** Mỗi khi đến hành hương Roma tín hữu có
thói quen kính viếng 5 đền thờ chính. Thứ nhất là đền thờ thánh Phêrô xây trên
mộ của thánh nhân bị tử đạo dưới thời hoàng đế Neron năm 64 và được chôn trong
nghĩa trang trên đồi Vaticăng. Thứ hai là đền thờ Thánh giá Giêrusalem nơi cất
giữ các thánh tích cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô, do hoàng hậu Elena, mẹ của
hoàng đế Costantino đem về, khi bà đi hành hương bên Thánh Địa năm 326. Thứ ba
là đền thờ thánh Gioan Laterano là nhà thờ chính tòa của giáo phận Roma. Bên cạnh
nhà thờ chính toà này có Dinh Laterano, là nơi các Giáo Hoàng sống từ thế kỷ thứ
IV cho tới năm 1305, khi Italia bị quân Pháp đánh và họ bắt Đức Giáo Hoàng về sống
tại Avignon bên Pháp. Thứ bốn là đền thờ thánh Phaolô ngoại thành, đuợc xây
trên mộ của thánh nhân tử đạo dưới thời hoàng đế Neron năm 67. Và thứ năm là đền
thờ Đức Bà Cả. Gọi là đền thờ Đức Bà Cả vì đây là đền thờ đầu tiên lớn nhất
dâng kính Đức Mẹ bên Tây Phương. Nhưng đền thờ còn có ba tên gọi khác nữa: là đền
thờ Liberio, đền thờ Đức Bà Xuống Tuyết và đền thờ Máng Cỏ.
Truyền thuyết kể rằng đêm ngày mùng 4 tháng 8
năm 352, Đức Mẹ hiện ra với ĐGH Liberio và nhà quyền quý Giovanni, và xin xây một
đền thờ dâng kính Đức Mẹ. Khi ĐGH hỏi Mẹ muốn xây đền thờ ở đâu, thì Đức Mẹ trả
lời: “Ngày mai, con thấy tuyết rơi ở đâu, thì xây đền thờ ở đó”. Sáng hôm sau
mùng 5 tháng 8 tuyết rơi trên đồi Esquilino. Tháng 8 là mùa hè trời Roma rất
nóng, nhưng tuyết đã rơi trên đồi Esquilino, là một trong 7 trái đồi của Roma.
Vì thế đền thờ còn có hai tên gọi khác nữa là đền thờ Liberio theo tên của ĐGH,
hay đền thờ Đức Bà xuống tuyết, để ghi nhớ phép lạ này. Ngày nay cứ tới ngày
mùng 5 tháng 8 biến cố tuyết rơi được nhắc lại bằng một trận mưa các cánh hoa
trắng, hay sau này bằng bột xà phòng giả làm tuyết được thổi từ bao lơn đền thờ.
Ngoài ra đền thờ còn có tên gọi thứ bốn là Đền thờ Máng Cỏ, vì bên dưới bàn thờ
tuyên xưng đức tin có giữ hai thanh gỗ lấy ở máng cỏ Bếtlêhem bên Thánh Địa, và
được đựng trong một hộp thuỷ tinh có viền trang hoàng bằng bạc rất đẹp, do
ông Valadier làm.
** Người ta đã không tìm thấy dấu vết nào của
ngôi nhà thờ đầu tiên này, ngoại trừ một câu trong Cuốn sách Giáo hoàng khẳng định
rằng Đức Giáo Hoàng Liberio “đã cho xây vương cung thánh đường của ngài cạnh
khu thương mại Macellum Liviae”. Khu thương mại này đã do hoàng đế Augusto xây
để ghi nhớ vợ ông là hoàng hậu Livia.
Sau khi Công Đồng Chung Êphêxô nhóm họp năm
431 và tuyên bố tín điều Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa Theotokos, Vương cung thánh đường đã được ĐGH Sisto III
cho xây lại giữa các năm 432-440. Vào thế kỷ XII, giữa các năm 1145-1153, đền
thờ được ĐGH Eugenio III cho sửa rộng ra, xây thêm khu vực dành cho các dự tòng
phiá trước có trang hoàng cột, và cho làm nền lát đá cẩm thạch mầu kiểu
Cosmati. Giữa các năm 1288-1292 ĐGH Nicolò IV cho xây cung thánh mới, và giao
cho ông Jacopo Torriti trang hoàng với các bức khảm đá mầu rất đẹp.
Vào năm 1377 khi từ Avignon trở về Roma ĐGH
Gregorio XI cho xây tháp chuông theo kiểu
Roman. Tháp cao 75 mét và là tháp chuông kiểu roman cuối cùng cao nhất Roma.
Bên trên có 5 quả chuông, trong đó có một quả tên là “quả chuông bị lạc”, được
gióng lên vào lúc 9 giờ tối. Người ta kể rằng chính nhờ nghe tiếng chuông kêu,
mà một bé gái mục đồng chăn chiên đi lạc đã định hướng và về được tới nhà bằng
an.
Vương cung thánh đường vẫn duy trì hình dạng
xưa kia. Giữa các thế kỷ XVI-XVII hai Giáo Hoàng Sisto V và Phaolo V cho xây
thêm hai nhà nguyện mang tên các vị là nhà nguyện Sistina bên phải và nhà nguyện
Paolina bên trái. Vào thế kỷ XVII ĐGH Clemente X cho xây thang cấp mặt sau đền
thờ. Tiếp đến ĐGH Biển Đức XIV cho tu sửa lại hết, và xây thêm mặt tiền như hiện
nay.
Mặt tiền do kiến trúc sư Ferdinando Fuga xây
năm 1743, gồm một hành lang tiền đường trang hoàng cột, trên có bao lơn phép
lành gồm 3 vòm, với hai dinh thự hai bên là nơi cư ngụ của các kinh sĩ đền thờ.
** Trên bao lơn còn có các bức khảm đá mầu của
mặt tiền cũ của đền thờ thuộc cuối thế kỷ XIII, do Filippo Rosuti làm. Bên trên
có hình Chúa Kitô ban phép lành giữa các biểu tượng của bốn thánh sử, Đức Trinh
Nữ, các thiên thần và các thánh. Bên dưới là các cảnh cuộc đời của ĐGH Liberio
bao gồm cả phép lạ tuyết rơi.
Tại quảng trường trước đền thờ là cây cột có
tượng Đức Mẹ được dựng lên năm 1854 kỷ niệm biến cố ĐGH Pio IX tuyên bố tín điều
Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Trong hành lang mặt tiền đền thờ bên phải có
tượng đồng của Philipphê IV, vua Tây Ban
Nha, là quốc gia đỡ đầu đền thờ Đức Bà Cả, do Giovanni Lucenti tạc năm 1692.
Tây Ban Nha là nước bảo trợ Đền Thờ Đức Bà Cả. Vì thế hàng năm triều đình Tây
Ban Nha vẫn gửi tiền về Roma tài trợ cho các Kinh Sĩ đền thờ để họ cầu nguyện
cho hoàng gia và dân nước Tây Ban Nha.
Cửa đồng chính giữa do ông Ludovico Pogliaghi
tạc năm 1940 với các cảnh tả lại cuộc đời Đức Mẹ, các ngôn sứ, các thánh sử và
4 phụ nữ của Thánh Kinh Cựu Ước diễn tả
trước vai trò của Đức Trinh Nữ Maria trong lịch sử cứu độ.
Chính giữa là Chúa Kitô phục sinh giống hình
in trên tấm khăn liệm thành Torino, hiện ra với Mẹ Maria được diễn tả như là “Sự
cứu rỗi của dân thành Roma”, Trên cao bên trái là cảnh Truyền Tin gần giếng nước,
lấy từ Phúc Âm mạo thư; bên phải là Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ
Ngũ Tuần.
Bên dưới phía trái là Công Đồng Chung Êphêxô
xác định tín điều Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa Theotòkos; bên phải là Công Đồng
Chung Vaticăng II xưng tụng Đức Mẹ là Mẹ Giáo Hội. Trên cửa cũng có huy hiệu của
Đức Gioan Phaolô II và phiá dưới là huy hiệu của ĐHY Furno, Linh mục trưởng
vương cung thánh đường và huy hiệu của Hội Hiệp Sĩ Thánh Mộ.
Bên trái là Cửa Thánh được Đức Gioan Phaolô
II làm phép ngày mùng 8-12-2001 do nhà điêu khắc Luigi Mattei tạc, và do Hội Hiệp
Sĩ Thánh Mộ Giêrusalem dâng cúng.
** Bên trong đền thờ còn giữ được nguyên vẹn
hình thái của thế kỷ thứ V thời ĐGH
Sisto III.
Đền thờ dài 86 mét có hai hàng gồm 36 cây cột
cẩm thạch và nham thạch lớn, đầu chạm trổ theo kiểu Ionic, chia đền thờ thành 3
gian dọc.
Nền đền thờ lát đá cẩm thạch mầu và trang
hoàng theo kiểu Cosmati dưới thời ĐGH Eugenio III, thuộc giữa thế kỷ XII, do
hai nhà quyền quý Roma là ông Scoto Paparoni và con là Giovanni dâng tặng ĐGH
Eugenio III.
Gian giữa được soi sáng với 21 cửa sổ mỗi bên,
nhưng phân nửa đã bị xây kín lại. Trên các cửa sổ bị xây kín lại có các bức
bích họa kể lại cuộc đời Đức Mẹ.
Phiá dưới hai bên có các bức khảm đá mầu diễn
tả các cảnh Cựu Ước: bên trái là lịch sử cuộc đời các tổ phụ Abraham, Giacóp và
Igiaác; bên phải là cuộc đời của ông Môshê và ông Gioduê. Trên tổng số 42 bức
khảm đá mầu, trong đó nhiều bức diễn tả hai cảnh chồng lên nhau, chỉ còn lại 27
(12 bên trái và 15 bên phải), sau vụ sửa sang đền thờ hồi thế kỷ XVII.
Trần đền thờ bằng gỗ trang hoàng hình hộp, do
kiến trúc sư Giuliano da Sangallo và em là Antonio làm hồi thế kỷ XV. Một trăm
ký vàng mạ trần đền thờ do Cristoforo Colombo đem từ Perù về, và được hoàng hậu
Isabella và vua Ferdinando biếu ĐGH Alessandro VI.
Trên cùng là một dẫy các con bò mộng có các
thiên thần nhỏ cỡi. Bò mộng là biểu tượng của dòng tộc Borgia gốc Tây Ban
Nha; và ở chính giữa trần nhà thờ có các
huy hiệu của ĐGH Callisto III và Alessandro VI, là hai vị Giáo Hoàng thuộc dòng
tộc Borgia.
Bên phải gian giữa gần cửa vào là đài kỷ niệm
ĐGH Clemente IX, do kiến trúc sư Carlo Rainaldi xây năm 1671. Bên trái là đài kỷ
niệm ĐGH Nicolò IV, do kiến trúc sư Domenico Fontana xây năm 1574.
Gian bên phải nhà nguyện đầu tiên có giếng rửa
tội do Flaminio Ponzio xây năm 1605. Bồn bằng đá vân ban thuộc năm 1852. Trên
bàn thờ có bức tranh “Đức Mẹ hồn xác lên trời” do Bernini hoàn thành năm 1611.
Bên phải nhà nguyện là phòng thánh có các tác phẩm của Mino del Reame. Bên trái
là nhà nguyện thánh Micae, trên trần có các tranh Bốn thánh sử của Lorenzo di
Viterbo.
Trong vương cung thánh đường Đức Bà Cả có mộ
của 9 Giáo Hoàng được chôn cất tại đây, trong đó có Đức Sisto V và Đức Pio V,
dòng Đa Minh, là vị Giáo Hoàng của Kinh Mân Côi.
Đền thờ Đức Bà Cả được trang hoàng với các bức
khảm đá mầu rất đẹp thuộc thế kỷ thứ V. Bắt đầu từ bên trái Khải hoàn môn với cảnh Melkisêđê là vua và là thầy cả tễ lễ cho
Thiên Chúa.
Không kể các bức khảm đá mầu dọc gian giữa của
đền thờ kể lại cuộc đời của các tổ phụ Abraham, Giacóp, hai ông Môshê và
Gioduê, trong số các bức khảm đá mầu quý và cổ xưa có các bức khảm đá mầu của
Khải hoàn môn.
Khải hoàn môn khảm đá mầu tả lại vài cảnh
trong cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu, trong đó có vài cảnh lấy hứng từ các Phúc
Âm mạo thư. Bên trên từ trái là cảnh Truyền tin trong đó Đức Maria mặc như một
công chúa Roma tay cầm cái thoi đang dệt một khăn mầu đỏ dùng cho Đền Thờ, nơi
Mẹ đã phục vụ. Tiếp đến là cảnh báo tin cho Giuse, Ba Vua thờ lậy Chúa Hài Nhi,
cảnh tàn sát các hài nhi Bếtlêhem. Người đàn bà có áo choàng xanh da trời quay
lưng lại các phụ nữ khác là thánh Elidabét chạy trốn với Gioan Tẩy Giả trên
tay. Bên phải khải hoàn môn là cảnh dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ, chạy trốn
sang Ai Cập, Thánh gia gặp Afrodisio, quan tổng trấn thành Sotine bên Ai Cập.
** Theo một Phúc Âm mạo thư, khi Chúa Giêsu
cùng cha mẹ tới Sotine thì 365 bức tượng thần rơi bể, Quan Afrodisio kinh hoàng
trước phép lạ và nhớ tới ngày tàn của Pharao nên cùng quân binh đi gặp Thánh
Gia và thờ lậy Chúa Hài Nhi. Bức tranh cuối cùng là các Nhà đạo sĩ gặp vua
Hêrôđê. Ở chân khải hoàn môn bên trái là thành Bếtlêhem nơi Chúa giáng sinh và
tự tỏ hiện ra lần đầu tiên, và bên phải là thành Giêrusalem, nơi Ngài chết và sống
lại.
Trên cùng của Khải hoàn môn có vòng tròn ở giữa
có hình một ngai vua, bên trên có áo hoàng bào và vương trượng. Bức khảm đá mầu
muốn nói rằng Chúa Giêsu Vua không ở trên trời nữa, vì Ngài đã xuống thế nhập
thể làm người trong lòng Trinh Nữ Maria để cứu chuộc nhân loại. Nó cũng nhắc lại
tín điều Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa như được khẳng định trong Công Đồng Chung
Êphêxô năm 431.
Xưa kia dân chúng mù chữ nên tất cả các bức
bích họa hay khảm đá mầu và các tranh ảnh vẽ trong các nhà thờ đều là sách giáo
lý sống động bằng hình.
Bàn thờ tuyên xưng đức tin do kiến trúc sư
Vespignani xây lại năm 1864. Bên dưới có bức tượng ĐGH Pio IX quỳ cầu nguyện,
do Ignazio Jacometti tạc năm 1880. và do ĐGH Leô XIII truyền đặt tại đây. Trước
tượng là bàn thờ với hộp thánh tích bằng kính hình bầu dục đựng hai thanh gỗ lấy
từ Bếtlehem về. Hộp do Valadier làm, và do nữ đại sứ Bồ Đào Nha dâng cúng.
Bên trên bàn thờ có tàn che dựng trên bốn cây
cột bằng đá vân ban do kiến trúc sư Ferdinando Fuga tạc hối thế kỷ XVIII. Hòm
đá vân ban dưới bàn thờ đựng xương thánh
Matthia và các Thánh khác.
Bức khảm đá mầu tuyệt đẹp trong cung thánh do
Iacopo Torriti làm năm 1295, diễn tả cảnh Chúa Giêsu đội triều thiên cho Đức Mẹ
giữa triều thần thánh trên trời. Dưới chân Đức Mẹ và Chúa Giêsu có mặt trời, mặt
trăng và ca đoàn các thiên thần đang thờ lậy. Thêm vào đó là thánh Phêrô,
Phaolô, thánh Phanxicô thành Assisi và ĐGH Nicolò IV bên trái; Thánh Gioan Tẩy
Giả, thánh sử Gioan, thánh Anton và ĐHY
Colonna là người trang trải chi phí, bên phải.
** Phần còn lại của bức khảm đá mầu gồm các
cành nảy sinh từ hai gốc cây ở hai đầu ngoài cùng. Ở nền bức khảm đá mầu là cảnh
Đức Mẹ ngủ, theo các hình vẽ icone bisantin, được phổ biến bên Tây Phương sau
các cuộc thập tự chinh. Đức Mẹ nằm trên giường, trong khi các thiên thần chuẩn
bị lấy xác Đức Mẹ đi, trước cái nhìn kinh ngạc của các Tông Đồ. Chúa Kitô đang
chờ đợi trên trời, cầm trong vòng tay linh hồn trong trắng của Mẹ. Còn có hình
của 2 tu sĩ Phanxicô và một giáo dân đầu đội mũ theo kiểu của thế kỷ XII.
Bên dưới là bức tranh Giáng Sinh của họa sĩ
Mancini, được ĐGH Biển Đức XIV cho đặt tại đây. Giữa các cây cột trang hoàng kiểu
ionicô là các bức chạm nổi của Mino del
Reame trình bầy cảnh chúa Giêsu sinh ra, phép lạ tuyết rơi, việc ĐGH Liberio
thành lập vương cung thánh đường, cảnh Đức Mẹ hồn xác lên trời và Ba Vua thờ lậy
Chúa Hài Nhi.
Bên cạnh bàn thờ chính phiá bên phải là tấm
bia mộ rất đơn sơ của gia đình Bernini :”Gia đình quyền quý Bernini chờ đợi sự
Phục Sinh ở đây”. Chính ông Bernini là người đã xây hai cánh hành lang của đền
thờ thánh Phêrô giữa các năm 1656-1667.
Bên phải là nhà nguyện Sistina hay nhà nguyện
Thánh Thể do Domenico Fontana xây cho ĐGH Sisto V năm 1585. Nhà nguyện được
trang hoàng với rất nhiều tượng và các bức bích họa, với mộ của ĐGH Pio V, tượng
do Leonardo da Sarzama tạc, và mộ ĐGH Sisto V, tượng do Valsoldo tạc. Cả hai mộ
do Domenico Fontana xây. Chính giữa dưới bàn thờ có hình nhà thờ cũ bằng dồng
là nhà nguyện máng cỏ được Arnolfo di Cambio tu sửa hồi thế kỷ XIII. Ông cũng
là tác già của các bức tuợng nhỏ trên khải hoàn môn nhà nguyện Sistina và các
tượng trong vòm nhà nguyện. Cuối gian phải là mộ ĐHY Gonsalvo Rodriguez do Giovanni Cosma tạc năm 1299.
** Bên trái đối diện với nhà nguyện Sistina
và nhà nguyện Paolina, do ĐGH Phaolo V truyền cho Flaminio Ponzio xây năm 1611. Ông cũng xây
hai mộ của ĐGH Phaolô V bên trái, và ĐGH Clemente VIII bên phải. Các bức bích họa
kể lại cuộc đời Đức Mẹ, bốn Thánh Sử do các họa sĩ Baglioni, Chevalier d’
Arpin, G. Reni và Lanfranco vẽ. Trên bàn thờ trang hoàng ngọc lưu ly, có hình Đức
Mẹ Sự cứu rỗi của dân Roma, thuộc thế kỷ XIII. Trong một số dịp lễ lớn ảnh này
được đem về để bên phải bàn thờ nới ĐGH cử hành thánh lễ.
Tiếp đến là nhà nguyện Sforza do Giacomo
della Porta xây theo mẫu vẽ của Michelangelo. Trên bàn thờ có hình “Đức Mẹ hồn
xác lên trời “ của Girolamo da Sermoneta.
Tượng Nữ Vương Hoà Bình và Nữ vương vũ trụ,
do ĐGH Biển Đức XV cho làm để tạ ơn Đệ Nhất Thế Chiến chấm dứt. Tượng do Guido
Galli tạc. Gương mặt Đức Mẹ bồng Chúa Hài Đồng đượm nét buồn vì loài người bắn
giết nhau và gây ra bao nhiêu tàn phá đổ vỡ thương đau một cách vô lý và vô
ích.
Nhà nguyện cuối cùng bên phải do Martino
Longhi xây năm 1559, bên trong có mộ ĐHY
Bartolomeo Cesi, do Giacomo della Porta xây. Trên bàn thờ có bức tranh “Thánh
Catarina tử đạo” do Girolamo da Sermoneta vẽ.
Bên trên Cửa Thánh là mộ các HY Philippe de
Levis và Eustache do Giovanni Dalmata xây năm 1489.
Linh Tiến Khải
- Bus số 75
- Xe tram số 5
- Đi bộ 8 phút từ Termini.
- Trang web chính thức của Đền Thờ.
- Xin mời bấm vào đây xem online tour
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét