Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2025

PHỎNG VẤN ĐỨC GIÁO HOÀNG LÊÔ XIV

 

ĐỨC GIÁO HOÀNG LÊÔ XVI NÓI VỚI PHÓNG VIÊN ELISE ANN ALLEN CỦA CRUX VỀ MỐI TƯƠNG QUAN VỚI CÁC GIÁO HỘI KHÁC

Ghi chú của Biên tập viên: Đây là những đoạn trích đầu tiên trong cuộc phỏng vấn gồm hai phần giữa Đức Giáo hoàng Leo XIV và Phóng viên cao cấp của Crux, Elise Ann Allen, được đưa vào tiểu sử mới của ngài mang tựa đề León XIV: ciudadano del mundo, misionero del siglo XXI (tạm dịch: Leo XIV: Công dân của thế giới, Nhà truyền giáo của thế kỷ XXI). Cuốn sách được xuất bản bằng tiếng Tây Ban Nha bởi Penguin Peru và sẽ có mặt tại các hiệu sách cũng như trực tuyến từ ngày 18 tháng 9. Các ấn bản tiếng Anh và tiếng Bồ Đào Nha sẽ được phát hành vào đầu năm 2026.


Allen: Một thách đố khác, vốn đã là ưu tiên của các vị tiền nhiệm gần đây của Đức Thánh Cha, và tôi nghĩ đặc biệt Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã thúc đẩy mạnh mẽ, đó là vấn đề đại kết. Đức Thánh Cha sẽ tiếp cận thế nào? Đây có phải cũng là một ưu tiên trong triều đại giáo hoàng của ngài không?

Đức Giáo Hoàng Lêô: Chắc chắn rồi. Tôi cho rằng từ Công đồng Vaticanô II, Giáo Hội đã ý thức rõ ràng cần phải tiến bước để hướng tới sự hiệp nhất đích thực của mọi Kitô hữu. Một trong những vết thương sâu sắc nhất trong đời sống Hội Thánh hôm nay chính là sự chia rẽ giữa các Kitô hữu. Tôi thường nói đến việc xây dựng những nhịp cầu; đôi khi, paradox thay, việc xây dựng nhịp cầu với những người không phải Kitô hữu lại dễ dàng hơn là với chính những anh chị em Kitô hữu lân cận. Có nhiều yếu tố chia cách chúng ta, ngăn cản chúng ta cùng bước đi trong hiệp thông trọn vẹn về niềm tin.

Năm nay, tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh một điểm: kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nicêa. Đức Phanxicô đã dự định hành hương Nicêa, nhưng rồi ngài lâm bệnh, ngày gặp gỡ bị hoãn hai lần, và chúng tôi phải sắp xếp lại. Tôi rất quan tâm và hy vọng có thể đến Nicêa vào cuối tháng 11. Ban đầu, người ta nghĩ đó sẽ là cuộc gặp giữa Thượng phụ Constantinople Bácthôlômêô và tôi. Tôi đã xin biến sự kiện này thành một cuộc gặp gỡ đại kết, mời các nhà lãnh đạo Kitô giáo từ nhiều hệ phái khác nhau đến Nicêa, bởi lẽ Nicêa gắn liền với Kinh Tin Kính – một khoảnh khắc lịch sử trước khi các cuộc chia rẽ xảy ra, nơi chúng ta vẫn có thể cùng nhau tuyên xưng một đức tin chung.

Về mặt biểu tượng, đó chính là câu trả lời của tôi: vâng, đây là một ưu tiên. Tôi đã gặp gỡ nhiều vị thượng phụ, kể cả đại diện của Thượng phụ Kirill từ Moskva. Sau Giáo Hội Công giáo, Chính Thống Nga là cộng đồng Kitô hữu đông tín hữu nhất. Nhưng vì chiến tranh và những tuyên bố căng thẳng, khoảng cách giữa chúng ta hiện còn xa hơn. Tôi tin một phần sứ vụ của mình là xây dựng nhịp cầu tại đó nữa. Hiển nhiên, chúng ta đều biết rõ những căng thẳng giữa Thượng phụ Moskva và Thượng phụ Constantinople, cũng như những chọn lựa nội bộ của Chính Thống giáo. Nếu Giám mục Rôma có thể góp phần nối kết, quy tụ, thì dù nhiều thách đố, đó vẫn là một việc phục vụ lớn lao, bởi rốt cuộc, chúng ta đều tin vào Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta.

Trong lịch sử, đã có nhiều biến cố khiến chia rẽ thêm sâu: ai tin điều này, ai tin điều kia, vai trò của Giám mục Rôma trong lòng Hội Thánh phổ quát ra sao... Nhưng chúng ta phải tiếp tục dấn thân. Một vấn đề cụ thể là tìm ra ngày mừng lễ Phục Sinh chung. Đây vẫn còn trong chương trình nghị sự. Chúng tôi đã có vài bước khởi đầu, chưa thể nói là có tiến triển, nhưng ít ra đang cùng xem xét những khả thể khác nhau. Vấn đề này rất phức tạp, từ sự khác biệt giữa lịch Gregôriô và lịch Juliên, đến câu hỏi ai sẽ là người đi bước đầu. Chúng tôi đang nghiên cứu và làm việc. Đây là một mục tiêu, một vấn đề quan trọng.


Allen: Còn về đối thoại liên tôn? Đức Phanxicô đã xem việc đối thoại với Hồi giáo là một ưu tiên lớn. Có người nói rằng cộng đồng Do Thái cảm thấy bị bỏ quên, nhất là trong bối cảnh chiến tranh ở Gaza. Đức Thánh Cha nghĩ đâu là ưu tiên lớn nhất của Tòa Thánh hiện nay trong lãnh vực này?

Đức Giáo Hoàng Lêô: Có lẽ tôi hơi táo bạo, nhưng tôi dám nói rằng chỉ trong vài tháng đầu, mối tương quan với cộng đồng Do Thái đã có phần cải thiện. Điều quan trọng là phải phân biệt rõ giữa những gì chính phủ Israel làm và cộng đồng Do Thái như một thực thể tôn giáo – chính họ cũng nhấn mạnh điểm này. Nhờ vậy, tôi thấy trong vài cuộc gặp gỡ, đã có bước tiến gần hơn. Cội rễ Kitô giáo chúng ta nằm trong Do Thái giáo, và ta không thể nhắm mắt trước sự thật đó. Còn rất nhiều việc phải làm.

Với Hồi giáo, tôi cũng đã có vài cuộc gặp. Nhưng Hồi giáo cũng không phải là một thực thể duy nhất: gặp nhóm này thì lại có nhóm khác, không dễ dàng. Đức Phanxicô đã đạt những bước tiến quan trọng trong việc vượt qua các rào cản vốn ăn sâu trong lịch sử. Vì lợi ích của hòa bình thế giới, chúng ta không có con đường nào khác. Phải tìm mọi cách thúc đẩy cơ hội đối thoại, tôn trọng lẫn nhau và hiểu biết nhau. Dĩ nhiên, đây cũng sẽ là một phần quan trọng trong chương trình của tôi.

Tôi cũng đã có buổi gặp gỡ tốt đẹp với một nhóm Phật tử đến Rôma. Điều đó thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau, ý thức rằng mỗi cộng đồng có niềm tin riêng. Tôi xác tín mạnh mẽ vào Đức Giêsu Kitô – đó là ưu tiên vì tôi là Giám mục Rôma, là Đấng Kế Vị Thánh Phêrô. Sứ mạng của Đức Giáo Hoàng là giúp Kitô hữu, đặc biệt người Công giáo, hiểu rõ chúng ta là ai. Đó là một sứ mạng tuyệt đẹp.

Khi sứ mạng ấy bị bóp méo bởi ý thức hệ, bị hiểu sai, mọi sự trở nên phức tạp. Nhưng tôi không ngần ngại tuyên xưng niềm tin: Đức Kitô đã chết trên thập giá và đã phục sinh, và chúng ta cùng được mời gọi loan báo Tin Mừng ấy. Khẳng định điều đó không có nghĩa là xúc phạm hay phát động chiến dịch chống lại tôn giáo khác – lịch sử đã cho chúng ta thấy rõ, đó không bao giờ là con đường đúng.


Allen: Trở lại đề tài trí tuệ nhân tạo. Đức Thánh Cha từng nói đây là một khủng hoảng đang đến. Hội Thánh có vai trò gì trong đó?

Đức Giáo Hoàng Lêô: Mỗi lần tôi vừa phát biểu, hôm sau đã thấy trí tuệ nhân tạo lại tiến thêm bước mới. Sự phát triển quá nhanh khiến người ta lo lắng. Nhưng điều quan trọng: nếu chúng ta đánh mất giá trị con người, và coi thế giới số là tất cả, để mặc cho những người giàu đầu tư khổng lồ vào trí tuệ nhân tạo mà không quan tâm đến phẩm giá con người, thì Hội Thánh phải lên tiếng. Ý nghĩa đời sống không nằm ở máy móc, mà nằm ở con người, nơi sự gặp gỡ, tương quan, và trong đó ta khám phá được sự hiện diện của Thiên Chúa.

Khó có thể tìm thấy Thiên Chúa trong AI. Nhưng trong các mối tương quan nhân sinh, ta có thể nhận ra dấu chỉ sự hiện diện của Ngài. Khi tôi nói về tôn trọng nhau, gia đình, công bằng, sống và làm việc trong hòa bình, tất cả bắt nguồn từ ý thức về hồng ân cao cả Thiên Chúa ban cho nhân loại. Nếu Hội Thánh không lên tiếng, thế giới kỹ thuật số sẽ tự đi theo lối riêng, biến con người thành công cụ hay bị bỏ rơi.

Một khía cạnh khác là công việc và nhân phẩm. Lao động giúp con người thể hiện phẩm giá, nuôi sống gia đình, sống tự trọng. Những giá trị này đang bị đe dọa, nên Hội Thánh cần lên tiếng. Đức Phanxicô đã từng, lần đầu tiên trong lịch sử, được mời dự G7 tại Bari để bàn về vấn đề này. Hội Thánh không chống khoa học kỹ thuật, nhưng nếu đánh mất sự kết hợp giữa đức tin và lý trí, khoa học sẽ trở thành một vỏ lạnh lẽo, gây hại cho nhân loại, và con tim con người sẽ bị đánh mất giữa cơn lốc phát triển công nghệ.


Allen: Một hệ lụy khác của AI là nguy cơ “giả tạo sâu” (deepfake). Sự thật sẽ được bảo vệ thế nào?

Đức Giáo Hoàng Lêô: Đúng là một câu hỏi hay. Tôi không có câu trả lời hoàn hảo ngoài việc tiếp tục khẳng định: có sự thật, sự thật đích thực. Tôi không thể chấp nhận quan niệm “sự kiện thay thế”. Sự kiện là sự kiện. Đã có người hỏi thăm tôi vì “thấy tôi ngã cầu thang” trong một video lan truyền – trong khi đó chỉ là hình ảnh giả tạo rất tinh vi. Người ta còn xin phép tạo ra một “giáo hoàng ảo” để mọi người có thể trò chuyện trực tuyến. Tôi đã từ chối: không ai nên được thay thế bằng một hình nộm kỹ thuật số, nhất là vị Giáo Hoàng.

Tôi không chống AI. Trong y khoa và nhiều lãnh vực, AI mang lại lợi ích to lớn. Nhưng nguy cơ là ta sẽ rơi vào thế giới giả tạo, rồi không còn phân biệt đâu là sự thật. Ngay hôm qua, tôi đã nói chuyện với các “influencers” tại Năm Thánh: chúng ta phải cùng nhau nỗ lực để loan truyền sự thật, sự chân thành, chứ không gieo rắc thêm tin giả. Vấn đề là: vì sao có nhiều người sẵn sàng tin và tiêu thụ tin giả? Ở đó có một sự khao khát sai lạc. Và điều ấy rất tàn phá.


Allen: Đức Thánh Cha là vị giáo hoàng thứ hai trong lịch sử được bầu vào Năm Thánh; trước đó là Đức Innocentê XII năm 1700. Không chỉ là một Năm Thánh thường, mà là Năm Thánh Hy Vọng. Điều này có ý nghĩa gì với ngài?

Đức Giáo Hoàng Lêô: Mùa Chay và Phục Sinh vừa qua đã cho chúng ta chứng kiến khoảnh khắc cảm động: những ngày cuối của Đức Phanxicô – ngài đau nặng, rồi ban phép lành Urbi et Orbi lần cuối từ ban công, đi vòng quanh Quảng trường Thánh Phêrô, và qua đời ngay hôm sau. Đó là một chứng tá mạnh mẽ về mầu nhiệm Vượt Qua: sự sống, cái chết và sự sống mới.

Năm Thánh là thời khắc cử hành đức tin cách mãnh liệt, như một cuộc hành hương tiến về Rôma, bước qua Cửa Thánh, biểu tượng của lời mời gọi Thiên Chúa. Việc tôi được các Hồng y bầu làm Đấng Kế Vị Thánh Phêrô cũng chính là một hành trình vượt qua: chết đi cho quá khứ, sống một sứ vụ mới hoàn toàn, 24 giờ mỗi ngày, với trách nhiệm và công khai trước toàn thế giới. Không dễ dàng chút nào. Nhưng Năm Thánh Hy Vọng luôn nhắc tôi về ơn gọi hoán cải liên lỉ và loan báo Tin Mừng cho mọi người.

Hai tháng đầu triều đại của tôi, tôi đã chứng kiến nhiều xung đột, phản chiếu tình hình thế giới hôm nay. Nhưng trong tất cả, tôi vẫn cảm nhận sự hiện diện của Chúa, ngủ yên trong bình an, với Thánh Thần nâng đỡ. Tôi biết còn nhiều thử thách phía trước. Nhưng Năm Thánh Hy Vọng và những phản hồi từ khắp nơi gửi về đã cho thấy: Chúa Thánh Thần đang hoạt động, mang đến cho nhiều người niềm hy vọng mới và thôi thúc họ muốn góp phần vào đó.

Đó là một ân phúc lớn lao cho cá nhân tôi, và tôi chỉ có thể nói: không phải tôi, mà chính Chúa đang thực hiện mọi sự. Tất cả trong tay Ngài. Và giữa những hứng khởi lẫn thách đố, tôi luôn xác tín rằng Giáo Hội hôm nay vẫn còn rất nhiều điều quý giá để trao ban cho thế giới. 


ĐỨC GIÁO HOÀNG LÊÔ TRAO ĐỔI VỀ GIÁO TRIỀU VÀ TÀI CHÍNH VATICAN

Allen: Xin chuyển sang một hướng khác. Việc điều hành và canh tân Giáo triều Rôma cũng là trách nhiệm của Đức Thánh Cha. Đức Phanxicô đã thực hiện nhiều cải tổ, đã ban hành Predicate Evangelium, nhưng vẫn còn những điều chưa hoàn tất. Đức Thánh Cha sẽ tiếp cận vấn đề cải tổ thế nào? Ngài sẽ tiếp tục điều gì, và có thể làm khác điều gì?

Đức Giáo Hoàng Lêô: Tôi nghĩ rằng nguồn cảm hứng căn bản của Predicate Evangelium vẫn còn giá trị và rất quan trọng, vì văn kiện này trình bày một cách hiểu mới về Tòa Thánh và Giáo triều Rôma: đó là cơ quan phục vụ cả sứ vụ của Đức Giáo Hoàng lẫn các Giám mục địa phương. Phải có sự sẵn sàng trong cả hai chiều hướng. Nhiều Giám mục đã chia sẻ với tôi, ngay từ khi tôi còn ở Bộ Giám mục, rằng mỗi lần được gọi về Rôma, các ngài đều sợ hãi: “Tôi bị gọi về Rôma vì chuyện gì? Có vấn đề gì chăng?” Thay vì hiểu rằng Tòa Thánh hiện diện để nâng đỡ và phục vụ các ngài.

Bắt đầu từ sự hiểu biết cơ bản ấy, và với xác tín rằng chúng ta hiện hữu để thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng – điều chính tựa đề Predicate Evangelium đã nói lên – thì rõ ràng đã có nhiều công sức để tổ chức lại cơ cấu Tòa Thánh nhằm phục vụ tốt hơn. Như bất kỳ tổ chức nhân loại nào, luôn có những điểm tích cực và những điều cần cải thiện. Một số quyết định trong Predicate Evangelium có thể cần được điều chỉnh, nhưng điều quan trọng là phải không ngừng xét lại xem chúng ta đang phục vụ thế nào và có thể cải thiện ở đâu.

Một vấn đề cụ thể mà tôi hy vọng sẽ bắt đầu thực hiện trong tương lai gần là tiếp tục phá bỏ lối làm việc cô lập giữa các Bộ. Nhiều vấn đề trong Giáo hội không thuộc riêng một Bộ nào, nhưng lại thiếu sự đối thoại và cơ chế trao đổi giữa các Bộ, điều này gây hạn chế và tổn hại cho việc quản trị. Có người gọi đó là “tư duy khép kín trong silo”: “Bộ của tôi chỉ lo việc của tôi, không cần trao đổi với ai khác”. Trong khi thực tế có rất nhiều vấn đề liên quan đến hai, ba hay bốn Bộ cùng lúc. Chúng ta phải tìm cách đưa mọi người lại với nhau để trao đổi.

Predicate Evangelium đã đặt nền tảng cho việc này và một phần đã bắt đầu. Tôi nhớ trong hai năm làm việc, chúng tôi từng mời các vị Tổng trưởng của một vài Bộ đến họp chung để bàn thảo. Nhưng rồi tôi lại nghe có người nói: “Trong 20 năm ở đây tôi chưa từng họp với Bộ nào khác.” Tôi thật sự ngạc nhiên. Những thay đổi đã khởi sự, nhưng tôi muốn tìm cách chính thức hóa cơ chế giúp việc này diễn ra dễ dàng và thường xuyên hơn. Nghĩa là phải tập hợp mọi người lại, để các Tổng trưởng và Thư ký có thể trực tiếp trao đổi với nhau.

Allen: Về tình hình tài chính của Tòa Thánh, Đức Thánh Cha từng nói không đến nỗi tệ như người ta thường nghĩ. Xin Ngài giải thích rõ hơn. Thực trạng tài chính hiện nay thế nào, và Đức Thánh Cha sẽ quản lý ra sao?

Đức Giáo Hoàng Lêô: Tôi chưa có giải pháp cụ thể, nhưng đã có những định hướng rõ ràng. Tài chính Tòa Thánh gồm nhiều đơn vị khác nhau. Trong đó, một số đang hoạt động khá tốt. Gần đây, Cơ quan Quản trị Tài sản Tông Tòa (APSA) công bố báo cáo năm 2024 với kết quả dương trên 60 triệu euro. Vậy tại sao chúng ta lại phải kêu ca khủng hoảng? APSA là một trong những nguồn hỗ trợ chính cho các công việc của Tòa Thánh.

Dĩ nhiên, chúng ta có rất nhiều nhân viên, cần trả lương, có quỹ hưu trí phải quan tâm. Nhưng đó là vấn đề toàn cầu, quốc gia nào cũng đang lo lắng về quỹ hưu trí sẽ cạn kiệt trong 20–30 năm tới. Điều cần là lập kế hoạch ứng phó, chứ không phải kêu khủng hoảng.

Trong thời kỳ đại dịch, thực sự có khủng hoảng nặng nề vì nguồn thu lớn của Vatican là Viện Bảo tàng phải đóng cửa. Nhưng những năm gần đây, tạ ơn Chúa, khách hành hương và du khách đã trở lại Rôma, giúp xoay chuyển tình hình. Vấn đề là chúng ta cần học cách phối hợp tích cực hơn giữa các đơn vị tài chính trong nội bộ Tòa Thánh.

Phải tránh những quyết định sai lầm như vụ mua bất động sản ở đường Sloane, London, gây thiệt hại nhiều triệu euro. Dưới triều Đức Phanxicô, đã có các biện pháp kiểm soát mới để tránh lặp lại. Kết quả bước đầu rất tích cực. Tôi không nói khủng hoảng đã chấm dứt, nhưng tôi cũng không mất ngủ vì điều đó. Điều quan trọng là chúng ta phải truyền đạt một thông điệp đúng đắn. Nếu cứ công bố sai lệch, thì thay vì khuyến khích người ta hỗ trợ, lại khiến họ giữ tiền lại vì không tin chúng ta quản lý.

Tôi không chỉ muốn “thay đổi thông điệp cho có”, nhưng sau khi nghiên cứu kỹ trong các hội đồng mà tôi tham gia, tôi tin rằng tình hình có thể ổn định. Dĩ nhiên, cần tiếp tục tiến trình cải tổ mà Đức Phanxicô đã khởi sự.

Allen: Về cuộc khủng hoảng lạm dụng, như Đức Thánh Cha từng đề cập, vẫn có cảm giác rằng Giáo hội có luật mới nhưng chưa được thực thi đầy đủ, nạn nhân vẫn bị bỏ mặc và hầu như không có quyền lợi. Ở cấp độ chung, Giáo hội có thể làm gì tốt hơn? Chiến lược của Đức Thánh Cha là gì?

Đức Giáo Hoàng Lêô: Đây thực sự là một khủng hoảng nghiêm trọng – nghiêm trọng hơn cả tài chính. Vấn đề này chưa được giải quyết, và Giáo hội phải tiếp tục đối diện. Các nạn nhân cần được trân trọng, vì những vết thương do lạm dụng thường kéo dài suốt đời. Không thể ngây thơ nghĩ rằng chỉ cần bồi thường tài chính hay loại bỏ linh mục phạm tội là mọi vết thương sẽ biến mất.

Trước hết, cần có một sự cảm thông sâu sắc và lòng trắc ẩn thực sự đối với nỗi đau mà nạn nhân đã chịu đựng từ hàng giáo sĩ hay giáo dân, tu sĩ, nam nữ, giáo lý viên... Đây là điều phải được trân trọng hết sức.

Đồng thời, cũng phải nhìn nhận rằng người bị cáo buộc cũng có quyền lợi, và đôi khi họ cảm thấy không được tôn trọng. Thống kê cho thấy trên 90% trường hợp tố cáo là sự thật, nhưng vẫn có những vụ cáo buộc sai khiến đời sống linh mục bị hủy hoại. Luật – dân sự hay giáo luật – đều tồn tại để bảo vệ quyền của mọi người. Để có một nền công lý đáng tin cậy, tôn trọng cả nạn nhân lẫn bị cáo, cần có thời gian. Đó cũng là lý do nhiều tiến trình kéo dài.

Giáo hội đã ban hành những luật mới nhằm đẩy nhanh thủ tục, công nhận đau khổ và quyền của nạn nhân, đồng thời bảo vệ quyền lợi của người bị cáo. Nhưng vẫn còn nhiều thách đố. Ngày càng có nhiều nạn nhân lên tiếng công khai để tìm sự chữa lành – đó là điều tích cực, nhưng Giáo hội chưa luôn tìm được cách đồng hành tốt nhất. Chúng ta vẫn đang học hỏi, và cần sự hỗ trợ của các chuyên gia để biết cách lắng nghe và nâng đỡ các nạn nhân.

Đức Phanxicô đã có cái nhìn rất sáng suốt: ngài nhận ra tầm quan trọng của vấn đề, nhưng cũng khẳng định rằng Giáo hội không thể để cho vấn đề lạm dụng trở thành trung tâm duy nhất, làm lu mờ sứ mạng loan báo Tin Mừng. Tạ ơn Chúa, tuyệt đại đa số linh mục, giám mục và tu sĩ chưa bao giờ lạm dụng ai. Nếu chỉ tập trung vào một vấn đề, Giáo hội sẽ không thể thực hiện sứ mạng phục vụ toàn thế giới.

Đây là một cân bằng rất khó: vừa phải đồng hành với nạn nhân trong nỗi đau, vừa phải tiếp tục thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng cho toàn thể Dân Chúa. Đó là một trong nhiều thách đố mà tôi đang tìm cách giải quyết.

ĐỨC GIÁO HOÀNG LÊÔ TRẢ LỜI CRUX VỀ GAZA, TRUNG QUỐC VÀ HOA KỲ


Allen: Thưa Đức Thánh Cha, tình hình tại Trung Đông hiện nay, đặc biệt ở Gaza, dường như ngày càng leo thang thay vì hạ nhiệt. Trong hoàn cảnh đó, liệu còn có hy vọng nào không? Có còn chỗ cho đối thoại vào lúc này không?


Đức Thánh Cha Lêô XIV: Đây là một câu hỏi rất khó. Dù có áp lực nào đó, tôi không rõ mức độ mạnh yếu ra sao ở hậu trường, nhưng ngay cả từ phía Hoa Kỳ – vốn là tác nhân bên ngoài quan trọng nhất có thể gây áp lực trên Israel – thì cho dù chính phủ Mỹ, mới đây chính Tổng thống Trump, đã đưa ra một số tuyên bố rõ ràng, nhưng vẫn chưa có phản ứng cụ thể nào nhằm tìm ra giải pháp hữu hiệu để giảm bớt đau khổ cho người dân, những người vô tội tại Gaza. Điều này dĩ nhiên gây quan ngại lớn.


Tình hình sẽ rất khó khăn, bởi khi một số người, nhất là trẻ em, không chỉ thiếu thốn mà còn lâm vào cảnh đói khát thực sự, thì việc có được lương thực thôi cũng chưa thể giải quyết vấn đề ngay. Họ sẽ cần rất nhiều sự trợ giúp: y tế cũng như nhân đạo, mới có thể xoay chuyển tình thế, trong khi giờ đây, bức tranh vẫn vô cùng u ám. Từ “diệt chủng” ngày càng được nhắc đến nhiều hơn. Tòa Thánh, một cách chính thức, chưa thể đưa ra tuyên bố nào về vấn đề này, bởi còn những định nghĩa rất kỹ thuật về thế nào là “diệt chủng”. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều người lên tiếng, kể cả hai tổ chức nhân quyền tại Israel cũng đã dùng đến từ đó.


Thật đau lòng khi chứng kiến những hình ảnh trên truyền hình. Chúng ta chỉ có thể hy vọng tình thế sẽ đổi thay. Cầu mong chúng ta không trở nên chai lì trước đau khổ. Bởi đó là phản ứng rất tự nhiên của con người: khi chịu quá nhiều đau đớn, thần kinh tự khép lại, con người như muốn nói: “Tôi không thể chịu thêm nữa”. Nhưng là con người, và nhất là với tư cách Kitô hữu, chúng ta không được phép tê liệt cảm xúc, không được phép làm ngơ. Bằng cách nào đó, chúng ta phải tiếp tục thúc đẩy và tìm cách làm thay đổi tình hình.


Allen: Một tác nhân toàn cầu khác được nhiều người theo dõi hiện nay chính là Trung Quốc. Đức Thánh Cha Phanxicô và nhiều vị tiền nhiệm đã áp dụng đường hướng “Ostpolitik”. Đức Thánh Cha đã biết mình sẽ chọn cách tiếp cận nào với Trung Quốc chưa?


Đức Thánh Cha Lêô XIV: Chưa. Trong ngắn hạn, tôi sẽ tiếp tục chính sách mà Tòa Thánh đã đi theo trong nhiều năm qua, vốn đã được nhiều vị tiền nhiệm thực hiện. Tôi không dám cho rằng mình khôn ngoan hay giàu kinh nghiệm hơn các ngài. Tôi vẫn đang tiếp tục đối thoại với nhiều người Trung Quốc, thuộc cả hai phía trong những vấn đề liên quan, để hiểu rõ hơn làm sao Giáo Hội có thể tiếp tục sứ vụ của mình: vừa tôn trọng văn hóa và chính trị vốn có tầm quan trọng lớn lao, vừa tôn trọng cộng đoàn Công giáo Trung Quốc – những người đã chịu đựng áp bức và khó khăn trong việc sống đức tin tự do suốt nhiều năm – mà không chọn phe phái nào.


Đường hướng “Ostpolitik”, nghĩa là những chọn lựa thực tế: “Đây là điều chúng ta có thể làm lúc này để hướng tới tương lai”, chắc chắn tôi sẽ tiếp tục cân nhắc, cùng với những kinh nghiệm cá nhân trước đây khi tiếp xúc với người Trung Quốc – từ giới lãnh đạo chính quyền đến các nhà lãnh đạo tôn giáo và giáo dân. Đó thực sự là một tình huống khó khăn. Về lâu dài, tôi không dám quả quyết mình sẽ làm hay không làm điều gì, nhưng chỉ sau hai tháng, tôi đã bắt đầu có những cuộc thảo luận ở nhiều cấp độ về vấn đề này.


Allen: Về bình diện địa chính trị, nhiều người bàn tán về việc Đức Thánh Cha là vị giáo hoàng đầu tiên xuất thân từ Hoa Kỳ, và liệu điều đó có tạo khác biệt. Đức Thánh Cha nghĩ sao?


Đức Thánh Cha Lêô XIV: Trước hết, tôi hy vọng điều này sẽ tạo khác biệt, ít nhất là với hàng giám mục tại Hoa Kỳ. Không đi sâu vào lịch sử gần đây và những lý do mà chính tôi cũng chưa hiểu hết, nhưng rõ ràng đã có nhiều điều được nói về hàng giám mục ở Hoa Kỳ và mối quan hệ giữa Giáo Hội và chính trị. Việc tôi là người Mỹ, trong số những điều khác, có nghĩa là không ai có thể nói – như từng nói về Đức Thánh Cha Phanxicô – rằng “Ngài không hiểu Hoa Kỳ, Ngài chẳng thấy điều gì đang diễn ra”. Tôi nghĩ đó là một điểm quan trọng.


Tôi không có ý định can dự vào chính trị phe phái. Giáo Hội không phải là chuyện đó. Nhưng tôi không ngại nêu lên những vấn đề mà tôi tin rằng thực sự là những vấn đề Tin Mừng, mà hy vọng cả hai phía chính trường đều có thể lắng nghe. Một trong những cuộc trò chuyện cuối cùng tôi có với Phó Tổng thống Hoa Kỳ – tôi chưa gặp trực tiếp Tổng thống – là về phẩm giá con người, về tầm quan trọng của việc tôn trọng mọi người, bất kể nơi sinh ra, và hy vọng tìm ra những chính sách, chọn lựa thể hiện sự tôn trọng đó. Dĩ nhiên, vẫn có những điều đang diễn ra tại Hoa Kỳ khiến tôi lo lắng. Chúng tôi tiếp tục tìm cách đáp lại, và nêu lên những câu hỏi cần phải được đặt ra.


Allen: Đức Thánh Cha nói rằng Ngài chưa gặp Tổng thống Donald Trump, nhưng dù ở đâu trên bản đồ chính trị, ông vẫn là một hiện tượng mà cả thế giới tìm cách hiểu và đối diện. Với tư cách là người Mỹ, Đức Thánh Cha có nghĩ mình dễ dàng tiếp cận ông hơn không?


Đức Thánh Cha Lêô XIV: Không hẳn. Tôi nghĩ thích hợp hơn là hàng lãnh đạo Giáo Hội tại Hoa Kỳ phải nghiêm túc đối thoại với ông. Tôi sẽ nói điều đó với bất kỳ chính quyền nào. Tôi đã gặp nhiều nhà lãnh đạo thế giới, và có nhiều vấn đề quan trọng có thể nêu ra, nhưng Giáo Hoàng không thể can dự vào từng quốc gia, để nói rằng: “Các ông phải làm điều này, các ông nên nghĩ điều kia”.


Một việc mà Đức Phanxicô đã làm vào cuối triều đại của ngài, theo tôi rất quan trọng, là lá thư viết về vấn đề đối xử với người di dân. Tôi rất vui khi thấy các giám mục Mỹ đã đón nhận, và một số người trong họ đã can đảm lên tiếng. Tôi cho rằng đó là cách tiếp cận tốt hơn, và tôi cũng sẽ chọn cách tiếp cận qua giám mục.


Tổng thống Trump mới đây nói rằng ông không có ý định gặp tôi, rồi lại thêm: “Nhưng em trai ông ấy là một người tốt”. Thế cũng được thôi. Một người em của tôi từng gặp ông, và cũng rất thẳng thắn bày tỏ quan điểm chính trị của mình. Nếu hoặc khi có những vấn đề cụ thể cần đối thoại trực tiếp, và nếu có thể, tôi không có gì ngần ngại. Nhưng hiện nay đã có những người khác đảm nhận vai trò ấy. Còn ông ấy thì chọn nghe ai, không nghe ai, đó là quyết định của ông. Về phần tôi, tôi sẽ tiếp tục nêu lên những vấn đề liên quan đến phẩm giá con người, cổ võ hòa bình – những điều mà chính ông đôi khi cũng công khai nói mình mong muốn. Trong những nỗ lực đó, tôi sẵn sàng ủng hộ.


Hoa Kỳ là một cường quốc toàn cầu, điều đó chúng ta phải nhìn nhận. Đôi khi các quyết định lại được đưa ra dựa nhiều hơn vào lợi ích kinh tế hơn là nhân phẩm hay sự nâng đỡ con người. Nhưng chúng ta phải tiếp tục đặt vấn đề, chất vấn và tìm ra những cách tốt nhất để thực hiện sứ mạng ấy.

ĐỨC GIÁO HOÀNG LÊÔ TRẢ LỜI PHỎNG VẤN VỀ SỰ PHÂN HÓA TRONG THẾ GIỚI

(Trích từ cuộc phỏng vấn của Crux với Đức Thánh Cha Lêô XIV, do ký giả Elise Ann Allen thực hiện trong cuốn tiểu sử mới xuất bản bằng tiếng Tây Ban Nha: “León XIV: ciudadano del mundo, misionero del siglo XXI” – “Lêô XIV: Công dân của Thế giới, Nhà truyền giáo của Thế kỷ XXI”.)


Allen: Con muốn quay lại vấn đề trí tuệ nhân tạo và khủng hoảng mà Đức Thánh Cha có nhắc tới sau này. Nhưng về sự phân cực và chia rẽ, rõ ràng điều ấy đã tác động rất mạnh đến triều đại của Đức Phanxicô: ngài đã phải đối diện với nhiều phê bình và những cách nhìn trái ngược. Khi bước vào cùng một sứ vụ, Đức Thánh Cha có lo lắng về điều này không?

Đức Giáo Hoàng Lêô: Trở lại với điều con hỏi, cha thấy mình không cần phải làm cho sứ vụ trở nên phức tạp. Bổn phận của cha là loan báo Tin Mừng, rao giảng Phúc Âm. Chính Phúc Âm giải đáp những vấn đề ấy từ nền tảng: ý thức rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, Đấng đã sai Con Một xuống trần, nhập thể giữa loài người và dạy ta giá trị của sự sống, trong viễn tượng sự sống đời đời. Nếu đánh mất chân trời ấy, con người sẽ mất phương hướng, lang thang vô vọng mà không biết đi đâu.

Vì thế, cha không coi sứ vụ chính của mình là “giải quyết mọi vấn đề của thế giới”. Điều đó không phải. Nhưng Giáo Hội có một tiếng nói, một sứ điệp cần được tiếp tục công bố và công bố mạnh mẽ. Những giá trị mà Giáo Hội trình bày trước các cuộc khủng hoảng của nhân loại không xuất hiện cách ngẫu nhiên, nhưng khởi đi từ chính Tin Mừng. Chính ở đó, ta học được cách hiểu mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người, cũng như giữa chúng ta với nhau. Bắt đầu từ điều căn bản: tôn trọng nhau, tôn trọng phẩm giá con người. Phẩm giá ấy đến từ đâu? Và từ đó, làm sao ta xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, biết đối xử với nhau nhân bản hơn.

Có những giai đoạn tiếng nói ấy bị coi nhẹ hay bỏ qua. Nhưng thật đáng chú ý, tại những quốc gia từng được coi là thế tục hóa nặng nề như Pháp, hôm qua cha vừa gặp một nhóm bạn trẻ Pháp. Năm ngoái, có đến hàng ngàn bạn trẻ tự nguyện xin lãnh bí tích Rửa Tội. Họ tìm đến với Giáo Hội vì nhận ra đời sống mình trống rỗng, thiếu ý nghĩa. Và họ đã khám phá lại những gì Giáo Hội trao ban. Chính từ kinh nghiệm này, cha thấy sứ mạng của mình rất rõ ràng: đặt câu hỏi, chúng ta bắt đầu từ đâu, đi về đâu, và làm sao sứ điệp ấy có ý nghĩa cả trong bối cảnh địa chính trị toàn cầu.

Đáng tiếc, ngay cả Tin Mừng hôm nay cũng bị biến thành ý thức hệ…
Đó là cội rễ của sự phân cực. Khi rơi vào ý thức hệ, ta không còn bàn tới bản chất thật, những giá trị đích thực. Ý thức hệ chỉ muốn lợi dụng Tin Mừng thay vì để Tin Mừng trở thành trọng tâm. Điều này có thể xảy ra ở cả hai phía, hay nhiều phía, khi con người không chịu tìm lại sứ điệp chân chính.


Allen: Con muốn chuyển sang điều đã nói ở lần trước, và Đức Thánh Cha cũng nhắc ngay trong diễn từ đầu tiên: “tính hiệp hành”, một Giáo Hội hiệp hành. Đây vẫn là khái niệm nhiều người khó hiểu. Đức Thánh Cha định nghĩa thế nào?

Đức Giáo Hoàng Lêô: Hiệp hành là một thái độ, một tâm thế cởi mở, sẵn sàng lắng nghe và hiểu rằng trong Giáo Hội, mọi thành phần đều có tiếng nói, có vai trò. Qua cầu nguyện, suy tư – như phương pháp “đối thoại trong Thần Khí” của Thượng Hội Đồng gần đây – và qua tiến trình đối thoại, tôn trọng nhau, ta tạo ra cơ hội gặp gỡ. Đó là chiều kích quan trọng của đời sống Giáo Hội.

Một số người cảm thấy bị đe dọa. Có giám mục hay linh mục lo ngại: “hiệp hành sẽ làm mất thẩm quyền của tôi”. Thực ra không phải vậy. Có lẽ cách hiểu về thẩm quyền của họ còn lệch lạc. Hiệp hành không nhằm phá bỏ cơ cấu, nhưng mời gọi chúng ta sống hiệp thông, cùng nhau bước đi như một cộng đoàn. Không phải chỉ tập trung vào hệ thống phẩm trật, mà là “chúng ta”, một Giáo Hội của mọi ơn gọi: giáo sĩ, giáo dân, giám mục, thừa sai, gia đình… Ai cũng có vai trò và đóng góp riêng để cùng nhau lớn lên, cùng nhau bước đi.

Đây là một thái độ mà cha tin có thể dạy nhiều điều cho thế giới hôm nay. Khi bàn về phân cực, cha nghĩ hiệp hành chính là liều thuốc giải. Nếu chúng ta cùng lắng nghe Tin Mừng, cùng suy gẫm và cùng nhau bước tới, lắng nghe nhau, tìm nhận ra tiếng Chúa hôm nay, chúng ta sẽ được rất nhiều.

Cha hy vọng tiến trình đã khởi đi từ lâu – đặc biệt ở châu Mỹ Latinh, nơi cha đã có kinh nghiệm – sẽ tiếp tục đóng góp cho Giáo Hội hoàn vũ. Không phải để biến Giáo Hội thành một chính quyền dân chủ, vì thực tế cho thấy dân chủ không phải lúc nào cũng hoàn hảo. Nhưng để sống đời sống Giáo Hội đúng như bản chất: cùng nhau, “chúng ta phải thực hiện điều này với nhau”. Đó là cơ hội lớn cho Giáo Hội và cho sứ mạng đối thoại với thế giới. Từ Công đồng Vatican II, điều này đã rất quan trọng, và vẫn còn nhiều việc phải làm.


Allen: Con đoán ý Đức Thánh Cha là hiệp hành có thể chữa trị cho những vấn đề chúng ta nói từ đầu, như sự phân cực. Điều này có bắt nguồn từ kinh nghiệm cá nhân của Đức Thánh Cha tại Chiclayo và Trujillo không?

Đức Giáo Hoàng Lêô: Một phần đúng vậy. Đó cũng là phong cách cá nhân, tính cách và những ơn ban cha đã lãnh nhận. Với cha, lãnh đạo không phải là người đi một mình, vì như thế sẽ chẳng dẫn dắt được ai. Nhà lãnh đạo thật sự là người có khả năng quy tụ mọi người và cùng nhau tiến bước. Trong ý nghĩa đó, hiệp hành là khí cụ, là nền tảng, là phương thế hữu ích cho Giáo Hội, và cũng cho thế giới hôm nay.

ĐỨC GIÁO HOÀNG LÊÔ TRAO ĐỔI VỚI ELISA ANN ALLEN CỦA CRUX VỀ CÁC VẤN ĐỀ LGBTQ+ VÀ PHỤNG VỤ

Lưu ý của Ban Biên Tập: Đây là phần trích đoạn thứ sáu trong loạt hai phần phỏng vấn giữa Đức Giáo hoàng Lêô XIV và nữ ký giả kỳ cựu Elise Ann Allen của tờ Crux, được đưa vào cuốn tiểu sử mới của ngài với tựa đề León XIV: ciudadano del mundo, misionero del siglo XXI (“Lêô XIV: Công dân của thế giới, Nhà truyền giáo của thế kỷ XXI”), do Nhà xuất bản Penguin Peru ấn hành bằng tiếng Tây Ban Nha, phát hành ngày 18 tháng 9. Các ấn bản tiếng Anh và tiếng Bồ Đào Nha sẽ ra mắt đầu năm 2026.


Allen: Hai chủ đề nóng bỏng nổi bật từ Thượng Hội đồng Giám mục về Tính Hiệp hành, vốn gây nhiều tranh luận, là vai trò của phụ nữ trong Giáo hội và cách Giáo hội tiếp cận với cộng đồng LGBTQ+. Xin Đức Thánh Cha cho biết suy nghĩ của ngài về hai vấn đề này và ngài sẽ định hướng như thế nào trong sứ vụ giáo hoàng mới của mình?

Đức Giáo hoàng Lêô: Với tinh thần hiệp hành. Tôi nghĩ hầu hết mọi người đều hiểu rằng vai trò của phụ nữ trong Giáo hội cần tiếp tục được triển nở. Theo hướng đó, Thượng Hội đồng có phản hồi tích cực. Tôi muốn tiếp nối bước chân Đức Phanxicô, trong đó có việc bổ nhiệm phụ nữ vào một số vai trò lãnh đạo ở nhiều cấp độ khác nhau trong đời sống Giáo hội, để nhìn nhận những hồng ân mà phụ nữ có thể đóng góp.

Vấn đề trở nên nóng khi đặt thẳng câu hỏi về chức thánh. Thượng Hội đồng có đề cập cụ thể đến khả năng truyền chức cho nữ phó tế, điều vốn đã được nghiên cứu nhiều năm nay. Nhiều vị giáo hoàng đã lập các ủy ban khác nhau để xem xét. Tôi nghĩ đây vẫn sẽ là một vấn đề còn tiếp tục. Hiện tại, tôi chưa có ý định thay đổi giáo huấn của Giáo hội về điểm này, vì còn nhiều câu hỏi căn bản cần được đặt ra.

Chẳng hạn, đầu năm nay có Năm Thánh dành cho các phó tế vĩnh viễn – tất cả đều là nam – nhưng vợ họ cũng có mặt. Tôi đã có buổi giáo lý với một nhóm lớn các phó tế nói tiếng Anh. Chính tại đây nảy ra câu hỏi: nếu ngay cả chức phó tế vĩnh viễn cũng chưa thực sự được hiểu, được phát triển và cổ võ đúng mức trong Giáo hội, thì tại sao lại bàn đến việc truyền chức cho phụ nữ? Vấn đề ấy vẫn còn nhiều khía cạnh phải đào sâu.

Một câu hỏi khác: Liệu chúng ta có đang muốn “giáo sĩ hóa” phụ nữ hay không, và điều đó thực sự giải quyết được gì? Tôi nghĩ còn nhiều khía cạnh khác cần phải làm rõ trước khi đặt ra những câu hỏi lớn hơn.

Hiện tại, tôi sẵn sàng tiếp tục lắng nghe. Bộ Giáo lý Đức Tin vẫn đang nghiên cứu bối cảnh thần học và lịch sử của vấn đề này, và chúng ta sẽ cùng bước đi với tiến trình ấy.


Allen: Xin hỏi thêm về LGBTQ+. Đây vốn là vấn đề dễ trở thành ý thức hệ. Tuy nhiên, nhiều người cảm nhận rằng dưới thời Đức Phanxicô, cách tiếp cận đã khác, với giọng điệu khác. Đức Thánh Cha sẽ tiếp cận thế nào?

Đức Giáo hoàng Lêô: Hiện tôi chưa có một kế hoạch cụ thể. Tôi đã nhiều lần được hỏi về chủ đề này trong những tháng đầu sứ vụ. Tôi nhớ lời một hồng y từ phương Đông từng nói với tôi trước khi tôi làm giáo hoàng: “Thế giới phương Tây quá ám ảnh về tình dục.” Với nhiều nơi khác trên thế giới, căn tính giới tính không phải là mối quan tâm hàng đầu trong việc đối xử với nhau. Tôi vẫn ghi nhớ điều đó, vì như ta đã thấy trong Thượng Hội đồng, bất kỳ vấn đề nào liên quan đến LGBTQ cũng dễ gây chia rẽ sâu sắc.

Do đó, tôi cố gắng không tiếp tục khoét sâu sự phân cực trong Giáo hội. Điều tôi muốn nói là điều Đức Phanxicô từng lặp lại: todos, todos, todos – “mọi người, mọi người, mọi người.” Tôi không đón nhận một ai đó vì họ thuộc hay không thuộc một căn tính nào, mà vì họ là con cái Thiên Chúa. Mọi người đều được mời gọi, chúng ta cùng tôn trọng nhau.

Dĩ nhiên sẽ có những câu hỏi cụ thể. Có người muốn thay đổi giáo huấn của Giáo hội, muốn thay đổi thái độ. Theo tôi, trước hết phải thay đổi thái độ, rồi mới có thể bàn đến giáo huấn. Tôi nghĩ khó có khả năng – ít nhất trong tương lai gần – Giáo hội sẽ thay đổi giáo huấn về hôn nhân và tính dục.

Tôi đã nhắc lại, như Đức Phanxicô, rằng hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ trong giao ước bí tích. Nhưng tôi biết, ngay khi nói điều đó, có người sẽ phản đối. Ở Bắc Âu, họ thậm chí đã soạn nghi thức chúc lành cho “những người yêu nhau,” điều đi ngược lại văn kiện Fiducia Supplicans mà Đức Phanxicô phê chuẩn, vốn xác nhận rằng mọi người đều có thể được chúc lành, nhưng không biến nó thành một nghi thức phụng vụ, vì điều đó không phù hợp với giáo huấn của Giáo hội.

Những người ấy không phải là xấu, nhưng cần học cách đón nhận và tôn trọng người khác, ngay cả khi họ có lựa chọn khác biệt. Tôi hiểu rằng đây là một vấn đề nóng, và sẽ có người đòi Giáo hội công nhận hôn nhân đồng tính hay căn tính chuyển giới. Nhưng Giáo hội sẽ vẫn đón nhận mọi cá nhân như những người con của Chúa.

Giáo huấn về hôn nhân và gia đình vẫn giữ nguyên. Gia đình là cha, mẹ và con cái. Trong xã hội hôm nay, gia đình nhiều nơi đã bị tổn thương, nhưng cần được nâng đỡ và củng cố, vì chính nơi gia đình ta học yêu thương, tha thứ, sống hiệp thông. Nếu nền tảng ấy bị lung lay, thì việc học sống tình hiệp thông ở chỗ khác sẽ khó khăn biết bao.

Cá nhân tôi cảm nhận sâu sắc điều này. Tôi được là chính tôi hôm nay vì có cha mẹ sống đời hôn nhân hạnh phúc trên 40 năm. Anh em chúng tôi vẫn gắn bó, dù khác biệt quan điểm chính trị. Gia đình đã giúp hình thành con người tôi.


Allen: Ngoài những nhóm nghiên cứu đã có, Đức Thánh Cha còn lập thêm hai nhóm mới: một về phụng vụ, một về các hội đồng giám mục và đại hội giáo hội. Vì sao?

Đức Giáo hoàng Lêô: Thực ra, đây là sáng kiến đã được Đức Phanxicô phê chuẩn vào cuối triều đại ngài. Cả hai đều xuất phát từ các vấn đề được Thượng Hội đồng bàn thảo.

Đối với các hội đồng giám mục, vốn được hình thành mạnh mẽ từ sau Công đồng Vatican II, ngày nay giá trị mục vụ của chúng đã rõ rệt: giám mục các vùng có thể cùng nhau phân định và đưa ra định hướng chung phù hợp với văn hóa và hoàn cảnh địa phương, thay vì mỗi vị đi một hướng.

Tuy nhiên, từ lâu đã có tranh luận thần học: hội đồng giám mục có thể có thẩm quyền đến mức nào, khi thẩm quyền tông truyền vốn thuộc về từng giám mục riêng lẻ? Có nơi lo ngại rằng hội đồng có thể đưa ra những quyết định chạm đến giáo lý, như về hôn nhân, ly dị, hay đa thê – những vấn đề nhạy cảm. Điều này cần được đào sâu hơn.

Về nhóm nghiên cứu phụng vụ, trọng tâm là việc hội nhập văn hóa. Làm thế nào để phụng vụ trở nên sống động và ý nghĩa hơn trong các nền văn hóa khác nhau. Dĩ nhiên, còn một vấn đề nóng khác là Thánh lễ Tridentin và Thánh lễ hậu Công đồng Vatican II. Tiếc rằng phụng vụ đã trở thành công cụ chính trị trong nhiều cuộc tranh luận.

Có người tìm đến Thánh lễ Tridentin vì cảm thấy phụng vụ sau Công đồng chưa giúp họ chạm đến mầu nhiệm đức tin như mong muốn. Vấn đề ở đây là sự phân cực, thay vì cùng nhau tìm cách cử hành phụng vụ Công đồng một cách xứng hợp. Tôi chưa có cơ hội gặp trực tiếp nhóm cổ võ Thánh lễ Tridentin, nhưng sẽ sớm có dịp. Điều cần thiết là đối thoại hiệp hành, thay vì đóng kín và không lắng nghe nhau.

* Nguồn: La Crux / CĐHHAC tổng hợp 6 bài trích từ tờ báo này với trợ giúp của Gemini.


Không có nhận xét nào: