tông đồ, người phục vụ Chúa, chứ không phải cái bụng của mình, con thấy rõ tại đâu ngài vui mừng? Con thấy rõ và con sốt sắng chia vui với ngài. Ngài đã nhận nơi Epaphô các của giáo dân Philíp dâng cho ngài; nhưng con thấy bởi đâu ngài được vui mừng? Ngài được dinh dưỡng bởi chính cái lý do làm cho ngài được vui mừng. Vì ngài đã nói trắng ra rằng: "Tôi rất đỗi vui mừng trong Chúa vì thấy cảm tình anh em đối với tôi lại tái phát, sau một thời gian anh em chán nản!173 Vậy các tín hữu này đã một thời gian lâu ở trong tình trạng bạc nhược, chán nản, như đất khô khan không còn sinh hoa trái việc lành  nữa, nay ngài vui mừng cho họ vì thấy họ lại khai hoa, chứ không phải vui mừng cho ngài vì được họ giúp đỡ trong cơn túng thiếu. Cho nên ngài nói tiếp: "Không phải vì túng cực, mà tôi nói thế, vì tôi đã học cho biết gặp sao chịu vậy. Tôi biết cảnh nghèo nàn, mà dư dật tôi cũng biết; trong mọi cơ hội và mọi sự, với no, với đói, với dư, với thiếu, tôi đều am tường cả: Tôi chịu được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi174.

40               Vậy bởi đâu ngài vui mừng, ôi đại nhân Phaolô? Bởi đâu ngài được vui mừng, bởi đâu ngài được dinh dưỡng, hỡi con người đã được canh tân175, để hiểu biết Thiên Chúa, theo hình ảnh của Đấng đã dựng nên ngài? Hỡi hồn hằng sống, hoàn toàn làm chủ được mình, hỡi loài có cánh ra truyền các mầu nhiệm thánh?176 Các của ăn này phải được cung cấp cho những tâm hồn như vậy. Cái gì nuôi dưỡng ngài? Sự vui mừng! Chúng con phải nghe ngài nói tiếp: "Tuy nhiên, anh em đã làm đúng, là chia sẻ sự quẫn bách của tôi"177. Đó là niềm vui của ngài, đó là của nuôi ngài, là cách đối đãi tử tế của họ, chứ không phải vì sự quẫn bách của ngài đã được giảm bớt. Há ngài đã chẳng thưa Chúa rằng: "Trong buổi ngặt nghèo, Chúa đã mở rộng lối thoát cho con?"178 Vì ngài biết sống trong dư dật và chịu đựng thiếu thốn, trong Chúa là Đấng giúp sức cho ngài179 Ngài còn viết cho giáo dân Philíp: "Này anh em, người thành Philíp, chính anh em cũng biết là vào buổi đầu rao giảng Tin Mừng, khi tôi rời bỏ Macedon, thì đã không có giáo đoàn nào hợp đồng với tôi về trương mục chi thu cả, duy chỉ có anh em đó thôi180. Vì khi tôi ở Thêsaloni, một hai lần anh em cũng đã cấp dưỡng cho tôi trong cảnh túng cực"181. Ngài vui mừng vì bây giờ họ trở lại các viện thiện đó và sung sướng thấy họ lại khai hoa, như một cánh đồng tái phát phì nhiêu.

 

Giá trị thật của việc bác ái


41               Phaolô có nghĩ đến lợi ích của mình khi viết: "Anh em đã cấp dưỡng cho tôi trong cảnh túng cực", không? Có phải tại thế mà ngài vui mừng không? Không phải thế! Và sao chúng con biết được? Vì chính ngài viết tiếp: "Tôi không cầu tặng vật, mà cầu cho mục thu của anh em được dồi dào hoa lợi!"182

Lạy Chúa, Chúa đã dạy con cho biết phân biệt giữa tặng vật và hoa lợi. Tặng vật là của cải, mà người ta giúp đỡ chúng con trong lúc cần thiết, như tiền bạc, của ăn, của uống, áo quần, nhà ở và mọi cứu trợ khác. Còn hoa lợi là ý chí tốt lành và ngay thẳng của kẻ cho. Vì Thầy nhân lành đã không chỉ nói: "Kẻ tiếp đón một tiên tri...". Mà còn thêm: "Vì danh nghĩa là tiên tri". Ngài cũng không chỉ nói: "Kẻ tiếp đón người công chính...". Mà còn thêm: "Vì danh nghĩa là công chính". Có như vậy, người kia mới nhận được phần thưởng của tiên tri, và người này phần thưởng của người công chính. Thầy nhân lành cũng không chỉ nói: "Kẻ nào cho một người trong những kẻ bé mọn này uống một bát nước lã...". Mà còn thêm: "Chỉ vì danh nghĩa là môn đệ Ta", và Người tiếp lì6n: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, nó không mất phần thưởng của nó đâu". Tặng vật là tiếp đón một tiên tri, một người công chính, là trao một bát nước lã cho người môn đệ; còn hoa trái là họ hành động như vậy vì kẻ ấy là tiên tri, là người công chính, là môn đệ Chúa. Bằng thứ hoa trái như vậy, Elia đã được nuôi nấng nơi một bà goá biết mình nuôi một người của Thiên Chúa và nuôi vì danh nghĩa đó183. Còn của ăn mà ông nhận được ở con quạ, chỉ là tặng vật. Không phải Elia bề trong được nuôi như vậy, mà là Elia bề ngoài: Xác ông có thể hư đi, nếu thiếu của ăn như vậy.

XXVII-42           Bởi vậy, con muốn nói tất cả sự thật ra trước mặt Chúa, lạy Chúa. Khinh người dốt nát, những người ngoại đạo184, là những kẻ chỉ có thể được cuộc khai tâm chinh phục, nhờ các bí tích nhập môn và các phép lạ cả thể, mà chúng con tưởng được ám chỉ dưới danh hiệu cá biển và kình ngư, khi họ đón nhận các tôi tớ Chúa để bổ dưỡng thân xác hay để giúp đỡ những nhu cầu nào thuộc đời sống hiện tại, vì họ không biết tại sao làm như vậy, và làm vì mục đích nào, thì thực ra họ không nuôi tôi tớ Chúa và tôi tớ Chúa cũng chẳng được họ nuôi, vì họ không hành động với ý chí lành thánh và ngay thẳng; mà tôi tớ Chúa cũng chẳng được hưởng tặng vật của họ, vì chưa nhìn thấy hoa trái trong đó; mà linh hồn chỉ được nuôi dưỡng bằng niềm vui. Cho nên, cá biển và kình ngư không ăn các của mà trái đất sản xuất sau khi được phân tách và thanh tẩy khỏi chất đắng cay của nước biển.

 

PHẨM CHẤT VIỆC TẠO DỰNG

 

Yếu tính việc tạo dựng là tốt đẹp


XXVIII-43          Lạy Chúa, Chúa đã nhìn xem mọi vật Chúa đã tạo dựng và Chúa cho là rất tốt đẹp185. Chúng con cũng vậy, chúng con nhìn xem các vật ấy và cho chúng là tốt đẹp. Về từng loại tạo vật của Chúa, khi Chúa phán: "Hãy có!". Và chúng có rồi, thì Chúa đã thấy loại nào cũng tốt đẹp. Con đã đếm được 7 lần Kinh Thánh nói là Chúa đã thấy công việc Chúa đã làm là tốt đẹp; và lần thứ 8, khi Chúa nhìn xem mọi việc Chúa đã làm, thì không những Chúa cho là tốt đẹp, mà còn là rất tốt đẹp, về toàn thể. Khi nhìn xem chúng riêng rẽ, thì chúng tốt đẹp, nhưng khi nhìn toàn thể, thì chúng tốt đẹp và rất tốt đẹp! Điều đó bất cứ thân thể tốt đẹp nào cũng nói lên được. Vì một thân thể gồm toàn các chi thể tốt đẹp, thì nhờ sự kết hợp rất đều hoà của toàn thể, sẽ tốt đẹp hơn là từng chi thể riêng rẽ, mặc dầu nhìn riêng từng chi thể, chúng đều tốt đẹp.

 

Thiên Chúa có nhìn công việc của Người trong thời gian không?


XXIX-44             Con đã để ý tìm xem có phải 7, 8 lần khác nhau, Chúa đã nhìn xem công việc Chúa làm là tốt đẹp, vừa ý Chúa không? Nhưng con không thấy cái nhìn của Chúa lệ thuộc và thời gian, để cho phép con hiểu rằng: Chúa đã nhìn xem bấy nhiêu lần công việc Chúa đã làm. Và con đã nói: "Chúa ôi, lẽ nào Kinh Thánh của Chúa không chân thật, vì Chúa là Đấng chân thật186 và là chính sự thật, đã mạc khải nó, hay sao? Vậy tại sao, Chúa bảo con rằng: Không có thời gian trong cái nhìn của Chúa, thế mà Kinh Thánh Chúa lại bảo con rằng: "Ngày qua ngày, Chúa đã nhìn xem công việc Chúa đã làm là tốt đẹp". Và khi tính ra, con đã thấy được bấy nhiêu lần.

Về vấn đề này, Chúa trả lời con, vì Chúa là Chúa Trời con và Chúa lớn tiếng nói vào tai linh hồn của tôi tớ Chúa, để phá tan sự điếc lác của con và kêu lên rằng: "Hỡi người! Điều mà Thánh Kinh đã chép là do Ta nói. Tuy nhiên, nó được chép trong thời gian, còn lời Ta nói vượt quá thời gian, vì nó ở với Ta trong một vĩnh cửu cũng như Ta. Như vậy, những gì các ngươi xem thấy nhờ Thần Linh của Ta, thì Ta cũng xem thấy. Và những gì các ngươi nói, nhờ Thần Linh của Ta, thì Ta cũng nói. Nhưng các ngươi xem thấy các sự ấy trong thời gian, còn Ta không xem thấy trong thời gian. Cũng vậy, các ngươi nói các điều ấy trong thời gian; còn Ta, ta không nói trong thời gian".

 

Bè Manès quan niệm sai về việc tạo dựng


XXX-45    Con đã nghe ra, lạy Chúa Trời con. Con đã liếm được một giọt chân lý ngọt ngào của Chúa. Con đã hiểu có những người không ưa thích công trình của Chúa; và họ nói là có nhiều việc Chúa đã làm vì nhu cầu thúc bách. Tỉ dụ như việc bố trí các tầng trời và sắp xếp các tinh tú, là Chúa đã không tự mình làm nên chúng, nhưng chúng đã được tạo dựng ở nơi khác, do một bàn tay khác; là Chúa chỉ có tụ tập, bố trí và sắp đặt chúng, để sau khi kẻ thù Chúa thất bại, Chúa mới xây đắp thành luỹ thế gian, để nhờ kiến trúc đó, các kẻ đã thua trận không còn có thể lại nổi lên chống lại Chúa; là Chúa không tạo dựng và không sắp xếp các vật khác, tỉ dụ như các nhục thể, các súc vật bé nhỏ, tất cả cái gì đâm rễ xuống đất. Các vật này đã được khai sinh và hình thành trong các phần hạ của thế giới, do một thần trí thù địch, do một bản chất ngoại lai không bởi Chúa tác tạo và chống lại Chúa.

Những người điên cuồng nói như vậy, vì họ không nhờ Thần Linh Chúa để nhìn xem các công trình của Chúa; cũng chẳng nhìn nhận ra Chúa ở trong chúng.

 

Điều kiện để có ý niệm đúng về việc tạo dựng


XXXI-46             Những kẻ nhờ Thần Linh Chúa mà nhìn xem tạo vật đó, là chính Chúa nhìn xem trong họ các tạo vật đó. Như vậy, khi họ nhìn xem chúng tốt đẹp, là Chúa nhìn xem chúng tốt đẹp. Và họ ưa thích vật nào vì lòng mến Chúa, tức là họ ưa thích Chúa trong vật đó. Và chúng con ưa thích vật nào trong Thần Linh Chúa, tức là Chúa ưa thích vật đó trong chúng con. Vì ai trong loài người biết được những điều có trong người ta, nếu không phải là thần khí nhân loại ở trong kẻ ấy? Cũng vậy, những điều có trong Thiên Chúa, không ai biết được, trừ phi là Thần Linh của Thiên Chúa. Tông đồ nói tiếp: "Phần ta, ta đã không nhận lãnh thần khí thế gian, mà là Thần Khí do từ Thiên Chúa, hầu ta nhận biết được các điều Thiên Chúa đã ban cho ta"187.

Vậy con được quyền nói rằng: "Hẳn thật không ai biết những điều ở nơi Thiên Chúa, trừ phi Thần Linh của Thiên Chúa. Vậy làm sao chúng con biết được những điều Chúa đã ban cho chúng con?". Con được trả lời rằng: "Cả những điều chúng con biết được như vậy nhờ Thần Linh của Chúa, thì cũng chẳng ai biết được, ngoại trừ Thần Linh Chúa. Vì theo như lời xác đáng cho những kẻ nói trong Thần Linh của Chúa rằng: "Không phải các ngươi nói"188, thì cũng nói được cách xác đáng cho những kẻ biết trong Thần Linh Thiên Chúa rằng: "Không phải các ngươi biết". Cũng nói được xác đáng như vậy cho những kẻ nhìn thấy trong Thần Linh Thiên Chúa: "Không phải các ngươi  nhìn thấy". Như vậy, khi nhờ Thần Linh Thiên Chúa, họ xem thấy cái gì tốt lành, thì không phải họ mà Thiên Chúa xem thấy là tốt lành.

Đây là những thái độ khác nhau: Nố thứ nhất là có kẻ cho cái tốt là xấu, theo giáo thuyết mà con đã nói trên kia189. Nố thứ hai là có kẻ cho là cái gì người ta thấy tốt, là tốt, như nhiều người ưa thích các tạo vật của Chúa, vì chúng tốt, nhưng không phải là họ ưa thích Chúa trong chúng; nên họ muốn hưởng chúng. Nố thứ ba là khi  người ta thấy vật gì tốt là chính Chúa ở trong người ấy nhìn thấy vật đó tốt, và Chúa được yêu mến trong công trình Chúa đã làm, à Chúa được yêu mến nhờ Thánh Linh Chúa đã ban cho chúng con. "Vì tình yêu của Thiên Chúa đã được đổ xuống lòng ta, nhờ bởi Thần Linh Người đã ban cho ta"190. Nhờ Người chúng con xem thấy bất cứ vật gì hiện hữu cách nào đều là tốt đẹp; vì nó phát xuất bởi Đấng không phải hiện hữu một cách nào đó, mà là Đấng tự hữu!191

 

Toàn khối tạo vật


XXXII-47           Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa192. Chúng con nhìn thấy trời và đất nghĩa là tạo vật thể chất ở phần tượng và phần hạ, hay là tạo vật thiêng liêng và tạo vật thể chất; và, cho được trang hoàng những thành phần của toàn khối thế gian, hay của toàn thể tạo vật, chúng con trông thấy ánh sáng được tạo dựng và được tách khỏi tối tăm. Chúng con nhìn thấy bầu trời: Hoặc là quãng không ở giữa làn nước thiêng liêng thượng cấp và là nước thể chất hạ cấp193. Đó là vật thể đầu lòng của vũ trụ; hoặc là chính quãng không khí, mà người ta cũng gọi là trời và là nơi các chim trời qua lại, ở giữa làn nước bốc hơi lơ lửng trên chúng, để hoá sương mù sa xuống trong những đêm thanh, và khối nước nặng hơn lưu thông trên mặt đất. Chúng con nhìn thấy vẻ đẹp của các làn nước tụ lại trong các bình nguyên của biển cả; và đất khô, có khi còn trơ trụi, có khi đã hình thành, để thấy được và có tổ chức, để người mẹ trổ sinh rau cỏ và cây cối. Chúng con nhìn thấy các đèn đuốc chiếu soi trên đầu chúng con, mặt trời đủ cho ban ngày, mặt trăng và các tinh tú yên ủi ban đêm, và nhờ chúng mà thời giờ được đánh dấu và đo lường. Chúng con nhìn thấy nguyên tố ẩm ướt sinh sản cá biển, kình ngư và loài có cánh, vì nhờ mật độ từ hơi nước, khí trời nâng đỡ cánh chim bay. Chúng con nhìn thấy mặt địa cầu được trang điểm bởi các vật dưới đất; và con người được tạo dựng giống hình ảnh Chúa, cai trị các vật vô lý trí, nhờ chính sự giống hình ảnh Chúa, nghĩa là nhờ có lý tính và trí khôn. Trong linh hồn người ta, một đàng có sự suy nghĩ để điều khiển, đàng khác có sự tuân theo để phục tùng. Cũng vậy, về phần xác, người nữ đã được tạo dựng cho người nam, và cùng có một bản tính như nhau, với lý tính và trí khôn. Tuy nhiên, về giới tính phần xác, người nữ phục tùng người nam, cũng như sự hăng say làm việc phục tùng trí khôn, để nhận lãnh một hướng làm việc cho ngay thẳng. Chúng con nhìn thấy các sự vật đó, riêng từng thứ, thì tốt đẹp, mà toàn thể thì rất tốt đẹp.

XXXIII-48          Chớ gì các công trình của Chúa tán tụng Chúa194, để chúng con yêu mến Chúa; và chớ gì chúng con yêu mến Chúa, để các công trình của Chúa tán tụng Chúa. Chúng theo thời gian mà xuất hiện và cáo chung, mọc lên và lặn xuống tiến triển và suy tàn, xinh đẹp và khiếm khuyết. Vậy chúng lần lượt có buổi sáng và buổi chiều của chúng: Sự kết tiếp này có lần bí mật, có lúc rõ ràng.

Chúng đã được Chúa tạo dựng từ hư vô, chứ không phải từ bản thể của Chúa, hay từ một vật chất nào không phải là của Chúa, hoặc có trước Chúa, nhưng từ vật chất được đồng thụ tạo, nghĩa là được Chúa tạo dựng đồng thời với chúng. Vật chất đó, Chúa đã cho nó đi từ vô dạng đến hình dạng, mà không cách quãng thời gian nào cả.

Thật vậy, vật liệu của trời và đất là một sự, mà hình dạng của trời và đất là một sự khác. Vật liệu Chúa đã tạo dựng từ hư vô tuyệt đối. Còn hình dạng của vũ trụ, Chúa đã làm ra từ vật liệu vô dạng. Tuy  nhiên, cả hai việc đó, Chúa đã làm một trật, đến nỗi hình dạng theo vật liệu không cách quãng thời gian nào hết.

 

Sơ lược các chân lý thiêng liêng ở việc tạo dựng


XXXIV-49          Chúng con cũng đã suy xét về những chân lý thiêng liêng mà Chúa đã muốn hình dung qua trật tự phát xuất các công trình Chúa, hay qua trật tự trình bày của Thánh Kinh; và chúng con đã thấy riêng từng loại, thì chúng tốt đẹp, mà toàn thể, thì chúng rất tốt đẹp; và trong Ngôi Lời của Chúa, trong Con Duy Nhất của Chúa, chúng con đã nhìn thấy trời và đất, đầu và mình của Giáo Hội, đã được tiền định trước mọi thời gian, không có buổi sáng và buổi chiều. Nhưng khi Chúa bắt đầu thực hiện trong thời gian những gì Chúa đã tiền định từ thuở đời đời, để bày tỏ các ý định nhiệm mầu của Chúa và đặt trật tự cho sự vô trật tự của chúng con - vì tội lỗi của chúng con che phủ chúng con đã làm cho chúng con đi xa Chúa, rơi vào vực sâu tăm tối và Thần Linh tốt lành của Chúa bay lượn trên đó, để cứu giúp chúng con trong lúc thuận tiện - thì Chúa đã công chính hoá tội nhân195 và tách biệt họ khỏi kẻ dữ, và đã củng cố uy thế của Thánh Kinh giữa các người thượng cấp chỉ vâng phục Chúa, và các người hạ cấp vâng phục họ; Chúa đã tụ tập xã hội kẻ ngoại giáo thành một đoàn thể, đồng tâm nhất trí, hầu tỏ lộ sự nhiệt thành của các tín hữu, trong việc thực thi bác ái và phân phát cho kẻ khó nghèo của cải thế gian, để được của cải ở trên trời.

Rồi Chúa đã đốt lên những đèn đuốc trên bầu trời - tức là các thánh của Chúa có lời sự sống, và được đầy ơn Thánh Linh, làm cho các ngài chiếu sáng với một uy thế siêu việt. Rồi để thấm nhiễm đức tin vào dân ngoại, Chúa đã rút từ vật chất hình thể các bí tích, các phép lạ hiển hiện, và lời rao giảng thích hợp với bầu trời Kinh Thánh của Chúa, cũng là mạch các phúc lành cho các tín hữu Chúa. rồi Chúa đã đào tạo hồn hằng sống của các tín hữu Chúa có tâm tình trật tự, nhờ một sự tiết độ mạnh mẽ. Rồi Chúa đã canh tân cho hợp với hình ảnh Chúa, linh hồn chỉ biết phục tùng một mình Chúa và không cần phải bắt chước một quyền hành nhân loại nào đâu. Chúa đã bắt chước một quyền hành nhân loại nào đâu. Chúa đã bắt sinh hoạt hợp lý phải vâng phục sự điều khiển của trí khôn, cũng như người vợ tùng phục người chồng. Chúa đã muốn cho các thừa tác viên của Chúa, cần thiết cho việc thành toàn các tín hữu ở đời này, phải được chính các tín hữu này, tuỳ theo nhu cầu trần thế, mà cung cấp cho các ngài những công việc từ thiện, có lợi ích cho đời sau196.

Các sự vật đó, chúng con nhìn thấy và chúng rất tốt đẹp, vì Chúa nhìn thấy chúng trong chúng con, Chúa là Đấng đã ban cho chúng con Thần Linh để nhờ Người, chúng con có thể nhìn thấy chúng và yêu mến Chúa trong chúng.

 

KINH CUỐI CÙNG

 

Nghỉ ngày saba có ý nghĩ gì?


XXXV-50           Lạy Chúa Trời con, xin ban bình an cho chúng con197, vì Chúa đã ban mọi sự cho chúng con: Sự bình an của ngày saba, sự bình an không có buổi chiều. Vì tất cả các sự tốt đẹp, rất tốt đẹp và rất trật tự này, sẽ qua đi, một khi đạt tới giới hạn Chúa đã ấn định cho chúng: Chúng sẽ có buổi chiều như đã có buổi sáng.
XXXVI-51          Nhưng ngày thứ bảy không có buổi chiều, cũng chẳng có mặt trời lặn, vì Chúa đã thánh hiến nó để nó tồn tại đến muôn đời. Và sự nghỉ ngơi mà Chúa đã chấp nhận ngày thứ bảy, sau khi đã hoàn thành các công trình rất tốt đẹp - mặc dầu Chúa đã làm các việc đó trong nghỉ ngơi - đó là dấu hiệu mà lời sách Chúa báo trước cho chúng con, là sau khi chúng con đã làm được những công việc rất tốt đẹp, vì Chúa đã ban cho như vậy, chúng con cũng sẽ nghỉ yên trong Chúa, vào ngày thứ của cuộc đời vĩnh cửu.

XXXVI-52          Lúc đó, Chúa sẽ yên nghỉ trong chúng con, cũng như bây giờ Chúa hành động trong chúng con. Và như vậy, Chúa nghỉ ngơi qua chúng con. Nhưng, lạy Chúa, Chúa hằng hoạt động và hằng nghỉ ngơi. Chúa không nhìn xem trong thời gian, Chúa không nghỉ ngơi trong thời gian. Tuy nhiên, Chúa làm nên những gì được nhìn thấy trong thời gian, Chúa làm nên chính thời gian và Chúa ban sự nghỉ ngơi sau thời gian.

XXXVIII-53       Vậy chúng con nhìn thấy các vật Chúa đã tạo dựng, vì chúng đang hiện hữu trước mặt chúng con đây. Còn đối với Chúa, chúng hiện hữu, vì Chúa đã nhìn thấy chúng. Nhờ giác quan chúng con nhìn thấy chúng hiện hữu, nhờ tinh thần, chúng con nhận thấy chúng tốt đẹp. Còn Chúa, Chúa đã thấy chúng được hoàn thành ngay khi Chúa thấy chúng phải được hoàn thành.

Ngày nay chúng con được huy dộng làm lành, sau khi tâm hồn được Thần linh soi cho có ý niệm. Nhưng trước đây, vì lìa xa Chúa, chúng con đã bị thúc giục làm sự dữ. Còn Chúa, lạy Chúa duy nhất và tốt lành, không khi nào Chúa thôi làm lành. Và chúng con có làm được việc lành nào, là nhờ ơn Chúa giúp, nhưng các việc đó không vĩnh cửu. Chúng con hy vọng là sau khi hoàn tất các việc lành đó, chúng con sẽ được nghỉ ngơi trong nơi thánh thiện vô cùng của Chúa. Phần Chúa, là thiện hảo không cần thiện hảo nào hết, Chúa hằng nghỉ ngơi, vì chính Chúa là sự nghỉ ngơi của Chúa.

Sự hiểu biết này, ai trong nhân loại sẽ thông cho người khác được? Thiên thần nào sẽ thông cho người khác được? Thiên thần nào sẽ thông cho thiên thần khác được? Thiên thần nào sẽ thông cho nhân loại được? Không được! Một phải xin với Chúa, phải tìm trong Chúa, phải gõ cửa Chúa: Có như vậy, phải có như vậy, người ta mới nhận được; có như vậy, người ta mới tìm thấy; có như vậy, người ta mới được mở cửa ra cho!198

Không có nhận xét nào: