Allen: Một thách đố khác, vốn đã là ưu
tiên của các vị tiền nhiệm gần đây của Đức Thánh Cha, và tôi nghĩ đặc biệt Đức
Giáo Hoàng Phanxicô đã thúc đẩy mạnh mẽ, đó là vấn đề đại kết. Đức Thánh Cha sẽ
tiếp cận thế nào? Đây có phải cũng là một ưu tiên trong triều đại giáo hoàng
của ngài không?
Đức Giáo
Hoàng Lêô: Chắc
chắn rồi. Tôi cho rằng từ Công đồng Vaticanô II, Giáo Hội đã ý thức rõ ràng cần
phải tiến bước để hướng tới sự hiệp nhất đích thực của mọi Kitô hữu. Một trong
những vết thương sâu sắc nhất trong đời sống Hội Thánh hôm nay chính là sự chia
rẽ giữa các Kitô hữu. Tôi thường nói đến việc xây dựng những nhịp cầu; đôi khi,
paradox thay, việc xây dựng nhịp cầu với những người không phải Kitô hữu lại dễ
dàng hơn là với chính những anh chị em Kitô hữu lân cận. Có nhiều yếu tố chia
cách chúng ta, ngăn cản chúng ta cùng bước đi trong hiệp thông trọn vẹn về niềm
tin.
Năm nay,
tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh một điểm: kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nicêa. Đức
Phanxicô đã dự định hành hương Nicêa, nhưng rồi ngài lâm bệnh, ngày gặp gỡ bị
hoãn hai lần, và chúng tôi phải sắp xếp lại. Tôi rất quan tâm và hy vọng có thể
đến Nicêa vào cuối tháng 11. Ban đầu, người ta nghĩ đó sẽ là cuộc gặp giữa
Thượng phụ Constantinople Bácthôlômêô và tôi. Tôi đã xin biến sự kiện này thành
một cuộc gặp gỡ đại kết, mời các nhà lãnh đạo Kitô giáo từ nhiều hệ phái khác
nhau đến Nicêa, bởi lẽ Nicêa gắn liền với Kinh Tin Kính – một khoảnh khắc lịch
sử trước khi các cuộc chia rẽ xảy ra, nơi chúng ta vẫn có thể cùng nhau tuyên
xưng một đức tin chung.
Về mặt
biểu tượng, đó chính là câu trả lời của tôi: vâng, đây là một ưu tiên. Tôi đã
gặp gỡ nhiều vị thượng phụ, kể cả đại diện của Thượng phụ Kirill từ Moskva. Sau
Giáo Hội Công giáo, Chính Thống Nga là cộng đồng Kitô hữu đông tín hữu nhất.
Nhưng vì chiến tranh và những tuyên bố căng thẳng, khoảng cách giữa chúng ta
hiện còn xa hơn. Tôi tin một phần sứ vụ của mình là xây dựng nhịp cầu tại đó
nữa. Hiển nhiên, chúng ta đều biết rõ những căng thẳng giữa Thượng phụ Moskva
và Thượng phụ Constantinople, cũng như những chọn lựa nội bộ của Chính Thống
giáo. Nếu Giám mục Rôma có thể góp phần nối kết, quy tụ, thì dù nhiều thách đố,
đó vẫn là một việc phục vụ lớn lao, bởi rốt cuộc, chúng ta đều tin vào Đức
Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta.
Trong
lịch sử, đã có nhiều biến cố khiến chia rẽ thêm sâu: ai tin điều này, ai tin
điều kia, vai trò của Giám mục Rôma trong lòng Hội Thánh phổ quát ra sao...
Nhưng chúng ta phải tiếp tục dấn thân. Một vấn đề cụ thể là tìm ra ngày mừng lễ
Phục Sinh chung. Đây vẫn còn trong chương trình nghị sự. Chúng tôi đã có vài
bước khởi đầu, chưa thể nói là có tiến triển, nhưng ít ra đang cùng xem xét
những khả thể khác nhau. Vấn đề này rất phức tạp, từ sự khác biệt giữa lịch
Gregôriô và lịch Juliên, đến câu hỏi ai sẽ là người đi bước đầu. Chúng tôi đang
nghiên cứu và làm việc. Đây là một mục tiêu, một vấn đề quan trọng.
Allen: Còn về đối thoại liên tôn? Đức
Phanxicô đã xem việc đối thoại với Hồi giáo là một ưu tiên lớn. Có người nói
rằng cộng đồng Do Thái cảm thấy bị bỏ quên, nhất là trong bối cảnh chiến tranh
ở Gaza. Đức Thánh Cha nghĩ đâu là ưu tiên lớn nhất của Tòa Thánh hiện nay trong
lãnh vực này?
Đức Giáo
Hoàng Lêô: Có lẽ
tôi hơi táo bạo, nhưng tôi dám nói rằng chỉ trong vài tháng đầu, mối tương quan
với cộng đồng Do Thái đã có phần cải thiện. Điều quan trọng là phải phân biệt
rõ giữa những gì chính phủ Israel làm và cộng đồng Do Thái như một thực thể tôn
giáo – chính họ cũng nhấn mạnh điểm này. Nhờ vậy, tôi thấy trong vài cuộc gặp
gỡ, đã có bước tiến gần hơn. Cội rễ Kitô giáo chúng ta nằm trong Do Thái giáo,
và ta không thể nhắm mắt trước sự thật đó. Còn rất nhiều việc phải làm.
Với Hồi
giáo, tôi cũng đã có vài cuộc gặp. Nhưng Hồi giáo cũng không phải là một thực
thể duy nhất: gặp nhóm này thì lại có nhóm khác, không dễ dàng. Đức Phanxicô đã
đạt những bước tiến quan trọng trong việc vượt qua các rào cản vốn ăn sâu trong
lịch sử. Vì lợi ích của hòa bình thế giới, chúng ta không có con đường nào
khác. Phải tìm mọi cách thúc đẩy cơ hội đối thoại, tôn trọng lẫn nhau và hiểu
biết nhau. Dĩ nhiên, đây cũng sẽ là một phần quan trọng trong chương trình của
tôi.
Tôi cũng
đã có buổi gặp gỡ tốt đẹp với một nhóm Phật tử đến Rôma. Điều đó thể hiện sự
tôn trọng lẫn nhau, ý thức rằng mỗi cộng đồng có niềm tin riêng. Tôi xác tín
mạnh mẽ vào Đức Giêsu Kitô – đó là ưu tiên vì tôi là Giám mục Rôma, là Đấng Kế
Vị Thánh Phêrô. Sứ mạng của Đức Giáo Hoàng là giúp Kitô hữu, đặc biệt người
Công giáo, hiểu rõ chúng ta là ai. Đó là một sứ mạng tuyệt đẹp.
Khi sứ
mạng ấy bị bóp méo bởi ý thức hệ, bị hiểu sai, mọi sự trở nên phức tạp. Nhưng
tôi không ngần ngại tuyên xưng niềm tin: Đức Kitô đã chết trên thập giá và đã
phục sinh, và chúng ta cùng được mời gọi loan báo Tin Mừng ấy. Khẳng định điều
đó không có nghĩa là xúc phạm hay phát động chiến dịch chống lại tôn giáo khác
– lịch sử đã cho chúng ta thấy rõ, đó không bao giờ là con đường đúng.
Allen: Trở lại đề tài trí tuệ nhân tạo.
Đức Thánh Cha từng nói đây là một khủng hoảng đang đến. Hội Thánh có vai trò gì
trong đó?
Đức Giáo
Hoàng Lêô: Mỗi lần
tôi vừa phát biểu, hôm sau đã thấy trí tuệ nhân tạo lại tiến thêm bước mới. Sự
phát triển quá nhanh khiến người ta lo lắng. Nhưng điều quan trọng: nếu chúng
ta đánh mất giá trị con người, và coi thế giới số là tất cả, để mặc cho những
người giàu đầu tư khổng lồ vào trí tuệ nhân tạo mà không quan tâm đến phẩm giá
con người, thì Hội Thánh phải lên tiếng. Ý nghĩa đời sống không nằm ở máy móc,
mà nằm ở con người, nơi sự gặp gỡ, tương quan, và trong đó ta khám phá được sự
hiện diện của Thiên Chúa.
Khó có
thể tìm thấy Thiên Chúa trong AI. Nhưng trong các mối tương quan nhân sinh, ta
có thể nhận ra dấu chỉ sự hiện diện của Ngài. Khi tôi nói về tôn trọng nhau,
gia đình, công bằng, sống và làm việc trong hòa bình, tất cả bắt nguồn từ ý
thức về hồng ân cao cả Thiên Chúa ban cho nhân loại. Nếu Hội Thánh không lên
tiếng, thế giới kỹ thuật số sẽ tự đi theo lối riêng, biến con người thành công
cụ hay bị bỏ rơi.
Một khía
cạnh khác là công việc và nhân phẩm. Lao động giúp con người thể hiện phẩm giá,
nuôi sống gia đình, sống tự trọng. Những giá trị này đang bị đe dọa, nên Hội
Thánh cần lên tiếng. Đức Phanxicô đã từng, lần đầu tiên trong lịch sử, được mời
dự G7 tại Bari để bàn về vấn đề này. Hội Thánh không chống khoa học kỹ thuật,
nhưng nếu đánh mất sự kết hợp giữa đức tin và lý trí, khoa học sẽ trở thành một
vỏ lạnh lẽo, gây hại cho nhân loại, và con tim con người sẽ bị đánh mất giữa
cơn lốc phát triển công nghệ.
Allen: Một hệ lụy khác của AI là nguy
cơ “giả tạo sâu” (deepfake). Sự thật sẽ được bảo vệ thế nào?
Đức Giáo
Hoàng Lêô: Đúng là
một câu hỏi hay. Tôi không có câu trả lời hoàn hảo ngoài việc tiếp tục khẳng
định: có sự thật, sự thật đích thực. Tôi không thể chấp nhận quan niệm “sự kiện
thay thế”. Sự kiện là sự kiện. Đã có người hỏi thăm tôi vì “thấy tôi ngã cầu
thang” trong một video lan truyền – trong khi đó chỉ là hình ảnh giả tạo rất
tinh vi. Người ta còn xin phép tạo ra một “giáo hoàng ảo” để mọi người có thể
trò chuyện trực tuyến. Tôi đã từ chối: không ai nên được thay thế bằng một hình
nộm kỹ thuật số, nhất là vị Giáo Hoàng.
Tôi không
chống AI. Trong y khoa và nhiều lãnh vực, AI mang lại lợi ích to lớn. Nhưng
nguy cơ là ta sẽ rơi vào thế giới giả tạo, rồi không còn phân biệt đâu là sự
thật. Ngay hôm qua, tôi đã nói chuyện với các “influencers” tại Năm Thánh:
chúng ta phải cùng nhau nỗ lực để loan truyền sự thật, sự chân thành, chứ không
gieo rắc thêm tin giả. Vấn đề là: vì sao có nhiều người sẵn sàng tin và tiêu
thụ tin giả? Ở đó có một sự khao khát sai lạc. Và điều ấy rất tàn phá.
Allen: Đức Thánh Cha là vị giáo hoàng
thứ hai trong lịch sử được bầu vào Năm Thánh; trước đó là Đức Innocentê XII năm
1700. Không chỉ là một Năm Thánh thường, mà là Năm Thánh Hy Vọng. Điều này có ý
nghĩa gì với ngài?
Đức Giáo
Hoàng Lêô: Mùa Chay
và Phục Sinh vừa qua đã cho chúng ta chứng kiến khoảnh khắc cảm động: những
ngày cuối của Đức Phanxicô – ngài đau nặng, rồi ban phép lành Urbi et Orbi
lần cuối từ ban công, đi vòng quanh Quảng trường Thánh Phêrô, và qua đời ngay
hôm sau. Đó là một chứng tá mạnh mẽ về mầu nhiệm Vượt Qua: sự sống, cái chết và
sự sống mới.
Năm Thánh
là thời khắc cử hành đức tin cách mãnh liệt, như một cuộc hành hương tiến về
Rôma, bước qua Cửa Thánh, biểu tượng của lời mời gọi Thiên Chúa. Việc tôi được
các Hồng y bầu làm Đấng Kế Vị Thánh Phêrô cũng chính là một hành trình vượt
qua: chết đi cho quá khứ, sống một sứ vụ mới hoàn toàn, 24 giờ mỗi ngày, với
trách nhiệm và công khai trước toàn thế giới. Không dễ dàng chút nào. Nhưng Năm
Thánh Hy Vọng luôn nhắc tôi về ơn gọi hoán cải liên lỉ và loan báo Tin Mừng cho
mọi người.
Hai tháng
đầu triều đại của tôi, tôi đã chứng kiến nhiều xung đột, phản chiếu tình hình
thế giới hôm nay. Nhưng trong tất cả, tôi vẫn cảm nhận sự hiện diện của Chúa,
ngủ yên trong bình an, với Thánh Thần nâng đỡ. Tôi biết còn nhiều thử thách
phía trước. Nhưng Năm Thánh Hy Vọng và những phản hồi từ khắp nơi gửi về đã cho
thấy: Chúa Thánh Thần đang hoạt động, mang đến cho nhiều người niềm hy vọng mới và
thôi thúc họ muốn góp phần vào đó.
Đó là một ân phúc lớn lao cho cá nhân tôi, và tôi chỉ có thể nói: không phải tôi, mà chính Chúa đang thực hiện mọi sự. Tất cả trong tay Ngài. Và giữa những hứng khởi lẫn thách đố, tôi luôn xác tín rằng Giáo Hội hôm nay vẫn còn rất nhiều điều quý giá để trao ban cho thế giới.
ĐỨC GIÁO HOÀNG LÊÔ TRAO ĐỔI
VỀ GIÁO TRIỀU VÀ TÀI CHÍNH VATICAN
Allen: Xin chuyển sang một hướng khác.
Việc điều hành và canh tân Giáo triều Rôma cũng là trách nhiệm của Đức Thánh
Cha. Đức Phanxicô đã thực hiện nhiều cải tổ, đã ban hành Predicate
Evangelium, nhưng vẫn còn những điều chưa hoàn tất. Đức Thánh Cha sẽ tiếp
cận vấn đề cải tổ thế nào? Ngài sẽ tiếp tục điều gì, và có thể làm khác điều
gì?
Đức Giáo
Hoàng Lêô: Tôi nghĩ
rằng nguồn cảm hứng căn bản của Predicate Evangelium vẫn còn giá trị và
rất quan trọng, vì văn kiện này trình bày một cách hiểu mới về Tòa Thánh và
Giáo triều Rôma: đó là cơ quan phục vụ cả sứ vụ của Đức Giáo Hoàng lẫn các Giám
mục địa phương. Phải có sự sẵn sàng trong cả hai chiều hướng. Nhiều Giám mục đã
chia sẻ với tôi, ngay từ khi tôi còn ở Bộ Giám mục, rằng mỗi lần được gọi về
Rôma, các ngài đều sợ hãi: “Tôi bị gọi về Rôma vì chuyện gì? Có vấn đề gì
chăng?” Thay vì hiểu rằng Tòa Thánh hiện diện để nâng đỡ và phục vụ các ngài.
Bắt đầu
từ sự hiểu biết cơ bản ấy, và với xác tín rằng chúng ta hiện hữu để thi hành sứ
mạng loan báo Tin Mừng – điều chính tựa đề Predicate Evangelium đã nói
lên – thì rõ ràng đã có nhiều công sức để tổ chức lại cơ cấu Tòa Thánh nhằm
phục vụ tốt hơn. Như bất kỳ tổ chức nhân loại nào, luôn có những điểm tích cực
và những điều cần cải thiện. Một số quyết định trong Predicate Evangelium
có thể cần được điều chỉnh, nhưng điều quan trọng là phải không ngừng xét lại
xem chúng ta đang phục vụ thế nào và có thể cải thiện ở đâu.
Một vấn
đề cụ thể mà tôi hy vọng sẽ bắt đầu thực hiện trong tương lai gần là tiếp tục
phá bỏ lối làm việc cô lập giữa các Bộ. Nhiều vấn đề trong Giáo hội không thuộc
riêng một Bộ nào, nhưng lại thiếu sự đối thoại và cơ chế trao đổi giữa các Bộ,
điều này gây hạn chế và tổn hại cho việc quản trị. Có người gọi đó là “tư duy
khép kín trong silo”: “Bộ của tôi chỉ lo việc của tôi, không cần trao đổi với
ai khác”. Trong khi thực tế có rất nhiều vấn đề liên quan đến hai, ba hay bốn
Bộ cùng lúc. Chúng ta phải tìm cách đưa mọi người lại với nhau để trao đổi.
Predicate
Evangelium đã đặt
nền tảng cho việc này và một phần đã bắt đầu. Tôi nhớ trong hai năm làm việc,
chúng tôi từng mời các vị Tổng trưởng của một vài Bộ đến họp chung để bàn thảo.
Nhưng rồi tôi lại nghe có người nói: “Trong 20 năm ở đây tôi chưa từng họp với
Bộ nào khác.” Tôi thật sự ngạc nhiên. Những thay đổi đã khởi sự, nhưng tôi muốn
tìm cách chính thức hóa cơ chế giúp việc này diễn ra dễ dàng và thường xuyên
hơn. Nghĩa là phải tập hợp mọi người lại, để các Tổng trưởng và Thư ký có thể
trực tiếp trao đổi với nhau.
Allen: Về tình hình tài chính của Tòa
Thánh, Đức Thánh Cha từng nói không đến nỗi tệ như người ta thường nghĩ. Xin
Ngài giải thích rõ hơn. Thực trạng tài chính hiện nay thế nào, và Đức Thánh Cha
sẽ quản lý ra sao?
Đức Giáo
Hoàng Lêô: Tôi chưa
có giải pháp cụ thể, nhưng đã có những định hướng rõ ràng. Tài chính Tòa Thánh
gồm nhiều đơn vị khác nhau. Trong đó, một số đang hoạt động khá tốt. Gần đây,
Cơ quan Quản trị Tài sản Tông Tòa (APSA) công bố báo cáo năm 2024 với kết quả
dương trên 60 triệu euro. Vậy tại sao chúng ta lại phải kêu ca khủng hoảng?
APSA là một trong những nguồn hỗ trợ chính cho các công việc của Tòa Thánh.
Dĩ nhiên,
chúng ta có rất nhiều nhân viên, cần trả lương, có quỹ hưu trí phải quan tâm.
Nhưng đó là vấn đề toàn cầu, quốc gia nào cũng đang lo lắng về quỹ hưu trí sẽ
cạn kiệt trong 20–30 năm tới. Điều cần là lập kế hoạch ứng phó, chứ không phải
kêu khủng hoảng.
Trong
thời kỳ đại dịch, thực sự có khủng hoảng nặng nề vì nguồn thu lớn của Vatican
là Viện Bảo tàng phải đóng cửa. Nhưng những năm gần đây, tạ ơn Chúa, khách hành
hương và du khách đã trở lại Rôma, giúp xoay chuyển tình hình. Vấn đề là chúng
ta cần học cách phối hợp tích cực hơn giữa các đơn vị tài chính trong nội bộ
Tòa Thánh.
Phải
tránh những quyết định sai lầm như vụ mua bất động sản ở đường Sloane, London,
gây thiệt hại nhiều triệu euro. Dưới triều Đức Phanxicô, đã có các biện pháp
kiểm soát mới để tránh lặp lại. Kết quả bước đầu rất tích cực. Tôi không nói
khủng hoảng đã chấm dứt, nhưng tôi cũng không mất ngủ vì điều đó. Điều quan
trọng là chúng ta phải truyền đạt một thông điệp đúng đắn. Nếu cứ công bố sai
lệch, thì thay vì khuyến khích người ta hỗ trợ, lại khiến họ giữ tiền lại vì
không tin chúng ta quản lý.
Tôi không
chỉ muốn “thay đổi thông điệp cho có”, nhưng sau khi nghiên cứu kỹ trong các
hội đồng mà tôi tham gia, tôi tin rằng tình hình có thể ổn định. Dĩ nhiên, cần
tiếp tục tiến trình cải tổ mà Đức Phanxicô đã khởi sự.
Allen: Về cuộc khủng hoảng lạm dụng,
như Đức Thánh Cha từng đề cập, vẫn có cảm giác rằng Giáo hội có luật mới nhưng
chưa được thực thi đầy đủ, nạn nhân vẫn bị bỏ mặc và hầu như không có quyền
lợi. Ở cấp độ chung, Giáo hội có thể làm gì tốt hơn? Chiến lược của Đức Thánh
Cha là gì?
Đức Giáo
Hoàng Lêô: Đây thực
sự là một khủng hoảng nghiêm trọng – nghiêm trọng hơn cả tài chính. Vấn đề này
chưa được giải quyết, và Giáo hội phải tiếp tục đối diện. Các nạn nhân cần được
trân trọng, vì những vết thương do lạm dụng thường kéo dài suốt đời. Không thể
ngây thơ nghĩ rằng chỉ cần bồi thường tài chính hay loại bỏ linh mục phạm tội
là mọi vết thương sẽ biến mất.
Trước
hết, cần có một sự cảm thông sâu sắc và lòng trắc ẩn thực sự đối với nỗi đau mà
nạn nhân đã chịu đựng từ hàng giáo sĩ hay giáo dân, tu sĩ, nam nữ, giáo lý
viên... Đây là điều phải được trân trọng hết sức.
Đồng
thời, cũng phải nhìn nhận rằng người bị cáo buộc cũng có quyền lợi, và đôi khi
họ cảm thấy không được tôn trọng. Thống kê cho thấy trên 90% trường hợp tố cáo
là sự thật, nhưng vẫn có những vụ cáo buộc sai khiến đời sống linh mục bị hủy
hoại. Luật – dân sự hay giáo luật – đều tồn tại để bảo vệ quyền của mọi người.
Để có một nền công lý đáng tin cậy, tôn trọng cả nạn nhân lẫn bị cáo, cần có
thời gian. Đó cũng là lý do nhiều tiến trình kéo dài.
Giáo hội
đã ban hành những luật mới nhằm đẩy nhanh thủ tục, công nhận đau khổ và quyền
của nạn nhân, đồng thời bảo vệ quyền lợi của người bị cáo. Nhưng vẫn còn nhiều
thách đố. Ngày càng có nhiều nạn nhân lên tiếng công khai để tìm sự chữa lành –
đó là điều tích cực, nhưng Giáo hội chưa luôn tìm được cách đồng hành tốt nhất.
Chúng ta vẫn đang học hỏi, và cần sự hỗ trợ của các chuyên gia để biết cách
lắng nghe và nâng đỡ các nạn nhân.
Đức Phanxicô
đã có cái nhìn rất sáng suốt: ngài nhận ra tầm quan trọng của vấn đề, nhưng
cũng khẳng định rằng Giáo hội không thể để cho vấn đề lạm dụng trở thành trung
tâm duy nhất, làm lu mờ sứ mạng loan báo Tin Mừng. Tạ ơn Chúa, tuyệt đại đa số
linh mục, giám mục và tu sĩ chưa bao giờ lạm dụng ai. Nếu chỉ tập trung vào một
vấn đề, Giáo hội sẽ không thể thực hiện sứ mạng phục vụ toàn thế giới.
Đây là
một cân bằng rất khó: vừa phải đồng hành với nạn nhân trong nỗi đau, vừa phải
tiếp tục thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng cho toàn thể Dân Chúa. Đó là một
trong nhiều thách đố mà tôi đang tìm cách giải quyết.
ĐỨC GIÁO HOÀNG LÊÔ TRẢ
LỜI CRUX VỀ GAZA, TRUNG QUỐC VÀ HOA KỲ
Allen: Thưa Đức Thánh Cha,
tình hình tại Trung Đông hiện nay, đặc biệt ở Gaza, dường như ngày càng leo
thang thay vì hạ nhiệt. Trong hoàn cảnh đó, liệu còn có hy vọng nào không? Có
còn chỗ cho đối thoại vào lúc này không?
Đức Thánh Cha Lêô XIV: Đây là một câu hỏi
rất khó. Dù có áp lực nào đó, tôi không rõ mức độ mạnh yếu ra sao ở hậu trường,
nhưng ngay cả từ phía Hoa Kỳ – vốn là tác nhân bên ngoài quan trọng nhất có thể
gây áp lực trên Israel – thì cho dù chính phủ Mỹ, mới đây chính Tổng thống
Trump, đã đưa ra một số tuyên bố rõ ràng, nhưng vẫn chưa có phản ứng cụ thể nào
nhằm tìm ra giải pháp hữu hiệu để giảm bớt đau khổ cho người dân, những người
vô tội tại Gaza. Điều này dĩ nhiên gây quan ngại lớn.
Tình hình sẽ rất khó
khăn, bởi khi một số người, nhất là trẻ em, không chỉ thiếu thốn mà còn lâm vào
cảnh đói khát thực sự, thì việc có được lương thực thôi cũng chưa thể giải
quyết vấn đề ngay. Họ sẽ cần rất nhiều sự trợ giúp: y tế cũng như nhân đạo, mới
có thể xoay chuyển tình thế, trong khi giờ đây, bức tranh vẫn vô cùng u ám. Từ
“diệt chủng” ngày càng được nhắc đến nhiều hơn. Tòa Thánh, một cách chính thức,
chưa thể đưa ra tuyên bố nào về vấn đề này, bởi còn những định nghĩa rất kỹ
thuật về thế nào là “diệt chủng”. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều người lên
tiếng, kể cả hai tổ chức nhân quyền tại Israel cũng đã dùng đến từ đó.
Thật đau lòng khi chứng
kiến những hình ảnh trên truyền hình. Chúng ta chỉ có thể hy vọng tình thế sẽ đổi
thay. Cầu mong chúng ta không trở nên chai lì trước đau khổ. Bởi đó là phản ứng
rất tự nhiên của con người: khi chịu quá nhiều đau đớn, thần kinh tự khép lại,
con người như muốn nói: “Tôi không thể chịu thêm nữa”. Nhưng là con người, và
nhất là với tư cách Kitô hữu, chúng ta không được phép tê liệt cảm xúc, không
được phép làm ngơ. Bằng cách nào đó, chúng ta phải tiếp tục thúc đẩy và tìm
cách làm thay đổi tình hình.
Allen: Một tác nhân toàn cầu
khác được nhiều người theo dõi hiện nay chính là Trung Quốc. Đức Thánh Cha
Phanxicô và nhiều vị tiền nhiệm đã áp dụng đường hướng “Ostpolitik”. Đức Thánh
Cha đã biết mình sẽ chọn cách tiếp cận nào với Trung Quốc chưa?
Đức Thánh Cha Lêô XIV: Chưa. Trong ngắn hạn,
tôi sẽ tiếp tục chính sách mà Tòa Thánh đã đi theo trong nhiều năm qua, vốn đã
được nhiều vị tiền nhiệm thực hiện. Tôi không dám cho rằng mình khôn ngoan hay
giàu kinh nghiệm hơn các ngài. Tôi vẫn đang tiếp tục đối thoại với nhiều người
Trung Quốc, thuộc cả hai phía trong những vấn đề liên quan, để hiểu rõ hơn làm
sao Giáo Hội có thể tiếp tục sứ vụ của mình: vừa tôn trọng văn hóa và chính trị
vốn có tầm quan trọng lớn lao, vừa tôn trọng cộng đoàn Công giáo Trung Quốc –
những người đã chịu đựng áp bức và khó khăn trong việc sống đức tin tự do suốt
nhiều năm – mà không chọn phe phái nào.
Đường hướng
“Ostpolitik”, nghĩa là những chọn lựa thực tế: “Đây là điều chúng ta có thể làm
lúc này để hướng tới tương lai”, chắc chắn tôi sẽ tiếp tục cân nhắc, cùng với
những kinh nghiệm cá nhân trước đây khi tiếp xúc với người Trung Quốc – từ giới
lãnh đạo chính quyền đến các nhà lãnh đạo tôn giáo và giáo dân. Đó thực sự là
một tình huống khó khăn. Về lâu dài, tôi không dám quả quyết mình sẽ làm hay
không làm điều gì, nhưng chỉ sau hai tháng, tôi đã bắt đầu có những cuộc thảo luận
ở nhiều cấp độ về vấn đề này.
Allen: Về bình diện địa
chính trị, nhiều người bàn tán về việc Đức Thánh Cha là vị giáo hoàng đầu tiên
xuất thân từ Hoa Kỳ, và liệu điều đó có tạo khác biệt. Đức Thánh Cha nghĩ sao?
Đức Thánh Cha Lêô XIV: Trước hết, tôi hy
vọng điều này sẽ tạo khác biệt, ít nhất là với hàng giám mục tại Hoa Kỳ. Không
đi sâu vào lịch sử gần đây và những lý do mà chính tôi cũng chưa hiểu hết,
nhưng rõ ràng đã có nhiều điều được nói về hàng giám mục ở Hoa Kỳ và mối quan
hệ giữa Giáo Hội và chính trị. Việc tôi là người Mỹ, trong số những điều khác,
có nghĩa là không ai có thể nói – như từng nói về Đức Thánh Cha Phanxicô – rằng
“Ngài không hiểu Hoa Kỳ, Ngài chẳng thấy điều gì đang diễn ra”. Tôi nghĩ đó là
một điểm quan trọng.
Tôi không có ý định can
dự vào chính trị phe phái. Giáo Hội không phải là chuyện đó. Nhưng tôi không
ngại nêu lên những vấn đề mà tôi tin rằng thực sự là những vấn đề Tin Mừng, mà
hy vọng cả hai phía chính trường đều có thể lắng nghe. Một trong những cuộc trò
chuyện cuối cùng tôi có với Phó Tổng thống Hoa Kỳ – tôi chưa gặp trực tiếp Tổng
thống – là về phẩm giá con người, về tầm quan trọng của việc tôn trọng mọi
người, bất kể nơi sinh ra, và hy vọng tìm ra những chính sách, chọn lựa thể
hiện sự tôn trọng đó. Dĩ nhiên, vẫn có những điều đang diễn ra tại Hoa Kỳ khiến
tôi lo lắng. Chúng tôi tiếp tục tìm cách đáp lại, và nêu lên những câu hỏi cần
phải được đặt ra.
Allen: Đức Thánh Cha nói
rằng Ngài chưa gặp Tổng thống Donald Trump, nhưng dù ở đâu trên bản đồ chính
trị, ông vẫn là một hiện tượng mà cả thế giới tìm cách hiểu và đối diện. Với tư
cách là người Mỹ, Đức Thánh Cha có nghĩ mình dễ dàng tiếp cận ông hơn không?
Đức Thánh Cha Lêô XIV: Không hẳn. Tôi nghĩ
thích hợp hơn là hàng lãnh đạo Giáo Hội tại Hoa Kỳ phải nghiêm túc đối thoại
với ông. Tôi sẽ nói điều đó với bất kỳ chính quyền nào. Tôi đã gặp nhiều nhà
lãnh đạo thế giới, và có nhiều vấn đề quan trọng có thể nêu ra, nhưng Giáo
Hoàng không thể can dự vào từng quốc gia, để nói rằng: “Các ông phải làm điều
này, các ông nên nghĩ điều kia”.
Một việc mà Đức
Phanxicô đã làm vào cuối triều đại của ngài, theo tôi rất quan trọng, là lá thư
viết về vấn đề đối xử với người di dân. Tôi rất vui khi thấy các giám mục Mỹ đã
đón nhận, và một số người trong họ đã can đảm lên tiếng. Tôi cho rằng đó là
cách tiếp cận tốt hơn, và tôi cũng sẽ chọn cách tiếp cận qua giám mục.
Tổng thống Trump mới
đây nói rằng ông không có ý định gặp tôi, rồi lại thêm: “Nhưng em trai ông ấy
là một người tốt”. Thế cũng được thôi. Một người em của tôi từng gặp ông, và
cũng rất thẳng thắn bày tỏ quan điểm chính trị của mình. Nếu hoặc khi có những
vấn đề cụ thể cần đối thoại trực tiếp, và nếu có thể, tôi không có gì ngần
ngại. Nhưng hiện nay đã có những người khác đảm nhận vai trò ấy. Còn ông ấy thì
chọn nghe ai, không nghe ai, đó là quyết định của ông. Về phần tôi, tôi sẽ tiếp
tục nêu lên những vấn đề liên quan đến phẩm giá con người, cổ võ hòa bình –
những điều mà chính ông đôi khi cũng công khai nói mình mong muốn. Trong những
nỗ lực đó, tôi sẵn sàng ủng hộ.
Hoa Kỳ là một cường
quốc toàn cầu, điều đó chúng ta phải nhìn nhận. Đôi khi các quyết định lại được
đưa ra dựa nhiều hơn vào lợi ích kinh tế hơn là nhân phẩm hay sự nâng đỡ con
người. Nhưng chúng ta phải tiếp tục đặt vấn đề, chất vấn và tìm ra những cách tốt
nhất để thực hiện sứ mạng ấy.
ĐỨC GIÁO
HOÀNG LÊÔ TRẢ LỜI PHỎNG VẤN VỀ SỰ PHÂN HÓA TRONG THẾ GIỚI
(Trích từ
cuộc phỏng vấn của Crux với Đức Thánh Cha Lêô XIV, do ký giả Elise Ann Allen
thực hiện trong cuốn tiểu sử mới xuất bản bằng tiếng Tây Ban Nha: “León XIV:
ciudadano del mundo, misionero del siglo XXI” – “Lêô XIV: Công dân của Thế
giới, Nhà truyền giáo của Thế kỷ XXI”.)
Allen: Con muốn quay lại vấn đề trí tuệ
nhân tạo và khủng hoảng mà Đức Thánh Cha có nhắc tới sau này. Nhưng về sự phân
cực và chia rẽ, rõ ràng điều ấy đã tác động rất mạnh đến triều đại của Đức
Phanxicô: ngài đã phải đối diện với nhiều phê bình và những cách nhìn trái
ngược. Khi bước vào cùng một sứ vụ, Đức Thánh Cha có lo lắng về điều này không?
Đức Giáo
Hoàng Lêô: Trở lại
với điều con hỏi, cha thấy mình không cần phải làm cho sứ vụ trở nên phức tạp.
Bổn phận của cha là loan báo Tin Mừng, rao giảng Phúc Âm. Chính Phúc Âm giải
đáp những vấn đề ấy từ nền tảng: ý thức rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa,
Đấng Tạo Hóa, Đấng đã sai Con Một xuống trần, nhập thể giữa loài người và dạy
ta giá trị của sự sống, trong viễn tượng sự sống đời đời. Nếu đánh mất chân
trời ấy, con người sẽ mất phương hướng, lang thang vô vọng mà không biết đi
đâu.
Vì thế,
cha không coi sứ vụ chính của mình là “giải quyết mọi vấn đề của thế giới”.
Điều đó không phải. Nhưng Giáo Hội có một tiếng nói, một sứ điệp cần được tiếp
tục công bố và công bố mạnh mẽ. Những giá trị mà Giáo Hội trình bày trước các
cuộc khủng hoảng của nhân loại không xuất hiện cách ngẫu nhiên, nhưng khởi đi
từ chính Tin Mừng. Chính ở đó, ta học được cách hiểu mối tương quan giữa Thiên
Chúa và con người, cũng như giữa chúng ta với nhau. Bắt đầu từ điều căn bản:
tôn trọng nhau, tôn trọng phẩm giá con người. Phẩm giá ấy đến từ đâu? Và từ đó,
làm sao ta xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, biết đối xử với nhau nhân bản
hơn.
Có những
giai đoạn tiếng nói ấy bị coi nhẹ hay bỏ qua. Nhưng thật đáng chú ý, tại những
quốc gia từng được coi là thế tục hóa nặng nề như Pháp, hôm qua cha vừa gặp một
nhóm bạn trẻ Pháp. Năm ngoái, có đến hàng ngàn bạn trẻ tự nguyện xin lãnh bí
tích Rửa Tội. Họ tìm đến với Giáo Hội vì nhận ra đời sống mình trống rỗng,
thiếu ý nghĩa. Và họ đã khám phá lại những gì Giáo Hội trao ban. Chính từ kinh
nghiệm này, cha thấy sứ mạng của mình rất rõ ràng: đặt câu hỏi, chúng ta bắt
đầu từ đâu, đi về đâu, và làm sao sứ điệp ấy có ý nghĩa cả trong bối cảnh địa
chính trị toàn cầu.
Đáng
tiếc, ngay cả Tin Mừng hôm nay cũng bị biến thành ý thức hệ…
Đó là cội rễ của sự phân cực. Khi rơi vào ý thức hệ, ta không còn bàn tới bản
chất thật, những giá trị đích thực. Ý thức hệ chỉ muốn lợi dụng Tin Mừng thay
vì để Tin Mừng trở thành trọng tâm. Điều này có thể xảy ra ở cả hai phía, hay
nhiều phía, khi con người không chịu tìm lại sứ điệp chân chính.
Allen: Con muốn chuyển sang điều đã nói
ở lần trước, và Đức Thánh Cha cũng nhắc ngay trong diễn từ đầu tiên: “tính hiệp
hành”, một Giáo Hội hiệp hành. Đây vẫn là khái niệm nhiều người khó hiểu. Đức
Thánh Cha định nghĩa thế nào?
Đức Giáo
Hoàng Lêô: Hiệp
hành là một thái độ, một tâm thế cởi mở, sẵn sàng lắng nghe và hiểu rằng trong
Giáo Hội, mọi thành phần đều có tiếng nói, có vai trò. Qua cầu nguyện, suy tư –
như phương pháp “đối thoại trong Thần Khí” của Thượng Hội Đồng gần đây – và qua
tiến trình đối thoại, tôn trọng nhau, ta tạo ra cơ hội gặp gỡ. Đó là chiều kích
quan trọng của đời sống Giáo Hội.
Một số
người cảm thấy bị đe dọa. Có giám mục hay linh mục lo ngại: “hiệp hành sẽ làm
mất thẩm quyền của tôi”. Thực ra không phải vậy. Có lẽ cách hiểu về thẩm quyền
của họ còn lệch lạc. Hiệp hành không nhằm phá bỏ cơ cấu, nhưng mời gọi chúng ta
sống hiệp thông, cùng nhau bước đi như một cộng đoàn. Không phải chỉ tập trung
vào hệ thống phẩm trật, mà là “chúng ta”, một Giáo Hội của mọi ơn gọi: giáo sĩ,
giáo dân, giám mục, thừa sai, gia đình… Ai cũng có vai trò và đóng góp riêng để
cùng nhau lớn lên, cùng nhau bước đi.
Đây là
một thái độ mà cha tin có thể dạy nhiều điều cho thế giới hôm nay. Khi bàn về
phân cực, cha nghĩ hiệp hành chính là liều thuốc giải. Nếu chúng ta cùng lắng
nghe Tin Mừng, cùng suy gẫm và cùng nhau bước tới, lắng nghe nhau, tìm nhận ra
tiếng Chúa hôm nay, chúng ta sẽ được rất nhiều.
Cha hy
vọng tiến trình đã khởi đi từ lâu – đặc biệt ở châu Mỹ Latinh, nơi cha đã có
kinh nghiệm – sẽ tiếp tục đóng góp cho Giáo Hội hoàn vũ. Không phải để biến
Giáo Hội thành một chính quyền dân chủ, vì thực tế cho thấy dân chủ không phải
lúc nào cũng hoàn hảo. Nhưng để sống đời sống Giáo Hội đúng như bản chất: cùng
nhau, “chúng ta phải thực hiện điều này với nhau”. Đó là cơ hội lớn cho Giáo
Hội và cho sứ mạng đối thoại với thế giới. Từ Công đồng Vatican II, điều này đã
rất quan trọng, và vẫn còn nhiều việc phải làm.
Allen: Con đoán ý Đức Thánh Cha là hiệp
hành có thể chữa trị cho những vấn đề chúng ta nói từ đầu, như sự phân cực.
Điều này có bắt nguồn từ kinh nghiệm cá nhân của Đức Thánh Cha tại Chiclayo và
Trujillo không?
Đức Giáo
Hoàng Lêô: Một phần
đúng vậy. Đó cũng là phong cách cá nhân, tính cách và những ơn ban cha đã lãnh
nhận. Với cha, lãnh đạo không phải là người đi một mình, vì như thế sẽ chẳng
dẫn dắt được ai. Nhà lãnh đạo thật sự là người có khả năng quy tụ mọi người và
cùng nhau tiến bước. Trong ý nghĩa đó, hiệp hành là khí cụ, là nền tảng, là
phương thế hữu ích cho Giáo Hội, và cũng cho thế giới hôm nay.
ĐỨC GIÁO
HOÀNG LÊÔ TRAO ĐỔI VỚI ELISA ANN ALLEN CỦA CRUX VỀ CÁC VẤN ĐỀ LGBTQ+ VÀ PHỤNG
VỤ
Lưu ý của
Ban Biên Tập: Đây là
phần trích đoạn thứ sáu trong loạt hai phần phỏng vấn giữa Đức Giáo hoàng Lêô
XIV và nữ ký giả kỳ cựu Elise Ann Allen của tờ Crux, được đưa vào cuốn
tiểu sử mới của ngài với tựa đề León XIV: ciudadano del mundo, misionero del
siglo XXI (“Lêô XIV: Công dân của thế giới, Nhà truyền giáo của thế kỷ
XXI”), do Nhà xuất bản Penguin Peru ấn hành bằng tiếng Tây Ban Nha, phát hành
ngày 18 tháng 9. Các ấn bản tiếng Anh và tiếng Bồ Đào Nha sẽ ra mắt đầu năm
2026.
Allen: Hai chủ đề nóng bỏng nổi bật từ
Thượng Hội đồng Giám mục về Tính Hiệp hành, vốn gây nhiều tranh luận, là vai
trò của phụ nữ trong Giáo hội và cách Giáo hội tiếp cận với cộng đồng LGBTQ+.
Xin Đức Thánh Cha cho biết suy nghĩ của ngài về hai vấn đề này và ngài sẽ định
hướng như thế nào trong sứ vụ giáo hoàng mới của mình?
Đức Giáo
hoàng Lêô: Với tinh
thần hiệp hành. Tôi nghĩ hầu hết mọi người đều hiểu rằng vai trò của phụ nữ
trong Giáo hội cần tiếp tục được triển nở. Theo hướng đó, Thượng Hội đồng có
phản hồi tích cực. Tôi muốn tiếp nối bước chân Đức Phanxicô, trong đó có việc
bổ nhiệm phụ nữ vào một số vai trò lãnh đạo ở nhiều cấp độ khác nhau trong đời
sống Giáo hội, để nhìn nhận những hồng ân mà phụ nữ có thể đóng góp.
Vấn đề
trở nên nóng khi đặt thẳng câu hỏi về chức thánh. Thượng Hội đồng có đề cập cụ
thể đến khả năng truyền chức cho nữ phó tế, điều vốn đã được nghiên cứu nhiều
năm nay. Nhiều vị giáo hoàng đã lập các ủy ban khác nhau để xem xét. Tôi nghĩ
đây vẫn sẽ là một vấn đề còn tiếp tục. Hiện tại, tôi chưa có ý định thay đổi
giáo huấn của Giáo hội về điểm này, vì còn nhiều câu hỏi căn bản cần được đặt
ra.
Chẳng
hạn, đầu năm nay có Năm Thánh dành cho các phó tế vĩnh viễn – tất cả đều là nam
– nhưng vợ họ cũng có mặt. Tôi đã có buổi giáo lý với một nhóm lớn các phó tế
nói tiếng Anh. Chính tại đây nảy ra câu hỏi: nếu ngay cả chức phó tế vĩnh viễn
cũng chưa thực sự được hiểu, được phát triển và cổ võ đúng mức trong Giáo hội,
thì tại sao lại bàn đến việc truyền chức cho phụ nữ? Vấn đề ấy vẫn còn nhiều
khía cạnh phải đào sâu.
Một câu
hỏi khác: Liệu chúng ta có đang muốn “giáo sĩ hóa” phụ nữ hay không, và điều đó
thực sự giải quyết được gì? Tôi nghĩ còn nhiều khía cạnh khác cần phải làm rõ
trước khi đặt ra những câu hỏi lớn hơn.
Hiện tại,
tôi sẵn sàng tiếp tục lắng nghe. Bộ Giáo lý Đức Tin vẫn đang nghiên cứu bối
cảnh thần học và lịch sử của vấn đề này, và chúng ta sẽ cùng bước đi với tiến
trình ấy.
Allen: Xin hỏi thêm về LGBTQ+. Đây vốn
là vấn đề dễ trở thành ý thức hệ. Tuy nhiên, nhiều người cảm nhận rằng dưới
thời Đức Phanxicô, cách tiếp cận đã khác, với giọng điệu khác. Đức Thánh Cha sẽ
tiếp cận thế nào?
Đức Giáo
hoàng Lêô: Hiện tôi
chưa có một kế hoạch cụ thể. Tôi đã nhiều lần được hỏi về chủ đề này trong
những tháng đầu sứ vụ. Tôi nhớ lời một hồng y từ phương Đông từng nói với tôi
trước khi tôi làm giáo hoàng: “Thế giới phương Tây quá ám ảnh về tình dục.” Với
nhiều nơi khác trên thế giới, căn tính giới tính không phải là mối quan tâm
hàng đầu trong việc đối xử với nhau. Tôi vẫn ghi nhớ điều đó, vì như ta đã thấy
trong Thượng Hội đồng, bất kỳ vấn đề nào liên quan đến LGBTQ cũng dễ gây chia
rẽ sâu sắc.
Do đó,
tôi cố gắng không tiếp tục khoét sâu sự phân cực trong Giáo hội. Điều tôi muốn
nói là điều Đức Phanxicô từng lặp lại: todos, todos, todos – “mọi người,
mọi người, mọi người.” Tôi không đón nhận một ai đó vì họ thuộc hay không thuộc
một căn tính nào, mà vì họ là con cái Thiên Chúa. Mọi người đều được mời gọi,
chúng ta cùng tôn trọng nhau.
Dĩ nhiên
sẽ có những câu hỏi cụ thể. Có người muốn thay đổi giáo huấn của Giáo hội, muốn
thay đổi thái độ. Theo tôi, trước hết phải thay đổi thái độ, rồi mới có thể bàn
đến giáo huấn. Tôi nghĩ khó có khả năng – ít nhất trong tương lai gần – Giáo
hội sẽ thay đổi giáo huấn về hôn nhân và tính dục.
Tôi đã
nhắc lại, như Đức Phanxicô, rằng hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và
một người nữ trong giao ước bí tích. Nhưng tôi biết, ngay khi nói điều đó, có
người sẽ phản đối. Ở Bắc Âu, họ thậm chí đã soạn nghi thức chúc lành cho “những
người yêu nhau,” điều đi ngược lại văn kiện Fiducia Supplicans mà Đức
Phanxicô phê chuẩn, vốn xác nhận rằng mọi người đều có thể được chúc lành, nhưng
không biến nó thành một nghi thức phụng vụ, vì điều đó không phù hợp với giáo
huấn của Giáo hội.
Những
người ấy không phải là xấu, nhưng cần học cách đón nhận và tôn trọng người
khác, ngay cả khi họ có lựa chọn khác biệt. Tôi hiểu rằng đây là một vấn đề
nóng, và sẽ có người đòi Giáo hội công nhận hôn nhân đồng tính hay căn tính
chuyển giới. Nhưng Giáo hội sẽ vẫn đón nhận mọi cá nhân như những người con của
Chúa.
Giáo huấn
về hôn nhân và gia đình vẫn giữ nguyên. Gia đình là cha, mẹ và con cái. Trong
xã hội hôm nay, gia đình nhiều nơi đã bị tổn thương, nhưng cần được nâng đỡ và
củng cố, vì chính nơi gia đình ta học yêu thương, tha thứ, sống hiệp thông. Nếu
nền tảng ấy bị lung lay, thì việc học sống tình hiệp thông ở chỗ khác sẽ khó
khăn biết bao.
Cá nhân
tôi cảm nhận sâu sắc điều này. Tôi được là chính tôi hôm nay vì có cha mẹ sống
đời hôn nhân hạnh phúc trên 40 năm. Anh em chúng tôi vẫn gắn bó, dù khác biệt
quan điểm chính trị. Gia đình đã giúp hình thành con người tôi.
Allen: Ngoài những nhóm nghiên cứu đã
có, Đức Thánh Cha còn lập thêm hai nhóm mới: một về phụng vụ, một về các hội
đồng giám mục và đại hội giáo hội. Vì sao?
Đức Giáo
hoàng Lêô: Thực ra,
đây là sáng kiến đã được Đức Phanxicô phê chuẩn vào cuối triều đại ngài. Cả hai
đều xuất phát từ các vấn đề được Thượng Hội đồng bàn thảo.
Đối với
các hội đồng giám mục, vốn được hình thành mạnh mẽ từ sau Công đồng Vatican II,
ngày nay giá trị mục vụ của chúng đã rõ rệt: giám mục các vùng có thể cùng nhau
phân định và đưa ra định hướng chung phù hợp với văn hóa và hoàn cảnh địa
phương, thay vì mỗi vị đi một hướng.
Tuy
nhiên, từ lâu đã có tranh luận thần học: hội đồng giám mục có thể có thẩm quyền
đến mức nào, khi thẩm quyền tông truyền vốn thuộc về từng giám mục riêng lẻ? Có
nơi lo ngại rằng hội đồng có thể đưa ra những quyết định chạm đến giáo lý, như
về hôn nhân, ly dị, hay đa thê – những vấn đề nhạy cảm. Điều này cần được đào
sâu hơn.
Về nhóm
nghiên cứu phụng vụ, trọng tâm là việc hội nhập văn hóa. Làm thế nào để phụng
vụ trở nên sống động và ý nghĩa hơn trong các nền văn hóa khác nhau. Dĩ nhiên,
còn một vấn đề nóng khác là Thánh lễ Tridentin và Thánh lễ hậu Công đồng
Vatican II. Tiếc rằng phụng vụ đã trở thành công cụ chính trị trong nhiều cuộc
tranh luận.
Có người
tìm đến Thánh lễ Tridentin vì cảm thấy phụng vụ sau Công đồng chưa giúp họ chạm
đến mầu nhiệm đức tin như mong muốn. Vấn đề ở đây là sự phân cực, thay vì cùng
nhau tìm cách cử hành phụng vụ Công đồng một cách xứng hợp. Tôi chưa có cơ hội
gặp trực tiếp nhóm cổ võ Thánh lễ Tridentin, nhưng sẽ sớm có dịp. Điều cần
thiết là đối thoại hiệp hành, thay vì đóng kín và không lắng nghe nhau.
* Nguồn: La Crux / CĐHHAC tổng hợp 6 bài trích từ tờ báo này với trợ giúp của Gemini.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét