Thứ Tư, 23 tháng 4, 2025

Di Sản của Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Một Triều Đại Giáo Hoàng Đặt Nền Tảng Trên Lòng Thương Xót của Thiên Chúa

 
Di Sản của Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Một Triều Đại Giáo Hoàng Đặt Nền Tảng Trên Lòng Thương Xót của Thiên Chúa 

BÌNH LUẬN: Những lời đầu tiên của Đức Giáo hoàng Phanxicô khi nhậm chức đã nói lên tội lỗi của ngài và niềm tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa — một chủ đề đã định hình toàn bộ triều đại giáo hoàng của ngài.  

Khi toàn thể Giáo hội Công giáo cầu nguyện cho linh hồn Đức Giáo hoàng Phanxicô được yên nghỉ muôn đời và bắt đầu suy ngẫm về cuộc đời cùng di sản của ngài, điều cần thiết là phải bắt đầu từ cách ngài nhìn nhận chính cuộc đời và ơn gọi thiêng liêng của mình. 

Ngài đã tóm gọn điều đó ngay từ thời khắc triều đại giáo hoàng của mình bắt đầu. 

Sau khi một vị giáo hoàng nhận được đủ số phiếu cần thiết trong mật nghị hồng y, ngài sẽ được hỏi chính thức: “Acceptasne?” — tiếng Latinh có nghĩa là “Ngài có chấp nhận (việc được bầu làm Giáo hoàng) không?” Câu trả lời thông thường là “Accepto” hoặc “Non accepto”. 

Nhưng vào ngày 13 tháng 3 năm 2013, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã phá vỡ truyền thống khi ngẫu hứng đáp lại bằng tiếng Latinh:

“Peccator sum, sed super misericordia et infinita patientia Domini nostri Jesu Christi confisus et in spiritu penitentiae accepto” —

“Tôi là một tội nhân, nhưng với niềm tín thác vào lòng thương xót và sự nhẫn nại vô biên của Chúa Giêsu Kitô, và trong tinh thần sám hối, tôi xin chấp nhận.” 

Vì vậy, những lời đầu tiên của ngài với tư cách là Giáo hoàng là một lời thú tội công khai đầy ấn tượng, thể hiện sự sám hối và niềm tin sâu sắc vào Lòng Thương Xót Chúa. 

Khi linh mục dòng Tên Antonio Spadaro hỏi ngài trong một cuộc phỏng vấn năm 2013: “Jorge Mario Bergoglio là ai?”, Đức Thánh Cha đã nói rõ: “Tôi là một tội nhân đã được Chúa đoái thương”, và thêm rằng: “Tôi luôn cảm thấy khẩu hiệu của tôi, Miserando atque eligendo (Ngài đã thương xót và chọn gọi tôi), rất đúng với cuộc đời tôi.” 

Khẩu hiệu đó bắt nguồn từ ngày ngài nhận ra ơn gọi linh mục: ngày 21 tháng 9 năm 1953, lễ kính thánh Matthêu, khi ngài mới 16 tuổi. 

Hôm đó là ngày đầu xuân ở Argentina và là ngày nghỉ học. Jorge Bergoglio ghé vào nhà thờ giáo xứ để cầu nguyện nhanh và gặp một linh mục mà ngài không quen – cha Carlos Duarte Ibarra. Ngẫu hứng, ngài xin xưng tội. Năm phút sau, ngài bước ra, không còn ý định trở thành nhà hóa học, mà tin chắc rằng Chúa đang gọi mình làm linh mục. 

Sau này, Đức Giáo hoàng chia sẻ rằng, dù lời xin xưng tội lúc ấy có vẻ tự phát, nhưng chính Thiên Chúa đã đợi ngài trong tòa giải tội, để ban cho ngài lòng thương xót và sai ngài trở thành sứ giả, khí cụ của lòng thương xót ấy. 

Suy ngẫm về ơn gọi của mình qua lời mời gọi của Chúa Giêsu dành cho thánh Matthêu, ngài bị đánh động bởi lời chú giải của thánh Bêđa Đáng Kính mà Giáo hội đọc vào ngày 21 tháng 9 hằng năm: “Chúa thấy người thu thuế, và bởi vì Ngài nhìn ông bằng ánh mắt đầy thương xót và chọn gọi ông (miserando atque eligendo), nên Ngài nói với ông: ‘Hãy theo Ta.’” 

Ba từ này đã trở thành tóm tắt cho cuộc đời, chức linh mục, giám mục và giáo hoàng của ngài. 

Đêm ngài được bầu chọn, tôi đang ở Rôma làm bình luận truyền hình cho EWTN và BBC International. Sau khi hoàn tất việc phỏng vấn và viết bài, tôi tìm được bản kỹ thuật số của cuốn sách phỏng vấn dài xuất bản năm 2010 với ngài, mang tên El Jesuita (“Người Dòng Tên”). Tôi đọc lướt qua trước khi đi ngủ để chuẩn bị cho những lần lên sóng hôm sau. Nhưng có một đoạn tôi không thể lướt qua nhanh chóng. Dù đang rất mệt, tôi đã đọc chậm rãi ba lần. 

Đó là một trong những hiểu biết sâu sắc nhất về Lòng Thương Xót Chúa mà tôi từng thấy — ngay cả khi so sánh với những triều đại phong phú của hai vị tiền nhiệm trước đó của ngài. Trong đó, Đức Hồng y Bergoglio khi ấy nói rằng, việc làm Kitô hữu chân chính bắt đầu từ việc nhận ra mình là tội nhân cần được cứu độ và lớn lên trong kinh nghiệm rằng Đấng Cứu Độ nhìn mình với tình yêu thương xót. 

Ngài nói: “Đối với tôi, cảm thấy mình là một tội nhân là một trong những điều đẹp đẽ nhất có thể xảy ra, nếu nó dẫn đến hệ quả cuối cùng… Khi một người ý thức rằng mình là tội nhân và được Chúa Giêsu cứu độ… họ khám phá ra điều lớn lao nhất trong đời: rằng có một Đấng yêu thương họ sâu sắc, đã hiến mạng sống vì họ.” 

Ngài tiếc rằng nhiều người Công giáo chưa có kinh nghiệm nền tảng ấy: “Có những người tin điều đúng đắn, đã học giáo lý và theo đạo bằng cách nào đó, nhưng chưa có kinh nghiệm được cứu… và vì thế họ không biết mình là ai. Tôi tin rằng chỉ những tội nhân lớn như chúng tôi mới có được hồng ân đó.” 

Sau khi được bầu làm Giáo hoàng, ngài nói thêm: “Chỉ ai đã được chạm vào và vỗ về bởi sự dịu dàng của lòng thương xót mới thật sự biết Chúa.” 

Chúa nhật đầu tiên của triều đại giáo hoàng, tôi có mặt ở quảng trường Thánh Phêrô khi ngài kêu gọi Giáo hội và thế giới mở lòng đón nhận hồng ân này. Trong bài giảng tại nhà thờ giáo xứ Vatican – Thánh Anna – và bài huấn dụ từ cửa sổ Dinh Tông tòa trước 300.000 người, ngài nhắc lại trải nghiệm của mình vào ngày 21 tháng 9 năm 1953. Tin Mừng hôm đó là về việc Chúa Giêsu tha thứ cho người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (Gioan 8:1-11). Và Đức Thánh Cha, bằng tiếng Ý hùng hồn khiến tôi rơi lệ, đã nói những lời mà tôi không bao giờ quên:

“Chúa không bao giờ mỏi mệt trong việc tha thứ. Không bao giờ! Chính chúng ta mới mỏi mệt khi xin Ngài tha thứ. Chúng ta hãy xin ơn đừng bao giờ mỏi mệt trong việc xin điều mà Thiên Chúa không bao giờ mỏi mệt để ban.” 

Về sau trong triều đại mình, ngài nói rằng “toàn bộ Tin Mừng, toàn thể Kitô giáo” nằm trong niềm vui của Thiên Chúa khi tha thứ cho chúng ta. “Sứ mạng sâu xa nhất của Chúa Giêsu,” ngài nói, “là cứu chuộc tất cả chúng ta là tội nhân.” Lòng thương xót là “sứ điệp quyền năng nhất” của Thiên Chúa, là “tên gọi” và “chứng minh thư” của Ngài. Ngài nói thêm rằng lòng thương xót là “nền tảng của đời sống Giáo hội” và “nhiệm vụ căn bản” của Giáo hội. Đó là “sức mạnh có thể cứu con người và thế giới.” 

Với những xác tín đó, ngài đã công bố một Năm Thánh Lòng Thương Xót vào năm 2015-2016 để giúp Giáo hội “tái khám phá ý nghĩa của sứ mạng mà Chúa đã trao cho Giáo hội vào ngày Phục Sinh: trở thành dấu chỉ và khí cụ của lòng thương xót của Chúa Cha.” Ngài thành lập “Các Nhà Truyền Giáo của Lòng Thương Xót” – ban đầu khoảng 1.100 linh mục trong số 410.000 linh mục toàn thế giới – để trở thành “những nhà giảng thuyết thuyết phục về lòng thương xót” và “dấu chỉ sống động về sự sẵn sàng đón nhận của Chúa Cha đối với những ai tìm kiếm sự tha thứ” qua việc chuyên tâm giải tội. Ngài ban cho họ những năng quyền đặc biệt để tha những hình phạt và tội lỗi vốn chỉ dành cho Tòa Thánh. 

Kết thúc Năm Thánh, ngài gia hạn các năng quyền này vô thời hạn, và trong Tông hiến mới của ngài về Giáo hội công bố năm 2022, ngài đưa các Nhà Truyền Giáo của Lòng Thương Xót trở thành một phần vĩnh viễn trong cơ cấu của Giáo hội. 

Trong suốt triều đại giáo hoàng, ngài luôn chú ý đặc biệt đến những người ngài cho là cần lòng thương xót của Chúa nhất: những người ở “ngoại biên hiện sinh,” những con chiên lạc hơn là những người còn ở trong đàn. Ưu tiên cho một người hơn 99 người (Luca 15:3-7) thường khiến nhiều tín hữu hoang mang và thất vọng, khi Đức Giáo hoàng dành thời gian gặp gỡ các phóng viên vô thần, người Công giáo bỏ đạo, các nhà phê bình Giáo hội, nhà hoạt động LGBTQ, chính trị gia ủng hộ phá thai, các giáo sĩ bê bối và nhiều người khác, thay vì gặp gỡ các thành viên đạo đức của Giáo triều, giám mục đoàn hay đoàn chiên. 

Dùng chính hình ảnh quen thuộc của Đức Giáo hoàng Phanxico, dường như đôi khi ngài “mang mùi chiên lạc và chiên đen” rõ ràng hơn cả những con chiên đã được rửa trong Máu Chiên Thiên Chúa và đang cố gắng bước theo tiếng của Người Mục Tử Nhân Lành. 

Tuy vậy, sự quan tâm đến chiên lạc không có nghĩa là ngài không biết đến hay khoan dung với tội lỗi của họ. Ngài nhiều lần phân biệt giữa “tội nhân” và “kẻ sa đọa.” Tội nhân là người nhận ra mình sa ngã và cần được tha thứ; kẻ sa đọa là người cố chấp trong tội lỗi, coi tật xấu là nhân đức và không hối cải. 

Ngài viết: “Lòng thương xót vẫn hiện hữu, nhưng… nếu bạn không nhìn nhận mình là tội nhân, thì có nghĩa là bạn không muốn đón nhận lòng thương xót.” Khi được hỏi về câu nói nổi tiếng “Tôi là ai mà phán xét?” — đưa ra khi trả lời câu hỏi về một linh mục dính líu đến bê bối tình dục đồng tính — ngài làm rõ: “Tôi mong những người đồng tính [có hành vi tình dục] hãy đến xưng tội, hãy ở gần Chúa, và tất cả chúng ta cùng cầu nguyện.” Tuy nhiên, hầu hết các hãng truyền thông đưa tin rầm rộ về câu hỏi ấy lại không nhắc đến lời giải thích của ngài. 

Phải nói rằng, nhiều lần lời nói và hành động của ngài gây lẫn lộn cho sứ điệp về lòng thương xót. 

Dù kêu gọi mọi người đến tòa giải tội và đừng sợ, ngài lại thường xuyên van nài các linh mục nơi công cộng đừng biến tòa giải tội thành “phòng tra tấn” – như thể có những linh mục ác độc tưởng tượng nào đó mà lời nói ấy lại khiến hối nhân yên tâm thay vì lo lắng. 

Hơn nữa, ngài đôi khi dường như khoan dung với những kẻ sa đọa công khai không hối cải – như một số giám mục và linh mục khét tiếng phạm tội lạm dụng tình dục – cũng như các nhà độc tài và chế độ chà đạp nhân phẩm. 

Ngược lại, ngài nhiều khi lại có vẻ khắt khe và thiếu cảm thông với thành viên Giáo triều, các lãnh đạo chính trị bảo thủ, những người yêu thích Thánh lễ Latinh, các linh mục triều và chủng sinh — những người ít khi nhận được sự khích lệ như các bạn đồng tu Dòng Tên của ngài. 

Dù vậy, dù đôi khi sứ điệp của ngài về lòng thương xót có thể bị lu mờ bởi chính những thiếu sót trong thực hành, thì sự nhấn mạnh vào lòng thương xót không nghi ngờ gì là một trong những di sản lớn nhất của ngài. 

Ngài từng nói: Giáo hội “trước hết được mời gọi trở thành chứng nhân đáng tin cậy cho lòng thương xót, tuyên xưng và sống nó như là cốt lõi của mặc khải về Chúa Giêsu Kitô.” Trong suốt đời linh mục và triều đại giáo hoàng của mình, ngài đã cố gắng trở thành chứng nhân ấy và loan báo điều đó. 

Giờ đây, chúng ta phó thác ngài cho chính lòng thương xót mà ngài đã không ngừng rao giảng cho đến cuối đời.

Nguồn: CĐHHAC biên tập theo bài báo này

Không có nhận xét nào: